Kinh nghiệm một số nước và thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ 2

1-/ Khái niệm tỷ giá, thị trường ngoại hối 2

2-/ Vai trò của tỷ giá 2

3-/ Các loại tỷ giá hối đoái 3

4-/ Những nhân tố tác động tới tỷ giá: 4

5-/ Sự can thiệp điều hành tỷ giá: 5

6-/ Các chế độ tỷ giá trong lịch sử: 9

PHẦN II: KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 13

I-/ KINH NGHIỆM LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC 13

1-/ Đức 14

2-/ Các nước ASEAN và NICs 14

II./ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 15

1-/ Bối cảnh lạm phát và chế độ tỷ giá thời gian qua ở Việt Nam 15

2-/ Chế độ tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay 21

3-/ Ảnh hưởng của chế độ tỷ giá hối đoái ở việt nam hiện nay tới lạm phát tăng trưởng và xuất nhập khẩu 23

PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP XÚC TIẾN VÀ ĐƯA CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ. 25

1-/ Tăng lượng dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước. 25

2-/ Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá. 26

3-/ Các cơ chế quản lý ngoại hối cần được hoàn chỉnh hơn. 26

4-/ Đặc biệt với tình hình hiện nay nên lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá hướng tới bình ổn thị trường tài chính hơn là hướng tới kiềm chế lạm phát cũng như tăng trưởng kinh tế. 27

KẾT LUẬN 29

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2083 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh nghiệm một số nước và thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắn hạn không được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản. Các nghiệp vụ thị trường hối đoái. Thông qua các nghiệp vụ mua-bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp rất quan trọng của Nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Một sự can thiệp hữu hiệu trong đó đồng tiền trong nước được bán để mua tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Thu thêm dự trữ quốc tế; (2) Một sự tăng trong cung tiền tệ; (3) Một sự sụt giá của đồng nội tệ. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước được mua bằng cách bán tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Dự trữ quốc tế giảm; (2) Cung tiền tệ giảm; (3) Đồng tiền trong nước tăng giá. Tuỳ điều kiện mỗi quốc gia mà việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi, qui mô tác động. Với những nước có nền kinh tế phát triển cao, các nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên qui mô rộng lớn, đôi khi mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí thế giới. Việc lựa chọn các thời điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỉ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh là những hoạt động có ý nghĩa quyết định. Nếu chủ quan, thiếu cân nhắc đầy đủ kỹ càng việc lựa chọn này thì hậu quả nhiều khi khó mà lường hết được. Điều chỉnh tỷ giá theo phương pháp này, Chính phủ thường gặp phải phản ứng trái ngược nhau của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong xã hội bắt nguồn tự lợi ích kinh tế. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa những nhà xuất khẩu và nhập khẩu giữa những người đang nắm giữ trong tay số lượng lớn ngoại tệ và những người trong túi chỉ có nội tệ. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một điều kiện không thể thiếu là Chính phủ phải có một lượng dự trữ ngoại tệ đủ sức để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí hay xảy ra các biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là: - Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia (như Anh, Hà Lan,...) - Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái (như Pháp, Mỹ, Thuỵ Sỹ,...) Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng ngoại tệ ít nghiêm trọng. Hơn nữa, việc tạo lập được quĩ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế. Vấn đề phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc giảm thấp sức mua của đồng tiền so với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hoặc giảm của tỷ giá hối đoái. Đây là điểm giống nhau giữa phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhưng không phải không có sự khác nhau. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thường xuyên liên tục của Nhà nước nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên độ dao động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái được sử dụng làm chuẩn. Khác hẳn với phá giá đồng tiền, một biện pháp mạnh, cực đoan, chỉ áp dụng trong những trường hợp hết sức cần thiết. Phá giá không phải là giải pháp đúng cho mọi trường hợp. Nó phải được vận dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thích hợp. Nếu không hiệu ứng tiêu cực của hành động phá giá sẽ đẩy tình hình vào thế khủng hoảng trầm trọng hơn. Bên cạnh giảm giá sức mua đồng nội tệ là việc nâng giá sức mua đồng nội tệ. Nó thường được áp dụng trong các trường hợp: - Giá hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu được xác định thấp so với giá trên thị trường quốc tế. - Hạn chế xuất khẩu do sức ép của các nước bạn hàng nhằm tạo thế cân bằng trong thương mại quốc tế. - Tăng khả năng nhập khẩu, kiềm chế lạm phát. - Ngăn ngừa các loại ngoại tệ đang bị mất giá tràn vào nước mình. Sự can thiệp điều hành tỷ giá trong lịch sử không phải luôn giống nhau. Thực tế mỗi công cụ can thiệp điều chỉnh tỷ giá lại được vận dụng một cách linh hoạt tương ứng với mỗi điều kiện, chế độ tỷ giá cụ thể. Trong lịch sử đã xuất hiện các chế độ bản vị vàng, bản vị đô la, chế độ tỷ giá thả nổi, chế độ tỷ giá linh hoạt,... Các chế độ này sẽ được nghiên cứu ở phần tiếp theo. 6-/ Các chế độ tỷ giá trong lịch sử: Chế độ bản vị vàng: Khi áp dụng chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm bản vị (còn gọi là chế độ bản vị vàng) thì việc lựa chọn phương án xử lý tỷ giá ít phải đặt ra vì chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền ít bị mất giá, tỷ giá xác định qua nội dung vàng của các đồng tiền ít khi bị biến động. Trong chế độ bản vị vàng thì biên độ dao động của tỷ giá là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng (vận tải, bảo hiểm, đóng gói và thủ tục phí,...) giữa các nước hữu quan. Biên độ dao động này gọi là “điểm vàng”. Khi tỷ giá vượt qua điểm vàng thì nước mắc nợ sẽ không dùng đồng tiền quốc gia của mình để mua ngoại tệ dùng vào việc trả nợ mà họ sẽ chuyển vàng ra nước ngoài để trả nợ. Với đặc trưng này, chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, sức mua đồng tiền ít bị biến động. Để biết chế độ bản vị vàng hoạt động như thế nào ta hãy xem xét ví dụ sau: kho bạc Mỹ chấp nhận đổi 1USD lấy 1/20 lạng vàng, ở Anh 1 Bảng đổi được 1/4 lạng vàng. Do đó, tỷ giá hối đoái giữa đồng Bảng Anh và đồng USD Mỹ là 1 Bảng = 5 USD. Bây giờ đồng Bảng Anh bắt đầu tăng giá cao hơn 5 USD. Nếu một người nhập khẩu Mỹ mua thực phẩm ở Anh trị giá 100 Bảng thì họ phải trả nhiều hơn 500 USD so với trước. Song người nhập khẩu có cách lựa chọn khác, đó là mua vàng bằng 500 USD ở Mỹ rồi trả số vàng đó sang Anh để thanh toán tiền hàng. Việc chở vàng sang Anh rẻ hơn khi giá đồng Bảng Anh vẫn cao hơn giá 5 USD (cộng thêm số tiền chi phí vận chuyển vàng từ Mỹ sang Anh). Việc chuyển vàng từ Mỹ sang Anh làm cho cơ số tiền tệ của Anh tăng lên và cơ sở tiền tệ của Mỹ giảm xuống. Kết quả tăng lên trong cung ứng tiền tệ làm tăng mức giá cả của Anh trong khi việc cung ứng tiền tệ của Mỹ giảm xuống làm mức giá cả của Mỹ giảm xuống. Kết quả mức giá tại Anh tăng lên so với mức giá tại Mỹ làm cho đồng Bảng Anh giảm giá. Quá trình này tiếp tục cho đến khi giá trị của đồng Bảng Anh giảm xuống trở lại bằng 5 USD. Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chế độ này tỏ ra có nhiều ưu điểm. Nó có khả năng điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách tự phát, không cần đến sự can thiệp của Nhà nước theo cơ chế: Sự tăng giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông luôn tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm dự trữ vàng kim loại trong nền kinh tế. Chế độ tỷ giá cố định Bretton woods (1944). Theo chế độ này, tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của USD Mỹ (1 USD = 0,888671 gam vàng) và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng ký tại quĩ tiền tệ quốc tế (IMF). Nếu vượt quá biên độ này thì Ngân hàng Trung ương phải can thiệp bằng cách mua vào hoặc bán ra một số lượng USD nhất định. Theo chế độ này, vàng vẫn đóng vai trò trung tâm để so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau qua cái cầu nối là USD (lúc bấy giờ 1 ounce = 35 USD). Từ cuối những năm 50 trở đi, vai trò của Mỹ ngày càng giảm sút trên thị trường thế giới, cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt, dự trữ suy giảm và nợ nước ngoài tăng đã làm cho đồng USD ngày càng mất giá nghiêm trọng. Sự mất giá liên tục của đồng USD làm cho nạn đầu cơ trên các thị trường hối đoái quốc tế tăng lên. Hàng tỷ USD được tung ra trên thị trường để mua cái đồng tiền được giá. Các Ngân hàng Trung ương của các thành viên IMF cũng không đủ sức can thiệp để giữ giá đồng USD theo nguyên tắc tỷ giá cố định Bretton-woods. Trong bối cảnh đó, Mỹ buộc phải phá giá đồng USD. Đồng USD - đồng tiền chủ chốt, chỗ dựa cho các đồng tiền khác, trở nên bất ổn định kéo theo sự sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton-woods. Chế độ tỷ giá thả nổi (Floating rate): Chế độ tỷ giá thả nổi ra đời sau khi chế độ tỷ giá cố định Bretton - woods sụp đổ. Với chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá được hình thành trên cơ sở diễn biến của cung và cầu ngoại hối trong nền kinh tế mà không bị ràng buộc như trước đây. Tỷ giá thả nổi có vai trò rất quan trọng trong điều tiết xuất - nhập khẩu và góp phần làm ổn định trở lại nền kinh tế đang có nguy cơ suy thoái. Thả nổi tỷ giá là xu hướng tất yếu của kinh tế thị trường, song việc áp dụng nó như thế nào lại là vấn đề phải cân nhắc kỹ để lựa chọn. Do đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới còn có những sự khác nhau nhất định nên tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể mà các nước tự lựa chọn cho mình một chế độ phù hợp. Đến nay chế độ tỷ giá thả nổi được chia làm 2 loại: - Chế độ tỷ giá thả nổi tự do. - Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Chế độ tỷ giá thả nổi tự do là chế độ mà tỷ giá hối đoái không có sự can thiệp nào của Chính phủ hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định, tuy nhiên trên thực tế thì hầu như không có chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Chế độ tỷ giá này được áp dụng ở những nước có nền kinh tế phát triển cao, thị trường tài chính phát triển và hoàn chỉnh. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là chế độ mà trong đó cung - cầu ngoại hối là cơ bản, nhưng không phải hoàn toàn, trong những trường hợp cần thiết Chính phủ sẽ có những biện pháp can thiệp nhằm giữ vững sự ổn định sức mua đồng tiền trong nước. Lựa chọn chế độ tỷ giá nào luôn là bài toán hóc búa đối với mọi quốc gia. Thực tế đã chứng minh đó là cả một nghệ thuật. Trong lịch sử, nhiều quốc gia đã thành công trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thích hợp. Bên cạnh đó, không ít quốc gia đã phải trả giá đắt cho việc sai lầm khi lựa chọn chế độ tỷ giá. Qua đây, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích vận dụng vào thực tế ở Việt Nam. Kinh nghiệm lựa chọn chế độ tỷ giá một số nước và thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá ở Việt Nam sẽ được phân tích sâu hơn ở Phần II. PHẦN II KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM I-/ KINH NGHIỆM LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC Chế độ tỷ giá cố định, thả nổi tự do hay thả nổi có quản lý đều có mặt tích cực và mặt hạn chế nhất định. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá nào phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nó phụ thuộc vào mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì. Mỗi chế độ tỷ giá lại có một cơ chế hoạt động riêng. Việc vận dụng sáng tạo, hợp lý chế độ tỷ giá vào nền kinh tế không phải đơn giản, dễ dàng. Thực tế, việc lựa chọn chế độ tỷ giá không hợp lý sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã cho thấy điều đó. 1-/ Đức: Nước Đức lựa chọn cho mình chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước. Chính phủ Đức đã can thiệp điều hành tỷ giá để chống lại khủng hoảng kinh tế (sản xuất giảm tuyệt đối, lạm phát cao, thất nghiệp hàng loạt) đầu những năm 80. Chính phủ Đức mưa toan tìm lối thoát thông qua giải pháp mở rộng xuất khẩu bằng lợi thế phá giá, thế nhưng năm 1980 khi DM mất giá 12% lại là năm Đức có mức xuất siêu thấp nhất (8,9 tỷ DM). Lúc đó ở Đức có hai cách nhìn nhận vấn đề phá giá. Một là, sẽ cải thiện. Hai là, làm giá nhập khẩu tăng, khuyến khích lạm phát lên cao. Đến lượt mình lạm phát tất yếu tác động tiêu cực vào xuất khẩu, sản xuất. Vậy là hiệu ứng phá giá tan mất, tình hình thêm phức tạp. Còn các chủ xuất khẩu Đức thừa nhận phá giá DM hoàn toàn không thể khắc phục khó khăn. Kề từ 1/1980 chưa đầy hai năm, DM đã 5 lần mất giá so với USD với mức đáng kể (14 đến 15%), song tỷ giá lại nhanh chóng quay trở lại mức xuất phát điểm trước khi phá giá. Chiến lược khôi phục kinh tế của Đức lúc bấy giờ thất bại, ngoài các nhân tố nội địa, còn chịu tác động không thể cưỡng nổi từ chính sách đồng tiền nặng của Chính quyền Rigân (vốn từ Đức, Anh “tháo chạy” sang Mỹ, Canada,...). Vấn đề kinh tế của Đức chỉ được giải quyết khi Chính phủ mới của ông Hellmut Kol áp dụng phương sách khác: giảm can thiệp Nhà nước; sử dụng các cơ chế, chính sách tài chính; giảm mạnh thuế; khuyến khích sản xuất nội địa; thực thi chính sách thắt chặt. 3-/ Các nước ASEAN và NICs Các nước ASEAN và NICs theo đuổi chính sách tỷ giá ổn định, hướng về xuất khẩu. Theo đó, việc can thiệp vào tỷ giá của Chính phủ nhằm ổn định tỷ giá, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư nước ngoài. Không một nước nào chủ trương phá giá làm động lực cho xuất khẩu, vai trò của tỷ giá chỉ là hỗ trợ. Việc điều chỉnh tỷ giá ở các nước này có một số điểm chung: Thứ nhất, do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên lúc đầu họ áp dụng nhiều loại tỷ giá, nội tệ định giá cao trong cơ chế cố định. Sau thời kì 1971-1973 thực hiện phá giá, sau đó nhanh chóng thống nhất tỷ giá chính thức và thị trường. Thứ hai, khi đạt được tỷ giá thị trường cân đối, họ áp dụng cơ chế điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu là chính. Các nước gắn nội tệ vào giỏ ngoại tệ mạnh. Thứ ba, các nước nỗ lực ổn định hoá các quan hệ tỷ giá, tỷ giá hối đoái thực tế, có dự trữ ngoại tệ để khống chế biên độ dao động của tỷ giá ở mức thấp. Thứ tư, khi tỷ giá tăng họ điều chỉnh tỷ giá để không cản trở xuất khẩu, song luôn gắn bó việc điều chỉnh này với nhiệm vụ khống chế lạm phát. Thứ năm, nhìn chung đồng nội tệ của các nước này có xu hướng tăng giá ổn định so với USD. Việc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định, ổn định hoá các quan hệ tỷ giá hướng vào xuất khẩu trong thời gian đầu đã phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên việc theo đuổi chế độ tỷ giá này trong một thời gian dài đã dẫn đến những bất cập. Nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua. Khi nợ nước ngoài đến thời kì đáo hạn lại là lúc cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nghiêm trọng. Mặc dù nguồn ngoại tệ lúc này khan hiếm nhưng hoạt động xuất khẩu lại bị chững lại. Do đó nguồn thu ngoại tệ không đủ bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai. Chính phủ các nước vẫn tiếp tục tung dự trữ ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cố định. Lợi dụng tình hình đó, nhà đầu cơ người Mỹ Soros đã đầu cơ vào đồng tiền các nước ASEAN. Khi ngoại tệ khan hiếm tới đỉnh điểm, đồng nội tệ có nguy cơ phải phá giá thì Soros bán khống một lượng lớn nội tệ ra thị trường làm cho đồng bản tệ hoàn toàn mất giá. Chính phủ Thailand phải tuyên bố phá giá đồng Bath, mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, chấm dứt chế độ tỷ giá cố định. Qua các sự kiện khủng hoảng ở Đức, bão táp tài chính ASEAN chúng ta có thể rút ra nhiều bài học bổ ích. Việc theo đuổi, áp dụng chế độ tỷ giá nào là cả một nghệ thuật. Nên chăng Việt Nam sẽ gắn chặt đồng nội tệ với đồng tiền nước khác, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định (như các nước ASEAN) hay sẽ chủ trương thả nổi hoàn toàn tỷ giá và phá giá nội tệ để chống đỡ khủng hoảng, hướng về xuất khẩu. Áp dụng máy móc một chế độ tỷ giá nào đều là sai lầm bởi vì mỗi chế độ tỷ giá đều có mặt mạnh và mặt hạn chế. Việc lựa chọn, áp dụng chế độ tỷ giá như thế nào là hợp lý, phù hợp với đặc thù của Việt Nam sẽ được phân tích kỹ ở phần tiếp theo. II./ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 1-/ Bối cảnh lạm phát và chế độ tỷ giá thời gian qua ở Việt Nam "Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo, lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn quẩn theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này." Ý kiến của TS.Nguyễn Quang A Lạm phát ở Việt Nam được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của một rổ gồm 494 mặt hàng thiết yếu, chia ra làm 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ. Tỷ trọng, tỷ lệ đóng góp vào CPI (còn gọi là quyền số) của sự tăng giá của các nhóm hàng và dịch vụ chính là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống 42,85% (trong đó lương thực 9,86 và thực phẩm 25%); nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng 9,99%; giao thông, bưu chính viễn thông 9,04%; thiết bị đồ dùng gia đình 8,62%; may mặc, mũ nón, giày dép 7,21%  Đóng góp vào CPI của mỗi nhóm hàng bằng sự thay đổi giá của các nhóm hàng đó (so với thời điểm gốc, thí dụ năm trước, tháng trước) nhân với quyền số tương ứng. CPI bằng tổng của những đóng góp đó. Với tỷ trọng gần 43% sự gia tăng giá thức ăn góp phần rất lớn vào CPI ở Việt Nam.Sự đóng góp của thức ăn vào CPI như sau: Hình 1. Đóng góp của thức ăn vào chỉ số giá cả (%, trục bên trái); chỉ số giá tiêu dùng (trục phải) ở Việt Nam. Qua đây ta cũng thấy diễn biến của CPI (so với cùng kỳ năm trước, đường cong tính theo trục bên phải). Có thể thấy đóng góp vào CPI của thức ăn luôn cao (cỡ 50 đến 80%) ở Việt Nam. Theo”FAO Food Price Index”-chỉ số giá thức ăn thế giới nghiên cứu bởi FAO(tổ chức Lương Nông của Liên Hợp Quốc) thì biến động chỉ số giá thức ăn thế giới từ 2005 đến 3-2008 có thể thấy trên Hình 2 dưới đây.   Hình 2: Biến động chỉ số giá thức ăn thế giới (trục hoành: từ tháng 1 đến tháng 12) từ năm 2005 đến tháng 3-2008 (so với mức giá 1998-2000 được lấy là 100), nguồn FAO Có thể thấy từ tháng 10-2006 chỉ số giá thức ăn thế giới bắt đầu tăng nhanh nhưng đến tháng 3-2007 vẫn dưới 140 điểm, nhưng từ tháng 4-2007 đến tháng 3-2008 đã từ 140 lên trên 220. Giá thức ăn trong nước không nhất thiết tăng theo giá thế giới, tuy nhiên do độ mở khá cao của nền kinh tế Việt Nam giá thức ăn trong nước (và đóng góp vào CPI của nó) cũng bắt đầu tăng nhanh từ tháng 4-2007 như có thể thấy trên Hình 1, dù lạm phát vẫn ở mức dưới 8%. Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh theo nhịp độ tăng giá thức ăn thế giới từ tháng 9-2007, nhất là trong 4 tháng đầu năm 2008 khi CPI tháng 4 lên đến 21,42% so với tháng 4-2007(lương thực tăng 25,1%; thực phẩm tăng 15,6% so với tháng 12-2007).  Tất nhiên lạm phát không chỉ do tăng giá thức ăn gây ra, việc tăng giá năng lượng, vật liệu (với quyền số gần 10%) cũng góp phần không nhỏ, và giá thế giới của các mặt hàng đó cũng tăng cao. Tăng trưởng tín dụng, lượng cung tiền cũng góp phần tăng lạm phát. Tuy nhiên nguyên nhân chính của lạm phát trong thời gian qua là sự tăng giá thức ăn và năng lượng trên thế giới đã tác động đến giá của các mặt hàng có quyền số lớn như đã nêu ở trên. Và nếu vậy thì các biện pháp chống lạm phát bằng hình thức thắt chặt chính sách tiền tệ là chưa hoàn toàn trúng.  Vấn đề là ở chế độ tỷ giá hối đoái. Đồng Việt Nam đã được neo vào đồng USD từ lâu. Lấy tỷ giá của đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam, Philippines (phil), Trung Quốc (China), Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho tỷ giá tương ứng ở tháng 1-2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh). Biến động tỷ giá như vậy từ 1-2005 đến tháng 4-2008 được biểu hiện trên Hình 3 dưới đây: Hình 3: Tỷ giá VND/USD giai đoạn tháng 1/2005 đến tháng 9/2007 Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác (như Euro, Yên hay Bảng Anh) và cũng mất giá so với các đồng tiền của Philippines, Trung Quốc,  Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã lên giá so với USD (Pillipines cỡ 27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ 20% vào tháng 4-2008 so với tháng 1-2005) như có thể thấy trên hình 3. Ngược lại đồng Việt Nam vẫn bị neo vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so với USD).  Ngoài ra chính chế độ tỷ giá hối đoái này đã khuyếch đại tác động của sự tăng giá thức ăn và năng lượng thế giới lên giá cả ở Việt Nam và gây ra lạm phát tăng nhanh so với các nước đó (hình 4). Hình 4. Lạm phát ở Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia Theo cách nghĩ của lý thuyết kinh tế truyền thống đồng nội tệ (VND) yếu sẽ kích thích xuất khẩu, VND mạnh (lên giá) sẽ kích thích nhập khẩu và gây khó khăn cho xuất khẩu. Tuy nhiên cách suy nghĩ này không hoàn toàn đúng. Với đồng VND yếu (xem hình 3) xuất khẩu của Việt Nam đúng là đã tăng trưởng rất ngoạn mục (năm 2007 tăng  22,5%, 4 tháng đầu năm 2008 tăng 27,6% (tất cả đều được tính bằng USD nếu trừ đi phần USD mất giá thì thành tích tăng trưởng xuất khẩu chưa hẳn đã tốt). Tuy nhiên nhập khẩu còn tăng nhanh hơn nhiều, 44% năm 2007 và 71% trong 4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, làm cho nhập siêu ở mức báo động.Ta có thể thấy cách nghĩ truyền thống đã đơn giản hóa vấn đề và không thể đứng vững Ngoài ra sự bất ổn của kinh tế Việt Nam thời gian qua (lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, thị trường tiền tệ - tài chính chao đảo) đã khiến nhiều doanh nghiệp hoạt động trong môi trường đầy biến động, không dự báo được, không thể sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Nhiều doanh nghiệp thua lỗ hoặc lợi nhuận thấp, phải thu hẹp sản xuất kinh doanh. Một số không ít bị đóng cửa, phá sản hoặc tạm ngừng kinh doanh để chờ thời. Không chỉ các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa - dịch vụ thông thường, mà cả các doanh nghiệp là tổ chức tài chính, như các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm cũng gặp những khó khăn lớn. Khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới đang lan rộng và tác động xấu đến tất cả các nước, trong đó có Việt Nam. Cuộc khủng hoảng này cộng hưởng với những bất ổn vĩ mô và suy giảm sản xuất kinh doanh trong nước, đang và sẽ đặt ra những khó khăn ngày càng lớn cho doanh nghiệp. Những dấu hiệu được cảnh báo những ngày gần đây càng bộc lộ rõ, như xuất khẩu khó khăn; khan hiếm dần nguồn vốn ngoại, tỉ giá USD tăng; doanh nghiệp không mặn mà vay vốn ngân hàng, mặc dù lãi suất giảm (tuy vẫn còn cao) vì không chọn được phương án kinh doanh trước quá nhiều bất ổn bên trong và bên ngoài 2-/ Chế độ tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay Chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý điều tiết của Nhà nước là thích hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta hiện nay. Vì nó cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập vừa tuân theo quy luật cung - cầu thị trường vừa phát huy vai trò quản lý, điều tiết linh hoạt của Nhà nước để đạt được mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế. Với cơ chế điều hành tỷ giá mới, chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết ở nước ta hiện nay càng có cơ hội phát huy hiệu quả. Ngày 25/2/1999 NHNN Việt Nam đã công bố hai quyết định mới về tỷ giá: Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ. Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ. Từ ngày 26/2/1999, NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (TTNTLNH) của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Căn cứ vào đó các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vượt quá 0,1% so với tỷ giá này. Chúng ta dễ nhận thấy những ưu điểm của cơ chế tỷ giá này: Một là, tỷ giá ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày là tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH, điều này phản ánh tỷ giá được hình thành một cách khách quan hơn, phản ánh đúng hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Hai là, tỷ giá mà ngân hàng Nhà nước công bố gần gũi với giá thị trường tự do. Như vậy, khoảng cách giữa giá thị trường tự do và giá của các ngân hàng thương mại là nhỏ. Ba là, Bản thân tỷ giá tự nó đã được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay chính nhu cầu của doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung cầu ngoại tệ được thoả mãn, không gây ra “cơn sốt” ngoại tệ. Bốn là, cơ chế điều chỉnh tỷ giá mới xuất phát từ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên khi công bố tỷ giá không phải chịu sức ép tâm lý, gây hoang mang như việc áp đặt tỷ giá trước kia. Năm là, cơ chế điều chỉnh tỷ giá mới mềm dẻo và linh hoạt hơn, vì thế nó phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần vào sự hoà nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, về lâu dài nếu không tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh các giải pháp bổ trợ cho cách điều hành tỷ giá hối đoái mới, có thể sẽ phát sinh một số vấn đề khó khăn là: Thứ nhất, tâm lý đón chờ phá giá VNĐ vẫn thường trực, gắn liền với cách tính toán và công bố tỷ giá giao dịch bình quân của NHNN, khiến tỷ giá thực tế của TTNTLNH luôn ở xu hướng tăng thêm với mức được phép là 0,1% tạo thành cấp số luỹ tiến liên tục mũ n của hệ số 1,001. Thứ hai, để khắc phục tình trạng này NHNN phải sử dụng quỹ ngoại tệ để can thiệp nhằm kiềm chế tỷ giá giao dịch thực tế của TTNTLNH, trong khi khả năng dự trữ ngoại tệ rất mỏng. Thứ ba, do TTNTLNH chưa phát triển hoàn hảo, liều lượng dự trữ ngoại tệ bỏ ra can thiệp còn ít do đó kiểm soát dao động tỷ giá chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp, cơ chế điều hành tỷ giá mới vẫn còn độ cứng nhắc cao. Thứ tư, việc bỏ hẳn ấn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ đưa đến khó khăn nhất định trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh tế như: cán cân thanh toán vãng lai, tổng cung, tổng cầu tiền tệ của nền kinh tế, thu chi ngân sách... Thực tế trên đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cấp bách quan trọng là phải tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế của cơ chế điều hành tỷ giá đồng thời phát huy những mặt tích cực của cơ chế này. 3-/ Ảnh hưởng của chế độ tỷ giá hối đoái ở việt nam hiện nay tới lạm phát tăng trưởng và xuất nhập khẩu Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả. Một quan hệ vòng tự tăng cường lẫn nhau như vậy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5978.doc
Tài liệu liên quan