Luận án Báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính Nhà nước Việt Nam

MỤC LỤC

Danh mục bảng

Danh mục biểu đồ

Danh mục sơ đồ

MỞ ĐẦU. 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG VỀ CHÍNH

SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM. 13

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BÁO CHÍ

TRUYỀN THÔNG VỀ CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ

NƯỚC VIỆT NAM. 42

1.1. Một số khái niệm cần thiết cho cơ sở lý luận. 42

1.2. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí truyền

thông chính sách cải cách hành chính nhà nước Việt Nam . 60

1.3. Vai trò và nhiệm vụ báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành

chính nhà nước Việt Nam . 66

1.4. Mô hình và tiêu chí phân tích báo chí truyền thông về chính sách cải

cách hành chính nhà nước Việt Nam . 73

Chương 2: THỰC TRẠNG BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG VỀ CHÍNH

SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM. 86

2.1. Thông tin cơ quan báo chí trong diện khảo sát . 86

2.2. Thực trạng báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính

nhà nước Việt Nam . 89

2.3. Thành tựu và hạn chế báo chí truyền thông về chính sách cải cách

hành chính nhà nước Việt Nam. 118

Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG VỀ

CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM . 144

3.1. Dự báo báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính nhà

nước Việt Nam . 144

3.2. Giải pháp bảo đảm báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành

chính nhà nước Việt Nam . 151

3.3. Khuyến nghị. 161

KẾT LUẬN . 170

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 172

DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐƯỢC CÔNG BỐ

Phụ lục

pdf333 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiểu sai về CS CCHCNN. 141 Tiểu kết Chương 2 Để tạo nên một tác phẩm báo chí hoàn chỉnh, sự thể hiện về mặt nội dung, hình thức và cách thức thể hiện có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Phân tích nêu trên cho thấy nội dung báo chí phản ánh về CS CCHCNN khá phong phú, toàn diện. Nội dung thông tin về CS CCHCNN được báo chí phản ánh khái quát thành năm vấn đề chính, đó là: (1) Báo chí nêu lên quan điểm, giải pháp về CS CCHCNN; trong đó lượng thông tin về giải pháp nhiều hơn quan điểm. Nội dung cơ bản được đề cập đến là quá trình thay đổi tư duy trong quan điểm của Đảng về CS CCHCNN và quan điểm, giải pháp thực hiện CS CCHCNN của Chính phủ. (2) Báo chí thông tin về những điểm mới của CS CCHCNN trước và sau khi CS được chính thức ban hành. (3) Báo chí đánh giá hiệu quả CS CCHCNN bằng cách nêu lên mặt tích cực cũng như hạn chế khi áp dụng CS vào thực tiễn. Điều này có ý nghĩa góp phần tạo dựng lòng tin của công chúng vào các quyết sách, tạo đồng thuận xã hội khi hiểu được mục đích, ý nghĩa của CS; mặt khác để cơ quan hoạch định CS tiếp thu những điểm còn bất cập của CS để chỉnh sửa, hoàn thiện. (4) Báo chí giám sát việc thực hiện CS CCHCNN trong giai đoạn thực thi CS. (5) Giới thiệu kinh nghiệm, sáng kiến hay thực hiện thành công CS CCHCNN của tỉnh, thành phố điển hình trên cả nước. Nội dung báo chí TTCS CCHCNN được biểu hiện thông qua hình thức, sự hòa hợp giữa nội dung và hình thức tạo nên một chỉnh thể tác phẩm. Hình thức TTCS CCHCNN trên báo chí như đã phân tích ở trên cho thấy: (1) Phần lớn các tác phẩm thể hiện CS CCHCNN ở dạng thông tấn báo chí, cụ thể là thể loại tin tức và cao hơn rất nhiều so với thể loại chính luận báo chí đòi hỏi có sự thể hiện quan điểm, phân tích chuyên sâu của người viết. (2) Tên tác phẩm và cách thức đặt vấn đề khảo sát được cho thấy tên tác phẩm (tít) phản ánh phần lớn nội dung bài viết chiếm tỷ lệ lớn, thấp hơn là lượng tít phản ánh một phần nội dung bài viết và đẩy đủ nội dung bài viết. Một số tít bài thường được sử dụng trong báo chí như: tít xác nhận thông tin sự kiện, tít bình luận, tít đặt câu hỏi, tít giật gân. Trong hai cách thức đặt vấn đề: trực tiếp và gián tiếp thì cách đặt vấn đề gián tiếp được sử dụng phổ biến hơn. (3) Lĩnh vực CS CCHCNN được báo chí phản ánh bao trùm theo sáu nhiệm vụ của Chương trình 142 CCHCNN. Trong từng lĩnh vực, báo chí luôn bám sát đưa tin nhằm cung cấp cho công chúng cái nhìn khái quát hệ thống về CS CCHCNN của Nhà nước nhằm xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cách thức truyền thông cũng cho thấy một số vấn đề về thực trạng báo chí TTCS CCHCNN trong thời gian quan. Đó là: (1) Tần xuất tin bài đăng tải theo thời gian có sự khác biệt; (2) Chuyên mục và khung giờ đăng tải bài viết: Ngoài BND đăng tải theo ngày thì bài viết về CS CCHCNN trên các cơ quan báo chí còn lại chủ yếu đăng tải ngoài khung giờ vàng (3) Xét theo cấp hành chính và phạm vi CS CCHCNN phản ánh: chủ yếu tập trung phản ánh cấp trung ương và các thành phố lớn, địa phương có kinh tế phát triển; phần lớn bài viết tập trung vào giai đoạn thực thi CS, thấp hơn là đánh giá CS và hoạch định CS. Sự phong phú trong nội dung, hình thức và cách thức biểu đạt của báo chí đã giúp cho công tác thông tin CS CCHCNN đạt được những hiệu quả nhất định, thể hiện vai trò trung tâm của báo chí trong công tác TTCS nói riêng và CS CCHCNN nói chung. Thông qua kết quả phân tích định lượng bằng mô hình đa biến, luận án đã chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của báo chí truyền thông về CS CCHCNN Việt Nam. Thành tựu trong nội dung thể hiện được đề cập khá cụ thể. Đó là nội dung báo chí TTCS CCHCNN có ý nghĩa, tác động tích cực đến hiệu quả phản hồi và phù hợp, tác động tích cực đối với hiệu quả phản hồi thông tin; có tính phản hồi và tác động tích cực đối với hiệu quả hình thức phản hồi qua báo chí; có tính phản hồi, tác động tích cực và có ý nghĩa đối với hiệu quả truyền thông tin của các thể loại báo chí; phù hợp, tác động tích cực đối với mức độ hiệu quả truyền thông tin của các thể loại báo chí và nội dung thông tin có ý nghĩa. Bên cạnh đó, tính phản hồi thông tin của nội dung báo chí TTCS CCHCNN hiệu quả; đáp ứng cơ bản như cầu của công chúng. Kết quả này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản như báo chí đã truyền thông kịp thời và đúng thời điểm quan tâm chính CS; lượng bài viết lớn, thể loại đa dạng, đáp ứng nhu cầu thông tin của người dùng; có sự hài hòa về phân bố lượng bài viết theo phạm vi đề cập và loại hình báo chí. Bên cạnh những thành tựu đã đề cập, trong thời gian qua không thể 143 không nhắc đến những hạn chế cơ bản của báo chí TTCS mà kết quả khảo sát cho thấy như: hình thức và tính phản hồi của thông tin trong báo chí TTCS CCHCNN; quan hệ giữa hình thức thể hiện và mức độ hiệu quả truyền thông tin của các thể loại báo chí không có ý nghĩa thống kê; còn tình trạng thiếu mối liên hệ giữa các cơ quan báo chí trong TTCS CCHCNN với kỳ vọng của người khai thác, sử dụng thông tin cũng như thiếu tính đồng bộ trong TTCS CHCNN chính giữa các cơ quan báo chí nên không đáp ứng kỳ vọng của công chúng. Những hạn chế này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản như số lượng bài viết đề cập trực tiếp đến các nhiệm vụ CS CCHCNN còn khiêm tốn; phần lớn các bài viết đăng ở ngoài khung giờ vàng và dưới loại hình tin tức; chủ yếu tập trung đề cập đến hoạt động CCHCNN ở các thành phố lớn và địa phương có kinh tế phát triển; phân bố không đều theo trong đề cập, phản ánh các khâu trong quy trình CS, các nhiệm vụ của CS. 144 Chương 3 DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG VỀ CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 3.1. Dự báo báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính nhà nước Việt Nam 3.1.1. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Đây là cuộc cách mạng dựa trên nền tảng tích hợp của hệ thống kết nối số hóa vật lý, sinh học với sự đột phá của kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo, hệ thống thực và ảo, đặc điểm cơ bản là kết hợp được với sự mạnh của số hóa và công nghệ thông tin một cách tối ưu. Cuộc cách mạng này đã làm biến đổi toàn diện đời sống xã hội, chi phối đến hoạt động báo chí - truyền thông nói chung và TTCS nói riêng. Ngày 04/5/2017, Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị số 16/CT/TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Điều này đòi hỏi mỗi ngành, lĩnh vực trong đó có báo chí phải nắm bắt được những thay đổi đột phá này để có định hướng và giải pháp phát triển phù hợp trong tương lai. Sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo nên một thế giới phẳng, cho phép các cá nhân sử dụng máy tính cá nhân tiếp cận với các sản phẩm số trên thế giới và phần mềm xử lý công việc trên cùng cơ sở dữ liệu số. Hoạt động báo chí từ chỗ chỉ truyền thông tin một chiều (báo chí truyền thống), tương tác hai chiều (báo điện tử) sang tương tác đa kênh, đa chiều. Thời kỳ “print first” - ưu tiên báo in, khi có tin bài nóng cơ quan báo chí thường “găm” lại, đợi báo in ra rồi mới đưa lên báo mạng điện tử, tiếp đến là “online first”, “mobile firt” và bây giờ là “mobile firt”. Trật tự ưu tiên hiện tại là: Mạng xã hội, phiên bản trên điện thoại di dộng, web và sau đó là các nền tảng truyền thông. Hiện nay, các loại hình báo chí không chỉ cạnh tranh với nhau và còn phải cạnh tranh với đối thủ từ mọi ngóc ngách của không gian ảo như mạng xã hội, web tổng hợp, blog cá nhân, trang hay nhóm truyền thông xã hội. Bên cạnh đó, quy trình báo chí tạo ra tác phẩm TTCS, nghiệp vụ và nội dung, quá trình, phương thức đưa và nhận tin, quy trình biên tập; xu hướng báo chí - truyền thông; nhu cầu và cách thức tiếp cận thông tin của công chúng đều có sự thay đổi theo sự phát 145 triển của công nghệ. Dưới tác động của công nghệ, sự tương tác với CS của người dân diễn ra chủ động và mạnh mẽ hơn. Trước đây, mô hình làm CS truyền thống có một số đặc điểm nổi bật là: 1. Đội ngũ chuyên gia (hay những người tham mưu) giữ vai trò chủ chốt trong thiết kế CS; 2. Quá trình hoạch định CS là một quá trình khép kín, quyền được biết và quyền tham gia của công dân chưa được coi trọng đúng mức; 3. Không thừa nhận tính chính đáng của hoạt động phản biện CS và hoài nghi CS. Với những đặc điểm như vậy, việc thiết kế CS dựa chủ yếu vào kinh nghiệm và trực giác của người làm CS. Hệ quả tất yếu của mô hình này là dễ đưa đến sự sai lầm về CS do bộ phận “tinh anh” kiểm soát quá trình CS nên dễ đưa đến khả năng CS không thể nào phản ánh được toàn diện nhu cầu và kỳ vọng của công chúng, làm cho CS xa rời nhu cầu của công chúng và việc thiết kế CS rất dễ trở thành công cụ của nhóm lợi ích đặc thù. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, người dân được tham gia rộng rãi vào các hoạt động hoạch định CS. Về sau, mô hình CS đã chuyển từ mô hình lý tính sang mô hình xã hội, tính mở của quá trình hoạch định CS như công khai thông tin, phát huy vai trò nêu sáng kiến, tranh luận, thảo luận, tư vấn và phản biện xã hội của các tổ chức xã hội và công dân. Trong quá trình soạn thảo CS, thông qua báo chí, cơ quan chủ trì soạn thảo đã chủ động công khai dự thảo văn bản đề người dân tham gia đóng góp ý kiến. Nhiều phiên họp của Quốc hội khi thảo luận về việc hoạch định CS, xây dựng pháp luật cũng đã được truyền hình trực tiếp đến người dân, Công nghệ đã giúp cải thiện đáng kể mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, gia tăng cơ hội cho tất cả các cá nhân và cộng đồng tương tác với Chính phủ. Báo chí đã tạo ra nhiều kênh đối thoại để người dân có thể chủ động thể hiện mong muốn, yêu cầu của mình; xóa bỏ mọi rào cản về địa lý, địa lý xã hội và những yếu tố bất lợi khác, gắn kết cá nhân, cộng đồng vào quá trình chính trị. Đây là nhân tố quan trọng để nâng cao tính minh bạch, cải thiện chất lượng và quá trình thực thi CS. Bên cạnh những giá trị tích cực của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đối với hoạt động báo TTCS thì nó cũng đặt ra những vấn đề cần được giải quyết. Trước tiên là thách thức đặt ra đối với báo chí trong việc tiếp cận và xử lý các thông tin phản hồi có giá trị của công chúng đối với CS. Sự công khai và 146 lan tỏa thông tin nhanh chóng của báo chí tạo điều kiện mở rộng và tăng cường sự tham gia của công dân vào các chu trình CS. Song một bộ phận công dân do thiếu tinh thần trách nhiệm đã lợi dụng các phương tiện truyền thông để chống phá lợi ích chung, dẫn tới hiện tượng nhiều thông tin phản hồi không cần thiết và tiêu cực về CS xuất hiện tràn lan. Ngược lại, những thông tin có giá trị lại trở nên khan hiếm. Liên quan đến việc cung cấp thông tin CS, việc chia sẻ thông tin có tính hai mặt, đó là: một mặt các CS cần được phổ biến rộng rãi để huy động sự tham gia của mọi tầng lớp trong xã hội, mặt khác nếu không có biện pháp hiệu quả các thông tin liên quan đến bí mật quốc gia rất khó được bảo vệ. Bên cạnh đó, báo chí còn phải đối mặt với thách thức liên quan đến hoạt động định hướng dư luận. Mỗi cá thể trong xã hội đều có thể tạo ra chủ đề hay nguồn tin nào đó trên mạng internet. Thực tế đó khiến cho nhiều thông tin không đúng sự thật liên quan đến CS khó kiểm soát. 3.1.2. Sự phát triển của báo chí truyền thông hiện đại Những tiến bộ vượt bậc của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt sự ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) đã khiến cho báo chí dần thay đổi diện mạo và thực hiện tốt hơn vai trò TTCS bằng việc hiện đại và đa dạng hóa loại hình, phương thức đưa tin. Thuật ngữ báo chí đa phương tiện, báo chí di dộng, báo chí sử liệu và truyền thông hội tụ xuất hiện. Các phương tiện truyền thông truyền thống (phát thanh, truyền hình, báo in) và các phương tiện truyền thông mới đang có xu thế hội tụ với nhau. Xét từ giác độ kỹ thuật, sự tương tác, hội tụ giữa báo in và mạng Internet đã “sản sinh” ra báo mạng điện tử; sự hội tụ giữa truyền hình và mạng Internet sản sinh ra truyền hình giao thức (IPTV); và sự hội tụ giữa phát thanh và mạng Internet tạo ra phát thanh trên Internet (Podcasting). Điều này giúp cho TTCS được thể hiện thông qua nhiều xu hướng truyền thông khác nhau. Tại Việt Nam, báo điện tử đầu tiên ra đời vào năm 1997 và đến nay đã phát triển mạnh mẽ về số lượng, được chia thành hai dạng: thứ nhất là các báo mạng điện tử độc lập như như Vietnamnet (2003), Vnexpress (2002), VNmedia (2003),... Loại thứ hai là các báo mạng điện tử ra đời gắn liền với các tờ báo “mẹ”, là phiên bản của những tờ báo giấy như Tuổi trẻ, Tiền phong, Thanh niên, Lao động 147 Trong khoảng ba thế kỷ trở lại đây, báo chí thế giới đã trải qua sự thay đổi lớn trong giá trị công việc của nhà báo. Sự thay đổi đầu tiên là xu hướng cạnh tranh về tốc độ thông tin khi nhanh nhạy trong nắm bắt và phản ánh thông tin ở thành tiêu chí cốt lõi; tiếp sau đó là giai đoạn mất tin tức của báo chí khi internet ra đời và phát triển, mạng xã hội bắt đầu xuất hiện. Những lý tưởng mà báo chí truyền thống theo đuổi như mức độ theo kịp tin tức đã trở nên lỗi thời, khái niệm về thời gian thực (real time) và trực tiếp (live) cũng không còn là đích đến lớn nhất do báo chí khó có thể cạnh tranh được với đội ngũ “nhà báo công dân” hùng hậu trên mạng xã hội mỗi ngày. Theo đó, sự cạnh tranh của báo chí không chỉ giữa các cơ quan báo chí và các loại hình báo chí mà còn với các phương tiện truyền thông mới, trong đó nổi lên các trang, mạng thông tin xã hội và cá nhân. Báo chí trong thời đại số bị ảnh hưởng rất mạnh bởi các trào lưu và tốc độ chuyển thông tin của internet. Hơn 20 năm trước, thời kỳ web 1.0 gần như không cho phép sự tương tác thông tin. Đến hơn 10 năm gần đây, web 2.0 với sự bùng nổ liên tục của Web, WAP và các OTT (ứng dụng trên nền tảng internet), hàng tỉ người trên thế giới trở nên sống lệ thuộc vào internet. Họ vào mạng hằng ngày để đọc tin tức, chia sẻ thông tin. Thói quen lệ thuộc vào mạng internet này của người dùng khiến sở thích, thói quen đọc của công chúng hiện nay gần như diễn ra chủ yếu trên mạng. 3.1.3. Sự thay đổi về nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng Các phương tiện truyền thông mới đã góp phần tạo ra những nhóm công chúng mới với những nhu cầu ngày càng cao hơn. Cùng với việc các cơ quan báo chí đang phải tự làm mới mình để phục vụ công chúng thì việc tìm hiểu về những thay đổi về nhu cầu, thói quen, tiếp nhận thông tin của công chúng là một vấn đề rất cần thiết. Cách thức tiếp nhận và phản hồi thông tin của công chúng đã thay đổi, từ chỗ bị động, hạn chế kênh tiếp nhận thông tin sang thế chủ động tạo ra một, thậm chí nhiều kênh thông tin của riêng mình. Từ quá trình Gửi - Nhận thông điệp đơn thuần, đến nay, luồng truyền thông có thêm khái niệm mới: Tương tác - một phẩm chất riêng có của các phương tiện truyền thông mới với sự trợ giúp “đắc lực” của công nghệ thông tin và mạng viễn thông. Trong hoạt động 148 TTCS, cách thức tiếp cận thông tin CS của người dân chuyển từ một chiều thụ động sang chủ động và quá trình tương tác diễn ra nhanh, trực tiếp hơn. Trong môi trường quản lý truyền thống, người dân tham gia vào quy trình CS thông qua các đại diện; tuy nhiên trong môi trường điện tử, mỗi cá nhân được thể hiện ý kiến trực tiếp với nhà lập pháp và hoạch định CS, không giới hạn phạm vi và thời gian. Trong quan hệ báo chí, công chúng không còn đứng ở ngôi bị động, chỉ tiếp nhận và phản hồi, mà nhiều khi, họ được đảo vị trí trở thành nguồn tin hay đối tượng kiểm chứng và đánh giá thông tin. Công chúng ngày nay được chủ động cả trong việc tiếp nhận, phân phối, đánh giá thông tin. Ngày nay, nhiều người làm báo chuyên nghiệp coi công chúng, đặc biệt là “cư dân mạng” hay “công chúng mạng” là nguồn tin quan trọng trong quá trình tác nghiệp. Điều này xuất phát từ nhu cầu chia sẻ của công chúng ngày càng cao, họ chia sẻ thông tin báo chí, chia sẻ thông tin mà họ nắm được, hoặc phản hồi thêm các thông tin khác sau bài báo. Nhiều tờ báo phát triển mạnh mảng Bạn đọc và coi đó như một nguồn phản ánh, điều tra quan trọng của mình. Do ảnh hưởng của trào lưu và tốc độ truyền thông tin của internet cùng với hạ tầng 3G, 4G và 5G đã dẫn tới thói quen lệ thuộc vào mạng internet. Họ vào mạng hằng ngày để đọc tin tức, chia sẻ thông tin. Theo số liệu thống kế của tổ chức kinh tế thế giới (Wearesocial, 2019), chỉ trong một năm từ tháng 01/2018 đến tháng 01/2019, dân số thế giới tăng 1,1% tương đương hơn 85 triệu người. Số người sử dụng các thiết bị thông tin tăng hơn 100 triệu người (khoảng hơn 2%), số người sử dụng internet tăng 9,3% (khoảng 368 triệu người), số người kích hoạt tài khoản mạng xã hội tăng 289 triệu người (hơn 9%) và số người sử dụng mạng xã hội bằng thiết bị điện tử cầm tay tăng 298 triệu người (khoảng hơn 10%). Tại Việt Nam, theo báo cáo của NetCitzens, tại các khu vực thành thị, khoảng 50% dân số có truy cập internet. Tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Hai phần ba trong số này sử dụng internet mỗi ngày, với gần 50 giờ trên internet mỗi tháng. Người sử dụng internet nằm trong độ tuổi khá trẻ, tỉ lệ nam giới cao hơn. 40% người dùng là giới nhân viên văn phòng. Sự phát triển của internet và mạng xã hội đã làm thay đổi tương tác của người dân - Nhà nước như một xu 149 thế không thể đảo ngược và khiến cho người dân tham gia ngày càng nhiều vào các cuộc thảo luận chính sách công. 3.1.4. Báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính nhà nước đứng trước bối cảnh và yêu cầu mới của đất nước Sự vận động và phát triển của xã hội đặt ra yêu cầu đổi mới, cải cách phương thức vận hành, quản trị của nhà nước. Môi trường biến động, không chắc chắn, phức tạp đặt ra nhiều thách thức và cơ hội đối với quản trị nhà nước, đòi hỏi việc nâng cao năng lực TTCS trong đó có truyền thông CS CCHCNN, góp phần thúc đẩy quản trị nhà nước nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững. TTCS nói chung và TTCS CCHC nói riêng phải phản ánh, dự báo kịp thời các CS để các nhà quản trị quốc gia có cơ sở khoa học đưa ra những quyết sách quản trị đúng đắn. Ví dụ như đại dịch toàn cầu Covid 19 là một minh chứng cho thấy sự biến động khởi đầu từ khủng hoảng y tế kéo theo khủng hoảng toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Và thực tế báo chí TTCS đã góp phần tích cực giúp chính phủ định hướng dư luận một cách tích cực trong 3 giai đoạn đầu chống dịch, đặc biệt là trong gian đoạn 4 đang diễn ra hiện nay. Nhiều thông điệp được TTCS lan truyền tác động mạnh đến dư luận như “bình thường mới”, “giãn cách xã hội”, “cách ly xã hội”, “tình huống đặc biệt”, “cuộc chiến vacxin”, “ngoại giao vacxin”, “gián đoạn chuỗi cung ứng”, “mở cửa trở lại”, “đóng cửa trở lại”, “kinh tế không tiếp xúc” đủ để nói lên những đóng góp của TTCS trước biến động liên tục làm thay đổi cuộc sống của mỗi cá nhân, tổ chức, cộng đồng. Trong bối cảnh hiện nay, TTCS còn thể hiện năng lực của chính phủ trong việc tạo sự đồng thuận xã hội và nhất quán trong CS khi ứng phó với môi trường đầy biến động, biến cố xảy ra. TTCS kịp thời, chính xác, định hướng tốt dư luận minh chứng cho vai trò, năng lực của nhà nước trong dẫn dắt, kết nối các nguồn lực quốc gia và sự thích ứng của người dân, xã hội vượt qua nghịch cảnh mà họ đang phải đối phó. Chức năng dự báo CS của báo chí trong đó có CSCCHC ngày càng quan trọng. Với sự biến động của môi trường diễn ra liên tục và có nhiều yếu tố bất ngờ, khó lường làm cho sự vật, sự việc, hiện tượng luôn trong trạng thái động, 150 không phải trạng thái tĩnh. Vì vậy, sự việc ngày hôm nay sẽ khác ngày hôm qua và ngày mai hoàn toàn có thể vượt ra khỏi những tiên đoán định trước. Các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển của cá nhân, tổ chức hoàn toàn có thể bị thay đổi trên thực tế do môi trường biến động quá nhanh với nhiều ẩn số, biến số. Cải cách có thể sửa cái sai của ngày hôm qua, nhưng kết quả đúng hôm nay thì ngày mai có thể đã không còn phù hợp. Vấn đề này vừa được giải quyết, nhưng những vấn đề mới nảy sinh xuất hiện nhiều hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian tới, nhà nước ta sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước; kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước được tăng cường; thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, đối thoại, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo... Cải cách tư pháp trên một số lĩnh vực có bước đột phá, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Do đó, CS CCHCNN phải diễn ra liên tục nhằm loại bỏ chức năng và quy trình trùng lặp, tinh giản các dịch vụ dân sự bất tiện và giảm thiểu tham nhũng. CCHCNN liên tục để phân định trách nhiệm của nhà nước, xây dựng bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, linh hoạt, thích ứng nhanh với thay đổi. Để đáp ứng yêu cầu này, trong thời gian tới báo chí TTCS nói chung và CS CCHCNN nói riêng phải phản ánh các vấn đề có tính chất mở đường. Trọng tâm của báo chí TTCS CCHCNN tronng thời gian tới là tiếp tục phản ánh đúng và đầy đủ quan điểm, mục tiêu và nội dung, nhiệm vụ cụ thể về cải cách hành chính tại Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ ban hành chương trình tổng thể CCHCNN giai đoạn 2021-2030. Trong giai đoạn mới của Chương trình cải cách hành chính nhà nước, 6 nội dung được tập trung thực hiện, đó là: Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công và Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Trọng tâm là: Cải cách thể chế, trong đó tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát 151 triển đất nước, trong đó, chú trọng cải cách chính sách tiền lương; xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. 3.2. Giải pháp bảo đảm báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính nhà nước Việt Nam 3.2.1. Những giải pháp cơ bản bảo đảm báo chí truyền thông về chính sách cải cách hành chính nhà nước Việt Nam 3.2.1.1. Số lượng bài viết lớn, phân bố phù hợp theo thể loại báo chí nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của người đọc Như đã trình bày ở chương 2, phần lớn các bài viết đều tập trung ở chuyên mục tin tức, do đó mới chỉ dừng lại ở truyền đạt, phản ánh sự kiện liên quan đến nhiệm vụ hay quy trình CS CCHCNN mà thiếu sự phân thích chuyên sâu [Phụ lục 3]. Trong khi đó, lượng người đọc quan tâm đến tất cả các thể loại báo chí. Kết quả phân tích cho thấy, có 66 người quan tâm đến thể loại tin tức, 66 người quan tâm đến phóng sự, 21 người quan tâm đến bình luận, 36 người quan tâm đến chuyên luận, 37 người quan tâm đến truyện, 34 người quan tâm đến chuyên mục xã luận. Hay có sự khác biệt giữa đối tượng khảo sát quan tâm đến các thể loại báo chí theo tuổi. Lượng người quan tâm đến thông tin TTCS CCHCNN chủ yếu tập trung ở độ tuổi từ 30-40. Rất ít người trẻ quan tâm đến CS CCHCNN. Người có đội tuổi dưới 30 chú ý nhiều đến chuyên mục tin tức và ít quan tâm đến chuyên mục bình luận. Người có độ tuổi từ 30-40 quan tâm nhiều đến tin tức và phóng sự, truyện và xã luận. Từ kết quả này, thiết nghĩ các báo cần chú ý viết bài phải phù hợp với đối tượng quan tâm [Phụ lục 3, mục 3.12]. Kết quả phân tích đồng thời cũng cho thấy, lượng người quan tâm đến các bài viết về nhiệm vụ CS CCHCNN không đồng đều. Có 38 người quan tâm đến CS CC thể chế, 49 người quan tâm đến CS CC thủ tục hành chính, 72 người quan tâm đến CS CC bộ máy hành chính, 36 người quan tâm đến CS nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC. Chỉ có 34 người quan tâm đến CS CC tài chính công và 31 người quan tâm đến CS hiện đại hóa hành chính [Phụ lục 3, mục 3.17]. Như vậy, CS CC thủ tục hành chính và CS CC bộ máy hành chính có số lượng người quan tâm cao nhất. Số lượng đối tượng khảo sát quan tâm các 152 chuyên mục báo chí theo trình độ rất rõ rệt. Quan tâm đến thông tin CS CCHCNN là người có trình độ đại học (162 người). Người chưa có bằng đại học quan tâm nhiều đến các bài viết về CS CC bộ máy hành chính. Thường những người có độ tuổi này quan tâm đến CS CC bộ máy hành chính vì trong số này có những người đang học cũng như định hướng việc làm trong tương lai. Họ muốn có một vị trí việc làm trong bộ máy nhà nước sau khi tốt nghiệp. Người có bằng đại học lại quan tâm đến CS nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC. Có lẽ lý do chính là trong số họ hiện làm trong cơ quan nhà nước quan tâm đến những thay đổi về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, củng cố vị trí việc làm của h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_bao_chi_truyen_thong_ve_chinh_sach_cai_cach_hanh_chi.pdf
  • pdfCông văn.pdf
  • pdfTóm tát luận án tiếng Anh.pdf
  • pdfTóm tắt luận án tiếng Việt.pdf
  • pdfTrang thông tin những đóng góp mới bằng tiếng Anh.pdf
  • pdfTrang thông tin những đóng góp mới bằng tiếng Việt.pdf
Tài liệu liên quan