Kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng ở miền tây

7) CÁC BỆNH THƯÒNG GẶP KHI NUÔI THẺCHÂN TRẮNG

Mặc dù đã làm tốt công tác thảgiống, nuôi dưỡng, kiểm tra ao nuôi hằng

ngày, nhưng nhất thiết phải chú trọng công tác phòng trừdịch bệnh, nhất là

khoảng thời gian 30-60 ngày sau khi thảgiống là giai đoạn tôm rất dễmắc

bệnh.

Trong quá trình nuôi phải triệt đểáp dụng các biện pháp dựphòng như:

trộn thuốc vào thức ăn cho tôm ,sửdụng thuốc tiêu độc, tiến hành điều tiết

môi trường sinh thái cho phù hợp với từng thời kì sinh trưởng của tôm

Định kì cho tôm ăn thức ăn đã tẩm thuốc tiến hành khi thấy tôm phát sinh

những bất lợi, hay chất lượng nứơc trong ao không tốt. Ngài tác dụng ngăn

ngừa dịch bệnh phát sinh, laọi thức ăn có tẩm thuốc này có thểtăng cường

thểchất ởtôm. Nhưng cũng không vì thếmà dùng lạm dụng thuốc, và tránh

dùng một loại thuốc thường xuyên

pdf14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3662 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng ở miền tây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sú. Mô hình nuôi phổ biến có năng suất cao là mô hình ít thay nước. Diện tích từ 0,5 đến 1 ha. Hình dạng của ao là hình vuông, hình tròn hoặc hình chữ nhật, chiều dài/chiều rộng là 2/1, thuận tiện cho việc tạo dòng chảy trong ao khi đặt máy quạt nước dồn chất thải vào giữa ao để thu gom và tẩy dọn ao. Ðáy ao bằng phẳng, có độ dốc khoảng 15oC nghiêng về phía cống thoát. b) Ao chứa - lắng Khu vực nuôi phải có ao chứa - lắng để trữ nước và xử lý nước trước khi cấp cho các ao nuôi. Diện tích ao chứa - lắng thường bằng 25 - 30% diện tích khu nuôi, đáy ao chứa - lắng nên cao bằng mặt nước cao nhất của ao nuôi để có thể tự cấp nước cho ao nuôi bằng hình thức tháo cống mà không cần phải bơm. Nước lấy vào ao chứa - lắng là nước biển qua cống hoặc bơm tuỳ theo mức thuỷ triều của vùng nuôi. Nếu độ mặn quá cao nước biển phải pha đấu với nước ngọt để hạ độ mặn theo yêu cầu của kỹ thuật nuôi. c) Ao xử lý thải Khu vực nuôi còn cần phải có ao xử lý nước thải, diện tích bằng 5 - 10% diện tích khu vực nuôi để xử lý nước ao nuôi sau khi thu hoạch thành nước sạch không còn mầm bệnh mới được thải ra biển. d) Mương cấp, mương tiêu Mương cấp và mương tiêu để cấp cho các ao nuôi và dẫn nước của ao nuôi ra ao xử lý thải. Mương cấp cao bằng mặt nước cao của ao nuôi và mương tiêu thấp hơn đáy ao 20 - 30 cmm để thoát hết được nước trong ao khi cần tháo cạn. Hệ thống mương cấp mương tiêu khoảng 10% diện tích khu vực nuôi. e) Hệ thống bờ ao, đê bao Ao nuôi tôm thông thường phải có độ sâu của nước 1,5m và bờ ao tối thiểu cao hơn mặt nước 0,5m. Ðộ dốc của bờ phụ thuộc vào chất đất khu vực xây dựng ao nuôi. Ðất cát dễ xói lở bờ ao nên có độ dốc là 1/1,5, đất sét ít xói lở hơn, độ dốc của bờ ao có thể là 1/1. Cần lưu ý là bờ ao không cao, nước nông, sẽ tạo điều kiện cho rong, tảo dưới đáy ao phát triển làm suy giảm chất lượng nước ao nuôi. Một số bờ ao trong khu vực nuôi nên đắp rộng hơn các bờ khác để làm đường vận chuyển nguyên vật liệu cho khu vực nuôi. Ðê bao quanh khu vực nuôi thường là bờ của kênh mương cấp hoặc tiêu nước. Hệ số mái tương tự ao nuôi nhưng bề mặt lớn hơn và độ cao của đê phải cao hơn lúc thuỷ triều cao nhất hoặc nước lũ trong mùa mưa lớn nhất 0,5 - 1m. f) Cống cấp và cống tháo nước Mỗi ao phải có một cống cấp và một cống tháo nước riêng biệt. Vật liệu xây dựng cống là xi măng, khẩu độ cống phụ thuộc vào kích thước ao nuôi, thông thường ao rộng 0,5 - 1 ha, công có khẩu độ 0,5 - 1m bảo đảm trong vòng 4 - 6 tiếng có thể cấp đủ hoặc khi tháo có thể tháo hết nước trong ao. Cống tháo đặt thấp hơn chỗ thấp nhất của đáy ao 0,2 - 0,3 m để tháo toàn bộ nước trong ao khi bắt tôm. g) Bãi thải Tuỳ quy mô khu vực nuôi và hình thức nuôi tôm để thiết kế bãi thải nhằm thu gom rác thải và mùn bã hữu cơ ở đáy ao xử lý thành phân bón hoặc rác thải di chuyển đi nơi khác để chống ô nhiễm cho khu vực. 3) Cải tạo ao nuôi a) Cải tạo đáy ao _ Ðối với ao mới xây dựng xong: cho nước vào ngâm 2 - 3 ngày rồi lại xả hết nước để tháo rửa. Tháo rửa như vậy 2 đến 3 lần sau đấy dùng vôi bột để khử chua cả bờ và đáy ao. Lượng vôi tuỳ theo pH của đất đáy ao : - pH 6 - 7 dùng 300 - 400 kg/ha; - pH 4,5 - 6 dùng 500 - 1.000 kg/ha. Rắc vôi xong phơi ao 7 - 10 ngày lấy nước qua lưới lọc sinh vật có mắt lưới 9 - 10 lỗ/cm2. Gây mầu nước để chuẩn bị thả giống. _ Đối với ao cũ Sau khi thu hoạch xong thì tháo cạn nước, nếu: + Ao có thể tháo cạn nước : Nếu tháo kiệt được thì nạo vét hết lớp bùn nhão rồi cầy xới đáy ao lên trộn với vôi bột mỗi ha 500 - 1.000 kg phơi khô 10 - 15 ngày. Làm như vậy để cho chất độc có thể thoát ra, tạo điều kiện cho một số vi sinh vật có lợi làm việc. + Ao không thể tháo cạn nước: ta dùng phương pháp cải tạo ướt, vẫn rút nước tới mức có thể, bơm bùn, sục đáy để tẩy rửa chất thải. Sau đó bón vôi với liều lượng từ 1.200 - 1.500 kg/ha cho ao với mực nước 10 cm, với ao có mực nước sâu 0,5 - 1m lượng vôi nhiều hơn gấp đôi. Đóng cửa cống, khi thủy triều lên nước bên ngoài cao hơn trong ao thì nước bên ngoài sẽ theo các mao mạch len lỏi vào ao nó sẽ rửa các chất bẩn sâu. Sau đó mở cống tháo cạn nước lần nữa, bón vôi lại với lượng vôi nhiều hay ít phụ thuộc vào chỉ số pH của nước ao. Bón vôi xong yêu cầu chỉ số pH của nước ao phải đạt 8 - 8,3 mới được thả tôm giống để nuôi. Vì tôm này thích pH cao hơn là tôm sú nhưng bón vôi quá liều lượng làm cho nhiệt độ nước lên cao, pH cao, NH3 cao, độc tính lớn dẫn đến bệnh tôm phát triển; + Dùng vôi sát trùng xong không được bón phân urê; phân urê làm tăng NH4-N trong nước, phá hoại tổ chức mang của tôm, cản trở sự vận chuyển máu làm tôm bị chết. Lưu ý : - Quá trình tháo nước ao cũ phải kết hợp sục bùn làm sạch ao, vét bớt bùn ô nhiễm ở đáy ao; -Quá trình tu bổ bờ ao phải bắt diệt hết ếch, rắn, các loại động vật làm hang sống ở bờ ao, lấp các hang hố quanh bờ ao, và làm sạch cỏ xung quanh bờ ao; - Sau khi rắc vôi xong, dùng cào trộn đều khắp đáy ao để diệt hết cá tạp và sinh vật có hại, cày đảo đáy ao cho ôxy hoá lớp bùn đáy; phơi khô 10 - 15 ngày mới cho nước vào ao; khi cho nước cần trộn thêm một ít chế phẩm sinh học và chế phẩm ôxy hoá để khử chất độc và phân giải các hợp chất hữu cơ trong ao; - Nếu đáy ao quá chua, hàm lượng sắt quá cao hoặc khả năng thẩm lậu quá lớn không giữ được nước nên dùng lớp vải nilông nhân tạo lót đáy ao; nếu đáy là đáy thịt, đáy bùn cát có thể cho thêm một lớp cát dày 2 - 3 cm trên lớp vải lót để tôm vùi mình theo tập tính sống của tôm, còn đáy cát bùn, cát thích hợp cho sự phát triển của tôm. b) Diệt tạp Nước lấy vào ao qua lưới lọc để 2 - 3 ngày cho các loại trứng theo nước vào ao nở hết rồi tiến hành diệt bằng saponine với nồng độ 15 - 20 ppm (15-20 g/m3 nước ao). Hay một số chất diệt tạp khác rất hiệu quả có bán ngoài thị trường.Saponine có tên thị trường là sapotech được đóng trong bao nilong bọc giấy, khi dùng đem ra pha nước tạt xuống ao, lượng dùng là 4,5 - 5 g/m2, cho ao có mức nước sâu khoảng 10 cm. Sau 15 - 20 giờ thay nước hoặc cho thêm nước vào ao mới được thả tôm giống. c) Khử trùng nguồn nước Trong nước ao thường có nhiều loại virus, vi khuẩn, nấm, tảo và nguyên sinh động vật sinh ra các loại bệnh cho tôm như bệnh đầu vàng, bệnh đốm trắng, bệnh MBV, bệnh phát sáng, bệnh đóng rong, bệnh đỏ mang, bệnh hoại tử phụ bộ, v.v... Vì vậy, trước khi thả tôm giống cần phải khử trùng nguồn nước. Hoá chất dùng để khử trùng nguồn nước phổ biến là chlorine. Chlorine có hàm lượng Cl 30 - 38%, để lâu sẽ bốc hơi mất tác dụng nên thường phải xác định lại nồng độ cho chính xác trước khi dùng. Nồng độ 2 ppm(2g/m3) có tác dụng diệt khuẩn rất tốt. Ao có mức nước sâu 1m, mỗi ha dùng 195 kg hoà loãng với nước ao phun đều khắp ao. Nếu phun vào những ngày trời dâm mát, tác dụng diệt khuẩn có thể kéo dài 4 đến 5 ngày. Trước khi thả tôm giống phải mở máy quạt nước cho bay hết khí chlo còn lại trong nước. Chú ý, không dùng chlorine ngay sau khi sử dụng vôi sống vì gặp nước chlorine sản sinh ra HCl, vôi sống sinh ra OH- hai thứ trung hoà lẫn nhau làm mất tác dụng diệt khuẩn của từng loại. d) Gây màu nước Màu nước có ý nghĩa rất lớn đối với ao nuôi tôm để : - Làm tăng lượng ôxy hoà tan trong nước; - Ổn định chất nước và làm giảm các chất độc trong nước; - Làm thức ăn bổ sung cho tôm; - Nâng nhiệt và ổn định nhiệt trong ao; - Hạn chế tảo sợi và tảo đáy phát triển; - Hạn chế các loại vi khuẩn gây bệnh phát triển; đảm bảo cân bằng sinh thái vùng nước. Duy trì màu nước: xanh lục, xanh vỏ đậu, nâu vàng .Các màu nước không tốt cho tôm, và cần xử lý ngay để tránh kết quả không tốt: màu vàng, màu xám, màu nước trong, màu xanh đậm, màu nước trong vắt. Ở đây cháu thấy kinh nghiệm của các chú rất phong phú và rất quý báu trong việc điều chỉnh màu nước ngay cả các anh kỹ sư cũng chưa chắc bằng được nên cháu không đề cặp đến cách điêù chỉnh màu nước như thế nào. Vì điều chỉnh màu nước y hệt như tôm sú thôi. Độ trong thích hợp cho tôm phát triển là từ 35-40 cm đo bằng đĩa sechi . e) Các chỉ tiêu hóa học trước khi thả giồng _ Ôxy hoà tan trên 4 mg/l; - pH 8,0 - 8,5; trong ngày không được thay đổi quá 0,4 - 0,5 , vào những ngày mưa lớn thì pH thay đổi phải bón vôi . - Nhiệt độ thích hợp nhất là 20 - 30oC, quá cao không quá 33,5oC, quá thấp không thấp quá 18oC, ngưỡng nhiệt độ thế này thì trong mình đã đáp ứng,nuôi thoải mái. - Ðộ kiềm trong khoảng 100 đến 250 mg/l; - NH4, NO3 không được tăng quá đột ngột dể sinh bệnh cho tôm, - Ðộ mặn 5 - 32 thích hợp nhất là 10 - 25 ;Cũng có thể nuôi ở nước ngọt hóa 1-2 phần nghìn độ mặn nhưng phải hạ từ từ. 4) Thả tôm giống Số lượng giống cho mỗi ao phải thả đủ một lần, tốt nhất là tôm cùng một đợt sản xuất, vì vậy sẽ đảm bảo sự đồng đều và tránh được sự lây lan của mầm bệnh với nhau. Ao nuôi có đủ các điều kiện sau đây thì thả tôm: - Ao đã gây màu nước tốt đủ thức ăn tự nhiên cho tôm; - Chất lượng nước ao nuôi phải đảm bảo tiêu chuẩn TCVN 5943 - 1995; Thời gian thả giống là sáng sớm hoặc chiều mát lúc thời tiết tốt, không thả giống vào giữa trưa hoặc lúc trời mưa to gió lớn, khí hậu thay đổi đột ngột ảnh hưởng tới tỷ lệ sống của tôm. Vì sẽ gây sốc cho tôm, do thẻ chân trắng không phải là giống loài bản địa, với lại post thẻ chân trắng nhỏ hơn nhiều so với tôm sú, nên giai đoạn còn nhỏ cần chăm sóc kỹ, với lại khi vận chuyển đến ao nuôi đã làm tôm mệt cần tránh các tác động không thuận lợi cho tôm. II) Quản lý chăm sóc 1) Bảo đảm oxy hòa tan trong nước: - Bảo đảm lượng ôxy hoà tan trong nước bằng cách sử dụng máy quạt nước; - Từ ngày bắt đầu thả giống đến ngày thứ 20 chỉ phải quạt nước vào ban đêm, những ngày trời râm và khi bổ sung nước ngọt mỗi ngày 2 - 4 tiếng(để tôm nhanh lớn hơn, và dễ lột xác) - Từ ngày thứ 20 đến ngày thứ 40, mỗi đêm tăng lên 4 - 6 tiếng; - Từ ngày thứ 40 trở đi quạt cả ban ngày và ban đêm, thời gian mỗi lần 4 - 6 tiếng, mỗi ngày nên quạt nước từ 12h- 15h vì lượng oxy sinh ra do quang hợp của tảo là rất lớn không tốt cho sức khỏe tôm, và từ 19h- 6h sáng hôm sau vì lúc này hàm lượng oxy thấp do tảo không quang hợp mà sử dụng nhiều oxy hô hấp sinh ra cácbonic. - Nhu cầu máy quạt nước cho ao nuôi : + Thường ao có độ sâu 1,5m diện tích 5000 m2 phải dùng 4 - 6 máy; + Ao sâu 1,5 m trở lên cần 6 - 8 máy, máy đặt cách bờ 4 - 5m. - Nếu nước ao bị xấu đi, sinh vật phù du chết nhiều làm màu nước thay đổi hoặc tôm bị bệnh phải dùng thuốc chữa bệnh thì phải mở máy liên tục cả ngày trừ những lúc cho tôm ăn. 2) Thay nước, bổ sung nước Nói chung các ao nuôi năng suất cao phần lớn thực hiện mô hình ít thay nước. Nhưng trường hợp sau đây phải chú ý cần thay nước (tốt nhất là nước ngọt) : - Màu nước đột nhiên biến thành trong, hoặc biến đen, biến trắng hay các màu khác; - pH dưới 7,5 hoặc trên 9; biến động ngày đêm trên 0,5; - Sau khi chạy máy quạt nước mặt nước xuất hiện nhiều bọt không tan; vật lơ lửng ở trong nước nhiều lên; H2S, NH3, COD vượt quá chỉ tiêu cho phép. - Ðộ trong trên 80cm hoặc quá đục dưới 30cm. Lượng nước thay mỗi ngày không quá 30%. Trong một giờ không quá 10% lượng nước cần thay (nếu muốn tăng lượng nước trong một giờ lên thì trước đó phải tháo một lượng nước trong ao, sau đó vừa thêm nước vừa tháo nước đến lúc đạt độ cao cần thiết thì thôi). Khi tôm lớn đạt cỡ 8 cm thì thêm nước ngọt để hạ độ mặn xuống 10 . V iệc thêm nước ngọt có ý nghĩa rất lớn cho việc phòng bệnh cho tôm vì đa số các loại vi sinh, ký sinh và một số virus gây bệnh cho tôm sống ở nước mặn đều bị chết khi gặp nước ngọt. 3) Biện pháp xử lý H2S và NH4 Ở ao nuôi tôm, hàm lượng NH3 không được quá 0,5 mg/l; H2S không được quá 0,1 mg/l; nếu quá lượng trên tôm sẽ chết hàng loạt.Khi pH tăng cao sẽ tăng tính độc của H2S, khi pH xuống thấp sẽ tăng tính độc của NH3 Biện pháp khống chế H2S và NH3 như sau : + Mật độ tôm giống phải hợp lý, thức ăn cho tôm ăn hằng ngày phải hợp lý; sử dụng vi khuẩn quang hợp bón xuống ao để giảm thiểu ô nhiễm đáy ao; + Chú ý cải tạo đáy ao bằng cách giữa vụ nuôi bón thêm vôi CaCo3 hoặc bột đá để ôxy hoá các chất lắng đọng ở đáy ao; lượng vôi dùng cho mỗi m3 là 30 - 40g; + Dùng thức ăn nuôi tôm chất lượng cao, giảm thiểu ô nhiễm chất nước, ô nhiễm đáy ao. 4) Quản lý thức ăn Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của việc nuôi tôm là thức ăn. Thức ăn tốt chất lượng cao là thức ăn chế biến đúng thành phần, đủ chất, đủ lượng, quá trình phối chế khoa học, vệ sinh, hệ số thức ăn thấp. Thức ăn chất lượng tốt nhưng phải có cách cho ăn khoa học, hợp lý, phù hợp với giai đoạn phát triển của tôm, phù hợp với trạng thái sinh hoạt của tôm, không thiếu, không thừa vừa thúc đẩy tôm lớn nhanh vừa bảo vệ được môi trường ao nuôi, không gây ô nhiễm, không gây lãng phí để đội giá thành của tôm lên cao là không kinh tế.Tôm chân trắng không cần đồ ăn có lượng protein con như tôm sú, 35% protein được coi như là thích hợp hơn cả. Tính toán thức ăn cho tôm hợp lý cần phải nắm vững 5 điểm sau : - Số lượng tôm có trong ao; - Kích cỡ của tôm lớn/bé; - Tình trạng sức khoẻ của tôm và tình hình lột xác của tôm; - Chất lượng nước ao nuôi; - Tình hình dùng thuốc cho tôm trong thời gian qua. Số lượng thức ăn có quan hệ đến chiều dài tôm như sau : + Tôm có chiều dài 1 - 2cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 150 - 200% trọng lượng tôm; + Tôm có chiều dài 3cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 100% trọng lượng tôm; + Tôm có chiều dài 4cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 50% trọng lượng tôm; + Tôm có chiều dài 5cm, lượng thức ăn cho ăn hằng ngày bằng 32% trọng lượng tôm. 5) Những điều cần chú ý khi cho tôm ăn Từ nguyên tắc lượng ít, lần nhiều cần phải chú ý không cho tôm ăn khi : -Thức ăn kém phẩm chất, bị mốc hoặc bị thối ; -Nước ao bị ô nhiễm nặng; -Trời đang mưa to, gió lớn; -Tôm đang nổi đầu; -Tôm đang lột xác. Cho tôm ăn ít khi : Giai đoạn tôm còn nhỏ. Cho tôm ăn nhiều khi : - Giai đoạn tôm bắt đầu trưởng thành đến cuối kỳ nuôi : - Trời nắng ấm, gió nhẹ; - Tôm khoẻ chất nước tốt. Thời gian cho ăn 5 đến 6 lần trong ngày, tỉ lệ thức ăn trong ngày phân bổ như sau + Từ 18h00 đến 19h00 cho ăn 35%; + Từ 23h00 đến 00h00 cho ăn 15%; + Từ 4h00 đến 5h00 cho ăn 25%; + Từ 10h00 đến 11h00 cho ăn 15%; + Từ 14h00 đến 15h00 cho ăn 10%. Nhìn chung, số lượng thức ăn chủ yếu bón về ban đêm chiếm 70 - 80% ban ngày chỉ chiếm 20 - 30%. 6) Cách xác định thức ăn thừa hay thiếu và cách xác định tỷ lệ sống của tôm,quản lý ao và các biện pháp quản lý chất nước, và phòng trừ dịch bệnh. Các CHÚ đã có nhiều kinh nghiệm rất phong phú trong khi nuôi tôm sú, việc xác định ở đây cũng tương đối dễ dàng như tôm sú nên cháu sẽ không đề cập. 7) CÁC BỆNH THƯÒNG GẶP KHI NUÔI THẺ CHÂN TRẮNG Mặc dù đã làm tốt công tác thả giống, nuôi dưỡng, kiểm tra ao nuôi hằng ngày, nhưng nhất thiết phải chú trọng công tác phòng trừ dịch bệnh, nhất là khoảng thời gian 30-60 ngày sau khi thả giống là giai đoạn tôm rất dễ mắc bệnh. Trong quá trình nuôi phải triệt để áp dụng các biện pháp dự phòng như: trộn thuốc vào thức ăn cho tôm ,sử dụng thuốc tiêu độc, tiến hành điều tiết môi trường sinh thái cho phù hợp với từng thời kì sinh trưởng của tôm Định kì cho tôm ăn thức ăn đã tẩm thuốc tiến hành khi thấy tôm phát sinh những bất lợi, hay chất lượng nứơc trong ao không tốt. Ngài tác dụng ngăn ngừa dịch bệnh phát sinh, laọi thức ăn có tẩm thuốc này có thể tăng cường thể chất ở tôm. Nhưng cũng không vì thế mà dùng lạm dụng thuốc, và tránh dùng một loại thuốc thường xuyên Tổi giã cũng là dược liệu không thể thiếu trong nghề nuôi tôm vì nó có khả năng diệt khuẩn, trị bệnh đường ruột, kích thích tính ăn của tôm Một khi dịch bệnh đă phát sinh, phải tăng cường thay nước để tiêu độc, sau đó dùng vôi tôi để giảm lượng nitơ-amoniăc (NH3), dùng nấm tươi tạo nên một môi trường sinh thái thích hợp, dưói đây là một số biện pháp cụ thể khi gặp phải tình trạng bất thường ở tôm: 1) Hiện tượng tôm nổi –Các nguyên nhân và biện pháp sử lý • Do thiếu oxy: thường phát sinh và ban đêm hoặc sáng sớm, cách giải quyết rất đơn giản bật máy sục khí . Trường hợp tôm nổi quá nhiều, phải kết hợp sử dụng thuốc tạo khí • Do thiếu thức ăn: trong trường hợp này tôm sẽ quây tụ thành từng đàn, có thể quan sát ruột tôm và tiến hành cho ăn kịp thời • Do bị trúng độc: tôm cũng có thể di chuyể thành từng đàn trên mặt ao và tầng nước giữa.Chất ô nhiễm dưới đáy ao quá nhiều tạo nên khí amoniăc và sunphuahidro, lúc này ngoài việc mở máy sục khí để tăng dưỡng chất khí hòa tan, còn phải tích cực thay nước sử dụng vôi tôi và nấm tươi. Liều lượng sử dụng vôi tôi tùy thuộc vào mức độ nhiễm độc ở đáy ao, thường người ta sử dụng 30-50 kg\mẫu ao.Vôi tôi có tác dụng làm tan các chất hưu cơ trong nước, làm đáy ao bớt ô nhiễm ngoài ra còn làm lượng dưỡng chất trong ao tăng lên. Sử dụng nấm tươi tốt nhất là dùng ngay sau khi sử dụng vôi tôi làm nấm tươi có khả năng phát triển ngăn cản sự sinh sôi nảy nở và phát triển của vi sinh vật có hại, phân giải các chất hữu cơ liều lượng sử dụng là 2- 4kg\mẫu. Chú ý 10-15 ngày sử dụng tảo tươi mới được dùng thuốc tiêu độc. Điều đáng chú ý là phải ngừng cho tôm ăn, vì trúng độc tôm thường có xu hướng bỏ ăn nếu cứ tiếp tục cung cấp thức ăn sẽ tạo sự ô nhiễm mới. Chỉ khi tôm hoàn toàn phục hồi mới tiến hành cho tôm ăn lại 2) Bệnh nhiễm cầu khuẩn ở tôm giống: Biểu hiện của bệnh thường thấy là tôm đứt râu, rụng chân, thối mắt, đen mang, rữa mang, gan sưng đỏ, tuy mức độ nguy hại không cao nhưng nếu không xử lí tốt thì sẽ dẫn đến hiện tượng chết hành loạt, đối với bệnh nhiễm cầu khuẩn ở tôm giống có thể thực hiện các biện pháp tiêu độc, thay nước, trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn kết quả rất khả quan 3) Bệnh nhiễm cầu trùng: Thường phát sinh khi môi trường nước tăng, nước mặn hơn khiến tôm bị rụng đầu, gan sưng tấy –có lúc màu đỏ, có lúc chuyển màu trắng, vỏ tôm mềm vì tíh chất lây lan nhanh nên hay chuyển thành dịch bệnh. Biện pháp xử lí: Tích cực thay nứơc trong nhiều ngày, mỗi ngày thay làm nhiều lần, lượn nước mỗi lần thay ít nước tránh thay nhiều vì sẽ khích thích tôm lột vỏ mà lúc tôm lột vỏ là lúc rất dễ nhiễm bệnh. Cho tôm ăn thức ăn đã trộn a 4) Bệnh đỏ thân: Tôm mắc bệnh đỏ thân như màu hoa hồng, bệnh phát sinh khi nhiệt độ giảm thấp,diễn biến của bệnh thường chậm ít khi tôm chết hàng loạt, biện pháp phòng ngừa là sử dụng tỏi giã, hoặc trộn phu- ran vào thức ăn 5) Bệnh do vi khuẩn gây nên: một bệnh gây ra bởi những vi khuẩn đó là Vibrio (một loại vi khuẩn gây nhiễm trùng máu). Vi khuẩn này thường gây nên bệnh mãn tính, bán cấp hoặc cấp. Nhiều chất hóa học và kháng thể được dùng để điều trị bệnh vibriosis tôm gồm ETDA, FURANACE, FURAZONIDON(NF-180), ERRYTHOMYCIN, TERRAMYCIN và CHOLORAMPHENICOL 6) Bệnh nấm: Những bệnh thường gặp ở tôm đó là larval mycosis, bệnh fusarium vv…Trong nhiều trừơng hợp các nấm có thể gây ra chết hàng loạt.và chết tới 100% trong vòng 48 giờ sau khi nhiễm.Các thuốc phòng trị như: TREFLAN, FORMANGANATE KALI, FURANACE. * NGOÀI RA VỚI KINH NGHIỆM XỬ LÝ CÁC LOẠI BỆNH CỦA TÔM SÚ CŨNG CÓ THỂ ÁP DỤNG RẤT HIỆU QUẢ TRÊN TÔM THẺ CHÂN TRẮNG, NHƯNG CÁC CHÚ NÊN THAM KHẢO Ý KIẾN NHỮNG NGƯỜI CHUYÊN MÔN TRƯỚC KHI SỬ DỤNG III) Kỹ thuật nuôi ngọt hóa tôm chân trắng ở tỉnh QUẢNG TÂY, TRUNG QUỐC Cháu copy kỹ thuật nuôi này của TRUNG QUỐC cho các chú tham khảo. Nếu phù hợp với điều kiện địa phương, gia đình thì các chú nên xem xét vì nuôi trong nước ngọt tốc độ lớn của tôm sẽ nhanh hơn, nhưng bệnh sẽ khó kiểm soát, và dễ bộc phát hơn. Khoảng dao động về độ mặn mà tôm chân trắng Nam Mỹ có thể thích ứng tương đối lớn, tôm có thể sinh trưởng trong nước biển, cũng có thể sinh trưởng trong nước ngọt, nhưng chỉ sinh sôi và phát triển mạnh trong nước biển, nhiệt độ thích hợp là 18 - 35oC, dưới 15oC tôm sẽ chết. Tôm ăn tạp, nhu cầu thức ăn làm từ lòng trắng trứng tương đối thấp, khoảng 35% là phù hợp. Loài tôm này sống trong tự nhiên thường ẩn mình trong cát, hiện đã được chuyển nuôi thành công trong điều kiện nước ngọt, sản lượng tôm nuôi trong đầm, ao có thể đạt tới trên 150 kg/mẫu (1mẫu TQ = 666m2), nếu trong đầm, ao có bùn thì sản lượng tôm thu được còn cao hơn, đạt 770 kg/mẫu. Nó được gọi là loài tôm biển có thể nuôi trong môi trường nước ngọt. 1. Xây ao Khi tiến hành xây dựng ao nuôi phải xem xét nguồn nước cung cấp có đầy đủ không, chất lượng nước phải tốt, không có rác thải và tạp chất, chất đáy tốt, chất đất rắn chắc, khi cần thiết có thể tiến hành cấp thoát nước dễ dàng. Diện tích ao nuôi khoảng 5 - 10 mẫu, thông thường không vượt quá 20 mẫu, mức nước sâu trên 1m, tốt nhất là 1,5 - 1,8m, ao có hình chữ nhật hoặc hình tròn, kè ao phải làm chắc chắn tránh bị sụt vỡ, độ cao chênh lệch giữa cống bơm nước và cống tiêu nước ở đáy ao phải lớn hơn 20 cm, công việc bơm nước và thoát nước phải được thực hiện riêng rẽ, tốt nhất là có hồ nước dự trữ 2. Công tác chuẩn bị trước khi thả giống 2.1 Làm sạch ao nuôi : Ðối với ao mới xây, trước hết nên bơm nước vào ao để ngâm ao 2 - 3 lần, sau đó tiến hành tiêu độc; đối với ao đã sử dụng lâu hoặc nguyên là ao cá cải tạo thành ao nuôi tôm thì phải phơi nắng ao nuôi, làm sạch bùn đất và cỏ dại, sau đó mới tiến hành tiêu độc. Cụ thể cách làm như sau : Từ 15 - 20 ngày trước khi thả giống, bơm 20 - 30 cm nước, hai ngày sau rút hết nước trong ao, dùng 100 - 150 kg vôi sống/mẫu, nếu ao có tính axit mạnh thì làm nhiều lần, sau đó bơm nước vào để ngâm ao 2 - 3 ngày, sau khi xả sạch nước lại bơm vào ao 20 - 30 cm nước, dùng 10 - 15 kg bã chè/mẫu rải đều xuống ao. Khi việc tiêu độc được hoàn tất thì bơm nước vào ao. 2.2 Nuôi sinh vật làm thức ăn cho tôm : Sau khi đã làm sạch ao nuôi, dùng lưới dày 60 mắt chặn miệng cống, bơm 50 - 60cm nước vào ao, tiếp đó bón phân để cải tạo chất nước. Tỉ lệ phân đạm - phân lân là 2 - 3 : 1, ngoài ra mỗi mẫu cần cung cấp thêm 1,5 - 2 kg nước tiểu, hai ngày sau tiến hành quan sát nồng độ phân trong nước, xem xét tình hình thời tiết, từ đó quyết định xem có thể tiến hành tiếp đợt hai chưa, sau 7 - 10 ngày, độ trong của nước phải là 25 - 30 cm, sắc nước phải có màu nâu hoặc màu xanh, lúc này trong ao nuôi đã hình thành hệ sinh vật làm thức ăn cho tôm rất phong phú, đây chính là thời điểm có thể thả giống xuống ao. 2.3 Xử lý độ mặn của nước : Ðối với ao nuôi thuần nước ngọt, trước khi thả giống 1 - 2 ngày nên dùng muối để điều chỉnh độ mặn của nước. Mỗi mẫu thả 100 - 150 kg muối, khiến độ mặn của nước trong ao đạt 300 ppm trở lên, như vậy sẽ làm tăng tỉ lệ sống của tôm nuôi. 3. Chọn giống và nuôi dưỡng 3.1Chọn giống : Khi tiến hành chọn giống phải kiên quyết đưa chất lượng lên vị trí hàng đầu, tôm giống có chất lượng tốt sẽ thể hiện ở : chiều dài thân trên 0,8 cm, bơi lội linh hoạt, biểu hiện bên ngoài sạch sẽ, không bị thương, các đốt bụng hình chữ nhật, mình tôm nở, chắc, tôm giống to đều, không có tật, khả năng bơi ngược dòng nước tốt. 3.2 Ngọt hoá tôm giống Do tôm chân trắng Nam Mỹ là loài tôm trứng nở trong nước biển có tỉ trọng là 1,018 - 1,022, nên nếu như trực tiếp đưa tôm giống vào ao nước ngọt để nuôi sẽ không thu được kết quả mong muốn. Trước tiên phải tiến hành xử lý ngọt hoá tôm giống. Muốn vậy phải tiến hành từng bước một, không thể vội vàng, nếu không việc ngọt hoá tôm giống sẽ bị thất bại. Trong quá trình ngọt hoá, mỗi ngày chỉ giảm tỉ trọng 3 - 4 đơn vị (tức là giảm từ 1,018 xuống 1,014 - 1,010 - 1,006 - 1,003 - 1,001) cho tới khi độ mặn trong ao chỉ còn 2 - 3 thì có thể chuyển sang nuôi nước ngọt. Quá trình ngọt hoá tốt nhất nên tiến hành ở đầm ươm giống. 3.3 Thả giống Kiểm tra nước 2 - 3 ngày trước khi thả giống, chọn một số tôm giống đã được ngọt hoá cho vào túi lưới 40 mắt thả túi xuống ao và quan sát, sau 2 ngày nếu như tỉ lệ sống cao hơn 90% thì môi trường nước đó được coi là thích hợp, nếu tỉ lệ chết cao thì ngừng việc thả giống, xác minh nguyên nhân, chỉ khi đã điều chỉnh lại chất nước cho tốt mới tiến hành thả giống. Nên chọn thả giống vào sáng hoặc chập tối một ngày trời quan đãng, không mưa, tuyệt đối tránh thả giống vào buổi trưa khi ánh nắng mặt trời đang chiếu gắt hoặc hôm thời tiết có mưa. 3.4 Lượng tôm giống cần thả Mật độ tôm giống thả dựa trên cách thức nuôi và điều kiện nuôi. Tại các ao nuôi chất lượng cao có thiết bị sục khí và điều kiện nuôi tốt, lượng giống nên thả là 20.000 - 30.000 con, tại các ao nuôi chất lượng thấp hơn thả 15.000 con, ao chất lượng thấp chỉ nên thả 10.000 con. 4. Công tác quản lý nuôi trồng Công tác quản lý quyết định việc nuôi tôm có thành công hay không. Quản lý tốt, tỉ lệ thành công cao, quản lý không tốt sẽ tạo nên những tổn thất không đáng có, thậm chí việc nuôi tôm bị thất bại. Vì thế, việc quản lý một cách khoa học đượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfky_thuat_nuoi_tom_trang_chan_the_o_mien_tay_147.pdf
Tài liệu liên quan