Kiểm soát lạm phát ở việt Nam-Thực trạng & giái pháp 2

Tổng cục Thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng cả nước tháng 5 với tốc độ tăng 2,21% so với tháng trước, so với tháng 12 năm trước, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 đã tăng 12,07%; so với tháng 5/2010 tăng 19,78%; và bình quân 5 tháng đầu năm 2011 cũng đã tăng 15,09% so với cùng kỳ năm 2010. Nhiều nhóm như lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng đã giảm nhiệt đáng kể so với tốc độ tăng chóng mặt trước đó.Đúng như dự đoán của nhiều chuyên gia, sau 3 tháng liên tiếp tăng mạnh , chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2011 đã có dấu hiệu chững lại và hạ nhiệt nhanh chóng. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 5 của cả nước có mức tăng 2,21% so với tháng trước, mức khá thấp so với con số hơn 3% ở tháng trước đó.Tuy vậy nếu so với tháng 5/2010 mức tăng lại khá cao tới 19,78%, so với bình quân 5 tháng đầu năm 2011 với 5 tháng 2010 là 15,09%. Trong khi ở tháng 4 vừa qua so với cùng kỳ 2010 chỉ ở mức 17,51% và 4 tháng đầu năm so với 4 tháng năm ngoái là 13,95%.

doc39 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2180 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiểm soát lạm phát ở việt Nam-Thực trạng & giái pháp 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải dùng đến các “bài thuốc” đắt giá như phản ứng mạnh bằng chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá.  Đương nhiên các vấn đề nổi cộm sẽ xuất hiện qua các hiện tượng mang tính qui luật như: thanh khoản trong các ngân hàng bị thắt chặt, lãi suất phải dâng cao, các kỳ vọng về tăng trưởng xấu đi, giá cả vốn đã cao lại bị khuyếch đại bởi các yếu tố tâm lý, tiền trong lưu thông luôn có xu hướng tìm nơi trú ẩn vào các vật mang giá trị có tính truyền thống là vàng, bạc, ngoại tệ, bất động sản, nguyên, nhiên vật liệu quí… làm cho khắp các nẻo hàng hoá, dịch vụ đều tăng giá. Nghĩa là chỉ có sức mua của đồng nội tệ bị xuống giá. Nguyên nhân cơ bản : Thứ nhất, nền kinh tế đã có độ mở lớn, nhưng lại nhập siêu cũng lớn (4 tháng đầu năm 2011 nhập siêu tới 4,9 tỉ USD, chiếm 18,5% kim ngạch xuất khẩu). Cùng với sự giảm giá trị đối ngoại của đồng nội tệ (phá giá nội tệ và/hoặc để tỷ giá tăng) thì nguy cơ lạm phát kép là hiện hữu: lạm phát từ bên trong và lạm phát nhập vào từ bên ngoài giống như cuối năm 2007 và năm 2008. Cần nhớ lại nền kinh tế của nước ta suốt hơn 20 năm qua (trừ duy nhất năm 1992 có xuất siêu tuy chỉ được vài chục triệu USD), liên tục là nền kinh tế nhập siêu, trong khi tỷ giá hầu như không đi xuống mà chỉ có xu hướng trườn ngang và đi lên theo chiều giảm giá trị của đồng nội tệ để theo đuổi chiến lược hướng về xuất khẩu, nhưng lại hóa ra chủ yếu làm đắt hóa hàng nhập vào trong nước vì hơn 70% giá trị hàng xuất khẩu của nước ta là hàng gia công, lắp ráp có “ruột” và công nghệ nhập vào từ nước ngoài. Do đó, nhập siêu ở nước ta đồng nghĩa với nhập khẩu lạm phát và làm tăng nợ nước ngoài qui đổi. Những ngày qua do tăng cường kiểm soát tình trạng quản lý ngoại hối bị buông lỏng trong thời gian dài, đã có tác dụng kéo tỷ giá thị trường tự phát về sát thị trường chính thức, nhưng tính bền vững chưa được nhìn thấy rõ từ cơ cấu ngoại thương và cơ chế thị trường. Nếu có bất ổn xẩy ra như triển vọng tăng trưởng xấu đi, thất nghiệp gia tăng và dòng vốn ngoại chảy  ngược ra, đồng nội tệ sẽ lại mất giá mạnh, khi đó sẽ tác động tăng lạm phát cao hơn vì phải bỏ ra nhiều nội tệ hơn để có một đồng ngoại tệ. Thứ hai, về những tác động từ bên ngoài: Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia đã lâm vào cảnh nợ công tăng cao và thất nghiệp gia tăng, nhiều năm liền đã sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích hoạt cho nền kinh tế. Đặc biệt với nền kinh tế lớn nhất thế giới, khi Chính phủ Mỹ liên tục đổ tiền ra, cùng với chính sách hạ thấp lãi suất cơ bản xuống còn 0,25%/năm thì giá trị đồng đô la cũng liên tục “rơi” mạnh xuống so với các đồng tiền mạnh khác - một biểu hiện cụ thể của cuộc chiến tiền tệ, gây hiệu ứng đến toàn cầu và tạo áp lực tăng giá vàng, bạc, hàng hoá tiêu dùng khác tính bằng đồng đô la Mỹ. Áp lực lạm phát do đó lại gia tăng, nhất là với đồng đô la Mỹ, cứ 3 đồng đưa vào lưu thông thì có tới gần 2 đồng lưu thông ở ngoài lãnh thổ Mỹ. Nếu tiếp tục tăng nhập khẩu từ những nền kinh tế có đồng tiền giảm giá thì nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam lại phải “nhập khẩu lạm phát” và/hoặc gây ách tắc cho xuất khẩu đất nước. Thứ ba, tình trạng vòng “luẩn quẩn”: Tổ chức tín dụng thiếu tiền vốn so với cầu tín dụng phải huy động với mức cao hơn mức trần Nhà nước quy định dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng, trong khi thị trường thì thừa tiền để tiêu dùng hàng hoá hợp thị hiếu, làm cho tiền trong lưu thông đổ vào lĩnh vực phi sản xuất, không qua ngân hàng, đọng lại ở thị trường bất động sản rộng lớn nhưng lại bị “đóng băng” do giá cao chơi vơi, chỉ những “đại gia” mới sẵn tiền để sở hữu những vị trí đẹp bằng mọi giá. Thứ tư, tổng cầu quá lớn so với tổng cung của nền kinh tế liên tục bị kéo dài cũng là nguyên nhân cơ bản khiến gia tăng lạm phát. Từ nhiều năm nay, tổng cầu nền kinh tế nước ta đã quá lớn hơn so với tổng cung được biểu hiện qua chỉ tiêu tổng đầu tư xã hội và tiêu dùng cuối cùng đã vượt so với giá trị sản xuất (GDP) từ 15 đến 17% liên tục từ năm 2007 đến nay. Trong khi đó, năng suất lao động quá thấp, vốn đầu tư cho tăng trưởng nhiều làm cho giá thành tăng quá cao, đẩy giá bán tiếp tục tăng. Lạm phát suy cho cùng là bức tranh phản ánh của sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu. Tuy nhiên cơ cấu cung và cơ cấu cầu trong môi trường thị hiếu biến đổi nhanh và qui luật khan hiếm tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất cũng tham gia gây hiệu ứng tới lạm phát. Diễn biến CPI giai đoạn 1996 - 2010 cho thấy lạm phát thường giảm vào tháng 4. Số liệu: GSO Nếu những dự báo này trở thành sự thực, đây sẽ là mức tăng CPI theo tháng cao nhất 15-16 tháng trở lại đây. Biến động của chỉ số này kể từ năm 1996 trở lại đây cũng cho thấy chưa có tháng 4 nào CPI lại tăng cao đến vậy. Ngay cả với năm lạm phát đỉnh cao 2008, chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 của cả nước cũng chỉ tăng 2,2% (khi đó, CPI Hà Nội và TP HCM tăng lần lượt 1,49% và 1,82%).Theo một số chuyên gia, điều này rất đáng quan ngại bởi áp lực tăng giá nguyên liệu đầu vào trên thị trường quốc tế từ nay đến cuối năm được dự báo là rất lớn. e.Tháng 5/2011 Tổng cục Thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng cả nước tháng 5 với tốc độ tăng 2,21% so với tháng trước, so với tháng 12 năm trước, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 đã tăng 12,07%; so với tháng 5/2010 tăng 19,78%; và bình quân 5 tháng đầu năm 2011 cũng đã tăng 15,09% so với cùng kỳ năm 2010. Nhiều nhóm như lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng đã giảm nhiệt đáng kể so với tốc độ tăng chóng mặt trước đó.Đúng như dự đoán của nhiều chuyên gia, sau 3 tháng liên tiếp tăng mạnh , chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2011 đã có dấu hiệu chững lại và hạ nhiệt nhanh chóng. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 5 của cả nước có mức tăng 2,21% so với tháng trước, mức khá thấp so với con số hơn 3% ở tháng trước đó.Tuy vậy nếu so với tháng 5/2010 mức tăng lại khá cao tới 19,78%, so với bình quân 5 tháng đầu năm 2011 với 5 tháng 2010 là 15,09%. Trong khi ở tháng 4 vừa qua so với cùng kỳ 2010 chỉ ở mức 17,51% và  4 tháng đầu năm so với 4 tháng năm ngoái là 13,95%. Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng này đã tăng 3,01%, trong đó lương thực tăng 1,77%; thực phẩm tăng 3,53%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,67%.Chỉ số giá nhóm giao thông tháng 5 vẫn chịu ảnh hưởng từ tăng giá xăng dầu ngày 29/3 và hệ quả từ tăng cước vận tải của doanh nghiệp dịch vụ ngành này. Tuy nhiên áp lực lên chỉ số giá tháng này của nhóm đã thấp hơn rất nhiều nên chỉ còn tăng 2,67%.Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng đã hạ nhiệt nhưng vẫn còn ở mức cao, CPI nhóm này đã tăng 3,19% trong tháng 5. Gas, điện, nước, dầu hỏa, và nhiều loại vật liệu xây dựng tiếp tục tăng giá khiến chỉ số giá nhóm này chưa thể giảm.Với 8 nhóm còn lại, duy nhất CPI bưu chính viễn thông giảm 1,68%, trong khi có tới 4 nhóm tăng trên 1% và 2 nhóm tiến rất sát mức tăng này.Trong tháng, chỉ số giá vàng tăng 1,43%; chỉ số giá USD ngược lại giảm 0,98%. Diễn biến giá của các nhóm. Nguồn: GSO Có thể thấy, mức tăng CPI tháng này đã phá vỡ xu hướng tăng tốc trước đó khi giảm hơn tháng 4/2011 trên 100 điểm phần trăm (hơn 1%). Tuy nhiên, nếu so sánh tương ứng với các tháng 5 về trước thì chỉ số giá tháng này vẫn còn duy trì mức tăng khá cao.Một số nhóm hàng vẫn có mức tăng cao, dù có hạ nhiệt so với tháng trước. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) đã vượt lên dẫn đầu với mức tăng 3,19%. Ở tháng trước nhóm này vẫn xếp thứ 2 sau nhóm giao thông.Có thể thấy, tác động từ việc tăng giá xăng dầu, điện, gas đã khiến các chi phí này tăng lên, bên cạnh đó các chi phí giá đầu vào của các dịch vụ, sản xuất cũng bị đẩy lên.Mức ảnh hưởng tiếp theo là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,01%. Ở tháng trước, nhóm này đã có sự đột biến khi tăng tới 4,50%. Nhóm giao thông ở tháng này có tốc độ giảm đáng kể 2,67%, trong khi ở tháng trước vọt lên dẫn đầu với mức tăng tới 6,04%.Các nhóm khác như thiết bị và đồ dùng gia định; thuốc, dịch vụ y tế; may mặc, mũ nón, giày dép có mức tăng từ 1,02 -1,63% so với tháng trước. Riêng bưu chính viễn thông là nhóm dịch vụ duy nhất giảm 0,02% trong tháng.Chỉ số giá vàng tháng này lại tăng tới 1,43%. Chỉ số USD vẫn giảm 0,98%, cho thấy mức độ can thiệp vào thị trường ngoại hối của NHNN đã phần nào khiến ngoại tệ hạ nhiệt đáng kể. Theo dự báo của Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) và của một số chuyên gia, CPI tháng 6 tới có thể vẫn có xu hướng tăng khoảng 0,7-0,8%. Ông Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc NHNN dự đoán, CPI những tháng tới có thể tăng cao hơn nhiều so với mức chững lại của tháng 5 này. Về các tác động đến chỉ số giá tháng này, đáng chú ý là những điều chỉnh trên thị trường tiền tệ. Theo nhiều nguồn tin, Ngân hàng Nhà nước gần đây đã có động thái mua vào khoảng 1 tỷ USD, đẩy một lượng tiền lớn vào hệ thống ngân hàng làm tăng thanh khoản tiền đồng.Trong khi đó, tín dụng tiếp tục tăng trưởng trước nhu cầu vay vốn còn cao. Ngược lại, huy động vốn của hệ thống ngân hàng vẫn khó khăn với mức tăng trưởng âm thời gian gần đây. Hai trạng thái này đều có thể làm tiền trong lưu thông tăng lên, và đều có thể dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực tới CPI.Trong khi đó, lương tối thiểu tăng từ 1/5 mở rộng khả năng chi tiêu của người hưởng lương và làm gia tăng chênh lệch cung cầu. Một số biến động giá cả thuộc nhóm hàng tiêu dùng thiết yếu phản ánh khá rõ xu hướng này trong tháng 5.Thêm vào đó, chi phí đẩy vẫn trong xu hướng tăng lên, tiếp tục tạo những điều chỉnh trong cơ cấu giá thành sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu.Với các doanh nghiệp, gần như mọi chi phí đầu vào đều đang bị đội lên rất nhanh: lãi suất cao làm tăng chi phí vốn; giá nguyên, nhiên liệu tiếp tục tăng phản ánh vào giá thành; phí vận chuyển, thậm chí chi lương cũng được điều chỉnh tăng thêm, làm gia tăng áp lực điều chỉnh giá bán sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Diễn biến CPI qua các tháng từ đầu năm đến nay. Nguồn: GSC >> CPI tháng 5 có thể tăng khoảng 2% Tháng 5/2011, lạm phát tại Việt Nam tiếp tục tăng mạnh và hiện đã lên gần mức cao trong năm 2008. Khi các yếu tố gây ra lạm phát chưa có dấu hiệu bớt căng thẳng, lạm phát tại Việt Nam có thể chạm mức 20% trong những tháng tới. Dù các nhà hoạch định chính sách đã thắt chặt chính sách và quyết định nâng một số loại lãi suất khá nhiều lần trong năm 2011, cần thêm các biện pháp kiểm soát trong những tháng tới bởi cuộc chiến chống lạm phát còn lâu mới qua. Tháng 5/2011, lạm phát tăng 19,8% so với cùng kỳ, từ mức 17,5% vào tháng 4/2011 và như vậy lạm phát tăng 9 tháng liên tiếp. Nếu tính yếu tố mùa vụ, so với tháng 4/2011 CPI tăng 2,1% trong tháng 5/2011, mức tăng của tháng 4/2011 là 3%.Lạm phát giá thực phẩm tăng tháng thứ 12 liên tiếp, đến tháng 5/2011 tăng 28,3% so với cùng kỳ từ mức 24,4% của tháng 4/2011. Nếu điều chỉnh với yếu tố mùa vụ, giá thực phẩm tháng 5/2011 tăng 3% so với tháng trước sau khi tăng 3,8% trong tháng 4/2011. Hiện nay, vấn đề lạm phát tại Việt Nam vẫn hết sức căng thẳng. Đã 3 tháng kể từ khi chính phủ Việt Nam chuyển hướng chính sách từ tăng trưởng kinh tế sang kiềm chế lạm phát và thực hiện các biện pháp thắt chặt mạnh tay. Công cụ chính sách tài khóa và tiền tệ đều đã được sử dụng thế nhưng cho đến nay tác dụng chưa lớn, ít nhất trên mặt trận chống lạm phát. Giá cả các mặt hàng tại Việt Nam đều tăng, đặc biệt mặt hàng liên quan đến thực phẩm và năng lượng. Dù mức tăng của chỉ số CPI trong tháng 5/2011 giảm nhưng vẫn ở mức độ cao. Hơn thế nữa, CPI tháng 3 và tháng 4/2011 chịu tác động trực tiếp từ việc giá điện và năng lượng được điều chỉnh tăng 2 con số lần lượt vào cuối tháng 2/2011 và tháng 3/2011. Tóm lại, lạm phát tại Việt Nam vẫn chưa được kiềm chế và có thể vượt 20% trong những tháng tới. 2.Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị quyết 11. Nghị quyết này được coi là chiến lược kinh tế của chính phủ cho năm 2011. Nó đưa ra một loạt các giải pháp tập trung chủ yếu vào kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.Trước sức ép về bất ổn vĩ mô trầm trọng từ đầu năm tới nay và những hệ lụy nghiêm trọng đến xã hội nếu các yếu tố bất ổn này không được giải quyết, có thể nói Nghị quyết 11 thể hiện quyết tâm phản ứng nhanh của chính phủ. Nó cũng lần đầu tiên cho thấy chính phủ gạt mục tiêu tăng trưởng sang một bên và chỉ tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô trong năm nay. Trên bối cảnh từ nhiều năm nay Việt Nam luôn đặt nặng mục tiêu tăng trưởng, việc loại bỏ hoàn toàn mục tiêu này khỏi bức tranh kinh tế năm 2011 trong Nghị quyết 11 có thể nói là một bước ngoặt lớn về chính sách. Nghị quyết 11 đã đưa ra 6 nhóm giải pháp để chống lạm phát và ổn định vĩ mô: (1) Quản lý chặt thị trường tiền tệ: kìm giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng của năm 2011 ở mức dưới 20% (chỉ số này cho năm 2010 là 25%), thực hiện kết hối bắt buộc, trước hết là với khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), và quản lý chặt thị trường vàng, tiến tới xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do. (2) Thắt chặt đầu tư công: tăng thu ngân sách nhà nước khoảng 7% – 8% so với dự toán ngân sách 2011 đã được Quốc hội thông qua, giảm chi thường xuyên của 9 tháng còn lại xuống 10%, từ đó giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới mức 5% GDP. (3) Tăng cường quản lý các thị trường hàng hóa: nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng cường quản lý giá. (4) Tăng giá điện và xăng dầu, hỗ trợ các hộ nghèo sau khi điều chỉnh giá điện. (5) Bảo đảm an sinh – xã hội. (6) Đẩy mạnh thông tin – tuyên truyền Thủ tướng quán triệt các Bộ, ngành và địa phương tập trung vào 8 nhóm giải pháp ưu tiên. Thứ nhất, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, ưu tiên cho sản xuất. Chú ý kiểm soát nợ xấu ngân hàng, nhất là nợ xấu liên quan tới bất động sản. Điều hành lãi suất theo mục tiêu kiềm chế CPI dưới 15%. Tiếp tục kiểm soát chặt và quản lý được tỷ giá ngoại tệ và vàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15-16%. Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ giá cả, không để thiếu hàng, ngăn chặn đầu cơ. Đặc biệt giá các mặt hàng thiết yếu, sản phẩm đầu vào của nền kinh tế điều hành theo nguyên tắc thị trường, điều chỉnh phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn theo đúng mục tiêu kiềm chế lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội. Thứ ba, điều hành các chính sách thu, chi NSNN theo hướng giảm bội chi, tiết kiệm chi thường xuyên, bên cạnh đó đảm bảo thực hiện  an sinh xã hội. Thứ tư, thực hiện kiểm soát, hạn chế nhập siêu, có các chính sách hạn chế nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ. Thứ năm, tiếp tục cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư công, tập trung vốn cho các dự án, công trình cấp bách, thiết yếu, trên cơ sở xem xét, giải quyết từng dự án cụ thể, ưu tiên dự án phục vụ sản xuất, an sinh xã hội, phòng chống thiên tai, quốc phòng an ninh. Tiếp tục tháo gỡ thủ tục, tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài. Thứ sáu, quan tâm công tác an sinh xã hội, hỗ trợ tạo công ăn việc làm, xem xét tiếp tục cải cách tiền lương, các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng người nghèo, gia đình chính sách, sinh viên. Thứ bảy, tăng cường công tác an ninh trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. Thứ tám, làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận ở mọi cấp, mọi ngành nỗ lực vượt khó khăn, đạt mục tiêu đã đề ra, thông tin đầy đủ những vấn đề xã hội, dư luận quan tâm. Đến trung tuần tháng 5-2011, Sở Tài chính đã ban hành kế hoạch về một số giải pháp của ngành nhằm kiềm chế lạm phát trên địa bàn, trong đó phấn đấu tăng thu ngân sách Nhà nước, tiết kiệm 10% chi thường xuyên của 9 tháng cuối năm. Tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1348/UBND-KTTC ngày 15-3-2011 về  hướng dẫn các sở, ban, ngành, huyện, thị xã, thành phố, vv... thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại của năm 2011. Tăng cường thu ngân sách, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; thực hiện chính sách  miễn, giảm, gia hạn thời gian nộp thuế, hoàn thuế cho các doanh nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, phấn đấu thu ngân sách Nhà nước năm 2011 vượt dự toán 10%. Sở đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành quyết định về việc quy định tạm thời trình tự, thủ tục xác định giá khởi điểm để đấu giá và giá giao cấp quyền khai thác mỏ vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tạm dừng việc trang bị mới xe ô tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng, giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoaị, văn phòng phẩm,  đi công tác nước ngoài, vv... Đồng thời, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của Nhà nước như đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự  nghiệp công lập thì ngoài dự toán ngân sách Nhà nước đã được giao, phải huy động thêm nguồn thu từ phí, lệ phí, thu từ hoạt động sự nghiệp để bổ sung nguồn chi thường xuyên theo quy định, vv... Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn như quan tâm công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và  xuất khẩu lao động, hoàn thành phân bổ trên 70% kinh phí theo mục tiêu như chính sách chăn nuôi, trồng trọt, chính sách phát triển cây cao su, chính sách thủy lợi phí, chương trình phát triển nông thôn mới, vv... Thực hiện  một số giải pháp chỉ đạo kiểm soát giá, bình ổn thị trường, góp phần kiềm chế lạm phát. Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư tiến hành rà soát các dự án đã được giao kế hoạch đầu tư phát triển năm 2011 để kịp đề xuất với UBND tỉnh  ban hành Quyết định số 1028/QĐ-UBND ngày 4-4-2011 về việc tạm dừng triển khai thực hiện 10 dự án đã được giao kế hoạch đầu tư phát triển năm 2011 với tổng kinh phí 62 tỷ 800 triệu đồng. Được biết, số vốn đầu tư nêu trên của các dự án tạm dừng triển khai thực hiện trong năm 2011 sẽ được ưu tiên tập trung bố trí cho các dự án trong cùng lĩnh vực, cùng chương trình và hoàn thành xây dựng  trong năm 2011. 3.Đánh giá tình hình kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 3.1. Những thành công Việt Nam đã và đang phải đối mặt với áp lực lạm phát nặng nề hơn so với đa số các nước khác trên thế giới. Tất nhiên, lạm phát ở Việt Nam phần lớn do yếu tố toàn cầu, vì giá dầu và lương thực thế giới tăng cao. Bên cạnh đó, cũng có các yếu tố bên trong về tài khóa và tiền tệ. Các biện pháp được Chính phủ thực hiện kể từ sau Tết Nguyên đán nhằm bình ổn kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát là những nỗ lực đáng được khen ngợi. Đặc biệt, Nghị quyết 11 là một bước ngoặt không chỉ trong hoạch định chính sách mà còn trong tư duy chính sách. An ninh năng lượng, an ninh lương thực bị đe dọa, tình hình an ninh chính trị thế giới diễn biến phức tạp, Thủ tướng Chính phủ đánh giá tình hình phát triển KTXH 5 tháng đầu năm đã có những kết quả tích cực. Những kết quả đó có thể thấy rõ trong bài toán ổn định kinh tế vĩ mô, với việc kiểm soát chặt chẽ tiền tệ, tăng trưởng tín dụng, quản lý được thị trường ngoại tệ, vàng, thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, giảm đầu tư công, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, giữ ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại tệ, đảm bảo tốt hơn cán cân thanh toán, cắt giảm đầu tư công mạnh mẽ, góp phần ổn định vĩ mô. Bội chi NSNN được đảm bảo dưới 5% (nếu tính con số tuyệt đối mới ở mức 19% kế hoạch năm), CPI đang có chiều hướng giảm mạnh đà tăng, nhiều mặt hàng đang giảm giá; kim ngạch xuất khẩu tăng ấn tượng tới 32,8% với lượng hàng hóa XK tăng lên đáng kể (hơn 22%). Công tác an sinh xã hội tiếp tục được đảm bảo, các chính sách mục tiêu, hỗ trợ lương thực cho người dân các vùng khó khăn được đẩy mạnh. Công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phòng chống tham nhũng tiếp tục có những kết quả tích cực. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Lê Hoàng Quân cho biết trong 5 tháng đầu năm 2011, mặc dù tình hình kinh tế-xã hội gặp nhiều khó khăn thách thức, nhưng với sự nỗ lực của các các cấp, ngành và các tầng lớp nhân dân, thành phố đã vượt qua khó khăn thách thức để duy trì mức tăng trưởng ổn định. Nổi bật là các ngành dịch vụ đạt mức tăng trưởng khá, trong đó tổng mức bán lẻ ước đạt trên 36,2 nghìn tỷ đồng, tăng 24,9% so với cùng kỳ năm trước; xuất khẩu đạt 2,16 tỷ USD; khách du lịch quốc tế đến thành phố đạt 242.000 lượt người, tăng 10% so với cùng kỳ; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12,4,%; 123 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép với số vốn 1,33 tỷ USD... Các lĩnh vực văn hóa-xã hội cũng được triển khai quyết liệt và đạt nhiều kết quả đáng khích lệ như giải quyết việc làm cho trên 23.900 lao động, an ninh trật tự đảm bảo, cải cách hành chính tiếp tục được thực hiện nghiêm túc, tổ chức tốt các ngày lễ lớn và công tác bầu cử... Sau 3 tháng thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, thành phố đạt được nhiều kết quả như thị trường ngoại tệ và thị trường vàng dần được ổn định, huy động và cho vay vốn nằm trong giới hạn cho phép, tiết kiệm 10% chi thường xuyên với số tiền trên 200 tỷ đồng, tạm dừng mua sắm tài sản trên 212 tỷ đồng, tạm dừng chưa giao vốn cho công trình khởi công mới và công trình chuẩn bị thực hiện với số tiền trên 1,6 nghìn tỷ đồng... Công tác kiểm soát, quản lý giá cả, bình ổn thị trường cũng mang lại kết quả tích cực và các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh được đẩy mạnh, phong trào tiết kiệm điện-nước và thực hiện các chính sách an sinh xã hội được sự hưởng ứng tích cực của các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân trên địa bàn. Báo cáo của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Lê Hoàng Quân cũng nêu bật những khó khăn mà thành phố đang phải tập trung chỉ đạo, đó là chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 (2,38%) có giảm nhưng vẫn còn cao, vốn đáp ứng cho sản xuất đang gặp khó khăn, lãi suất ngân hàng cao ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và tiêu dùng của nhân dân... Thành phố đang tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm hoàn thành kế hoạch đã đề ra của năm 2011, trước mắt ổn định bộ máy nhiệm kỳ 2011-2016, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, đồng thời đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành đúng kế hoạch đối với các dự án trọng điểm trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên,  người đứng đầu Chính phủ cũng lưu ý hàng loạt vấn đề nổi lên, đang là thách thức to lớn trong công tác quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới.Đó là chỉ số lạm phát có chiều hướng giảm nhưng vẫn còn cao; nhập siêu còn lớn, làm sao tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo đời sống người nghèo, thu nhập thấp, lao động phổ thông và các khu vực khó khăn.Bài toán bao trùm lên tất cả là vừa phải mạnh mẽ cắt giảm đầu tư, bình ổn thị trường, kiểm soát tăng trưởng tín dụng, vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng, ổn định các cán cân vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. 3.2.Hạn chế và nguyên nhân Nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2011 xấp xỉ 6,6 tỷ USD, tăng hơn 15% so với cùng kỳ năm 2010. Con số biết nói này đã cho thấy các chính sách hạn chế nhập siêu vẫn chưa hiệu quả và đây cũng là hậu quả của nền kinh tế gia công suốt thời gian qua. . Đây là con số thể hiện sự bất cập khi mà ngay từ đầu năm, chủ trương chống nhập siêu đã được ban hành cùng với hàng loạt biện pháp tiền tệ cũng như hàng rào thuế quan, kỹ thuật thương mại .Theo báo cáo của TCTK, nhập siêu trong 5 tháng xấp xỉ 6,6 tỷ USD, tăng hơn 15% so với 5 tháng năm 2010; nếu không kể xuất khẩu dầu thô thì nhập siêu lên tới 9,6 tỷ USD và tăng hơn 21% so với 5 tháng năm 2010. Riêng trong tháng 5 nhập siêu ước tính là 1,7 tỷ USD.Như vậy, nhập siêu trong tháng 5  tăng cao nhất so với 17 tháng qua. Và đáng lo ngại là xu thế nhập siêu tăng cao liên tiếp trong 5 tháng qua. Diễn biến trong 5 tháng năm 2011 là tăng rất đều đặn, tháng sau tăng cao hơn tháng trước, nhịp tăng nhập siêu 5 tháng đầu năm 2011 cao hơn nhiều nhịp tăng cùng kỳ 2010. Đồ thị 1: So sánh nhịp tăng nhập siêu 5 tháng đầu năm 2011 và cùng kỳ năm 2010 Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu nhóm mặt hàng hàng dệt may, nguyên phụ liệu dệt may và dày dép cộng dồn 5 tháng đầu năm 2011 là 5,394 tỷ USD. Trong đó, mặt hàng sợi dệt  tăng 62%, vải tăng 44,2% so với cộng dồn 5 tháng đầu năm  2010 Điều này cho thấy con số xuất khẩu hàng dệt may tăng 35,6% 5 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm 2010 trong điều kiện gia tăng giá các nguyên liệu đầu vào dường như ít có ý nghĩa đối với nền kinh tế.Điều đáng quan ngại là việc nhập khẩu các mặt hàng nông sản, được coi là một lợi thế của Việt Nam đang có xu hướng tăng đáng kể. Kim ngạch nhập khẩu thủy sản 5 tháng 2011 tăng 47,8% so với cùng kỳ năm 2010, dầu mỡ động thực vật 53%, phân bón 12,4%, cao su 43,7%, gỗ và các sản phẩm từ gỗ 28,6%, thức ăn gia súc,..Theo tính toán thì đến hết tháng 3/2011, số tiền nhập siêu là hơn 3 tỉ USD. Thế nhưng với hàng loạt biện pháp hạn chế nhập siêu được đưa ra, chỉ trong 2 tháng 4 và 5 của năm 2011 đã tăng lên gấp đôi. Con số này là gần 19% và hiện đã vượt mục tiêu kiềm chế 16% do Chính phủ đặt ra.Đến nay, Chính phủ, Bộ Tài chính và Bộ Công Thương đã áp dụng hàng loạt chính sách như dừng mua sắm ôtô công có nguồn gốc NK; hạn chế NK hàng xa xỉ như ôtô, điện thoại di động, rượu, bia, thuốc lá, mỹ phẩm; ban hành danh mục các mặ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKiểm soát lạm phát ở việt Nam-Thực trạng & giái pháp 2011 901-01-2011-31-05-2011).doc
Tài liệu liên quan