Luận án Các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo chính quyền tỉnh giai đoạn hiện nay

Trong quy chế làm việc của các BCH đảng bộ tỉnh ở ĐBSH đều có nội dung

về chế độ làm việc và phương pháp công tác. Mỗi tỉnh ủy có một cách thức riêng để

quy định về chế độ làm việc và phương pháp công tác nhưng đều xoay quanh các

vấn đề: chế độ làm việc bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ theo chương trình, kế

hoạch, thiết thực và khoa học; chế độ thông tin; chế độ chuẩn bị và ban hành các

quyết định của Tỉnh ủy và BTV Tỉnh ủy; chế độ tổ chức thực hiện và kiểm tra thực

hiện các quyết định; chế độ báo cáo, thỉnh thị; chế độ đi cơ sở, gặp gỡ, tiếp xúc với

đảng viên và quần chúng; chế độ phát ngôn và giữ gìn bí mật; chế độ tự phê bình và

phê bình; chế độ học tập; chế độ sinh hoạt đảng Một số tỉnh ủy còn quy định rõ

chế độ làm việc của BCH Đảng bộ tỉnh, ủy viên BCH đảng bộ tỉnh; chế độ làm việc

của BTV Tỉnh ủy và ủy viên BTV Tỉnh ủy; chế độ làm việc của Thường trực Tỉnh

ủy và của Bí thư Tỉnh ủy, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Phó Bí thư Chủ tịch

UBND tỉnh, Bí thư Tỉnh ủy hoặc Phó Bí thư Tỉnh ủy là Chủ tịch HĐND tỉnh. Các

tỉnh ủy ở ĐBSH có quy định rõ ràng về quan hệ công tác giữa Tỉnh ủy, BTV Tỉnh

ủy, Thường trực Tỉnh ủy với các cơ quan, tổ chức liên quan. Trong hoạt động lãnh

đạo CQT, Tỉnh ủy quy định rõ quan hệ công tác giữa Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy,

Thường trực Tỉnh ủy với HĐND tỉnh, UBND tỉnh, Đảng đoàn HĐND tỉnh, BCSĐ

UBND tỉnh. Lề lối làm việc, phong cách làm việc của tỉnh ủy ngày càng khoa học

hơn, có nhiều đổi mới, tiến bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của tỉnh ủy.

pdf208 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 399 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo chính quyền tỉnh giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bàn, lĩnh vực, trong đó có việc thay mặt cấp ủy để thực hiện nhiệm vụ giám sát, chỉ đạo, đôn đốc cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Giao 91 cho đồng chí tỉnh ủy viên chủ động triển khai Chương trình kiểm tra, giám sát trong nhiệm kỳ của tỉnh ủy đối với ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kịp thời phát hiện, báo cáo với BTV Tỉnh ủy về những vấn đề phức tạp nảy sinh mới. Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy tăng cường công tác giám sát thường xuyên đối với các tổ chức đảng và đảng viên, tích cực triển khai các chuyên đề kiểm tra, giám sát đối với các cấp ủy trực thuộc theo chương trình, kế hoạch. Các cuộc kiểm tra, giám sát đều phân công ủy viên BTV Tỉnh ủy làm trưởng đoàn, giao cho các cơ quan chức năng thuộc các lĩnh vực và cơ quan ủy ban kiểm tra tỉnh ủy tham gia đoàn, tham mưu, giúp BTV Tỉnh ủy tiến hành các cuộc kiểm tra, giám sát bảo đảm theo kế hoạch của BTV Tỉnh ủy và quy trình quy định của Trung ương. Tỉnh ủy chỉ đạo các tổ chức đảng có thẩm quyền bám sát, chấp hành tốt phương hướng, phương châm, nguyên tắc thủ tục trong việc thi hành kỷ luật đảng, từng bước nâng cao hiệu quả giáo dục kỷ luật đảng trong cán bộ, đảng viên thuộc bộ máy CQT. Việc giải quyết đơn thư tố cáo của đảng viên luôn được tỉnh ủy xác định là nhiệm vụ quan trọng nhằm kịp thời giải quyết các bức xúc của đảng viên và nhân dân, xử lý đảng viên có vi phạm. Nhiều tỉnh ủy ở ĐBSH thực hiện khá nền nếp chế độ nghe báo cáo, cho ý kiến chỉ đạo. BTV Tỉnh ủy ban hành quy trình kiểm tra đối với tổ chức đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền. Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế phối hợp với các ban đảng, các cơ quan liên quan để thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy theo dõi, đôn đốc, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm việc triển khai thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm, nhiệm kỳ để có biện pháp khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, yếu kém trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên trong bộ máy CQT. Trong ba năm (2010-2013), tỉnh ủy Nam Định kiểm tra tổ chức đảng theo 11 chuyên đề, gồm 16 cuộc kiểm tra đối với cấp ủy cấp dưới; thực hiện 05 chuyên đề với 7 cuộc giám sát đối với các tổ chức đảng trực thuộc [132], trong đó có kiểm tra tổ chức đảng trong bộ máy CQT. Nhiều tỉnh ủy trong vùng ĐBSH lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng đối với tổ chức đảng, đảng 92 viên trong bộ máy CQT có tác dụng tăng cường công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng tổ chức đảng, đảng viên, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đảng bộ tỉnh. Công tác sơ kết, tổng kết hoạt động của CQT được các tỉnh ủy ở ĐBSH quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tương đối tốt. Thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức bộ máy và hoạt động của CQT được sơ kết, tổng kết trong các báo cáo hằng năm, báo cáo sơ kết 3 năm, báo cáo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh giữa nhiệm kỳ hoặc nhiệm kỳ, các báo cáo chuyên đề tổng kết 5 năm hoặc 10 năm Thông qua việc sơ kết, tổng kết thực tiễn, các tỉnh ủy ở ĐBSH đúc rút các kinh nghiệm cần thiết trong lãnh đạo CQT. Bảy là, các tỉnh ủy ở ĐBSH coi trọng lãnh đạo CQT bằng quy chế, lề lối, phong cách làm việc. Nhìn chung, các tỉnh ủy ở ĐBSH có nhiều đổi mới, cải tiến trong hoạt động lãnh đạo CQT bằng bằng quy chế, lề lối, phong cách làm việc, tiêu biểu như Tỉnh ủy Hà Nam “thực hiện đúng quy chế, thẩm quyền và nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo các nhiệm vụ chính trị. Thực hiện nghiêm túc chế độ và nguyên tắc lãnh đạo đối với Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban cán sự Đảng Ủy ban nhân dân tỉnh” [38]. Sau mỗi kỳ đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, các tỉnh ủy khẩn trương ban hành quy chế làm việc, tiến hành bổ sung, điều chỉnh các quy định trong quy chế làm việc cho phù hợp với tình hình mới khi xét thấy cần thiết, quy trình xây dựng và ban hành quy chế ngày càng hoàn thiện hơn. Đa số các tỉnh ủy ở ĐBSH thực hiện nghiêm chế độ họp: Tỉnh ủy họp hằng quý, BTV Tỉnh ủy họp hằng tháng, Thường trực Tỉnh ủy họp giao ban hằng tuần; họp đột xuất, bất thường khi cần. Do đó, chất lượng kỳ họp được nâng lên rõ rệt. Sau kỳ họp, ý kiến chỉ đạo của cấp ủy được thể chế hóa thành các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy để các cơ quan thuộc CQT tổ chức thực hiện; một số nội dung sau khi họp lấy ý kiến của Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy tiếp thu sửa chữa, hoàn thiện sau đó gửi xin ý kiến các đồng chí ủy viên một lần nữa trước khi ban hành. Bên cạnh đó, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH bước đầu thực hiện có nền nếp hoạt động giao ban giữa Thường trực Tỉnh ủy, 93 Thường trực HĐND tỉnh, Thường trực UBND tỉnh, Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh. Thông qua hoạt động này, Tỉnh ủy nắm bắt tình hình hoạt động của CQT cũng như những vấn đề phức tạp nảy sinh ở địa phương. Trong quy chế làm việc của các BCH đảng bộ tỉnh ở ĐBSH đều có nội dung về chế độ làm việc và phương pháp công tác. Mỗi tỉnh ủy có một cách thức riêng để quy định về chế độ làm việc và phương pháp công tác nhưng đều xoay quanh các vấn đề: chế độ làm việc bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ theo chương trình, kế hoạch, thiết thực và khoa học; chế độ thông tin; chế độ chuẩn bị và ban hành các quyết định của Tỉnh ủy và BTV Tỉnh ủy; chế độ tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện các quyết định; chế độ báo cáo, thỉnh thị; chế độ đi cơ sở, gặp gỡ, tiếp xúc với đảng viên và quần chúng; chế độ phát ngôn và giữ gìn bí mật; chế độ tự phê bình và phê bình; chế độ học tập; chế độ sinh hoạt đảng Một số tỉnh ủy còn quy định rõ chế độ làm việc của BCH Đảng bộ tỉnh, ủy viên BCH đảng bộ tỉnh; chế độ làm việc của BTV Tỉnh ủy và ủy viên BTV Tỉnh ủy; chế độ làm việc của Thường trực Tỉnh ủy và của Bí thư Tỉnh ủy, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Phó Bí thư Chủ tịch UBND tỉnh, Bí thư Tỉnh ủy hoặc Phó Bí thư Tỉnh ủy là Chủ tịch HĐND tỉnh. Các tỉnh ủy ở ĐBSH có quy định rõ ràng về quan hệ công tác giữa Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy với các cơ quan, tổ chức liên quan. Trong hoạt động lãnh đạo CQT, Tỉnh ủy quy định rõ quan hệ công tác giữa Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy với HĐND tỉnh, UBND tỉnh, Đảng đoàn HĐND tỉnh, BCSĐ UBND tỉnh. Lề lối làm việc, phong cách làm việc của tỉnh ủy ngày càng khoa học hơn, có nhiều đổi mới, tiến bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của tỉnh ủy. 3.2.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm Bên cạnh những thành tựu đạt được trong lãnh đạo CQT, các tỉnh ủy ĐBSH cũng còn một số hạn chế, khuyết điểm sau đây: * Trong thực hiện nội dung lãnh đạo Một là, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH chưa sâu sát trong lãnh đạo CQT thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. 94 Thứ nhất, chưa kịp thời, chưa sâu sát trong lãnh đạo HĐND tỉnh thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của tỉnh ủy thành nghị quyết, quyết định của HĐND tỉnh. Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của các tỉnh ủy đối với HĐND tỉnh trong việc xây dựng nghị quyết của HĐND tỉnh chưa sát sao, nhất là trong chỉ đạo HĐND tỉnh việc xây dựng, thẩm tra, thảo luận, xem xét dự thảo nghị quyết, lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động của nghị quyết. Một số BTV tỉnh ủy chưa chỉ đạo kịp thời về những nội dung quan trọng liên quan đến phát triển KT - XH, an ninh quốc phòng, những vấn đề nhạy cảm phát sinh trên địa bàn đối với HĐND tỉnh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Các kết luận của Thường trực Tỉnh ủy chưa được HĐND tỉnh quán triệt, tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc. Nhiều HĐND tỉnh ở vùng ĐBSH có biểu hiện chậm trễ trong việc cụ thể hóa nghị quyết, chủ trương, định hướng của tỉnh ủy thành các nghị quyết, quyết định của HĐND tỉnh. Các kỳ họp HĐND tỉnh chưa tập trung đề xuất các giải pháp để chỉ đạo UBND tỉnh thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ luật định. Một số tỉnh ủy ở vùng ĐBSH chưa chú trọng lãnh đạo đổi mới quy trình xây dựng, thẩm tra, thảo luận và thông qua dự thảo nghị quyết, quyết định của HĐND tỉnh. Hoạt động phối hợp giữa các chủ thể tham gia quy trình trên còn lỏng lẻo, chậm trễ. Thứ hai, chưa coi trọng lãnh đạo HĐND tỉnh thực hiện chức năng giám sát, chức năng đại diện cho nhân dân. Một số tỉnh ủy ở ĐBSH chưa đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm lãnh đạo nâng cao chất lượng giám sát của HĐND tỉnh. Tuy công tác giám sát của HĐND tỉnh có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm chứng tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của nghị quyết, quyết định của HĐND tỉnh; kiểm tra cơ quan chấp hành trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết, quyết định; kịp thời phát hiện hạn chế, vướng mắc, khó khăn để kiến nghị biện pháp giải quyết; đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung chính sách hiện hành hoặc ban hành chính sách, quyết định mới phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cử tri nhưng một số tỉnh ủy chưa kịp thời định hướng, chỉ đạo công tác này. 95 Một số tỉnh ủy ở ĐBSH chưa chú trọng lãnh đạo nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri. Hoạt động tiếp xúc cử tri còn hình thức, chưa hiệu quả, thiết thực, những kiến nghị của cử tri chưa được quan tâm giải quyết kịp thời, thỏa đáng. Vai trò của HĐND tỉnh tham gia tiếp công dân, xử lý đơn, thư khiếu nại tố cáo chưa được các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo phát huy. Thứ ba, lãnh đạo UBND tỉnh chấp hành nghị quyết của HĐND tỉnh về phát triển KT - XH, củng cố quốc phòng, an ninh còn một số hạn chế, yếu kém. Một số tỉnh ủy ở ĐBSH có những hạn chế nhất định trong việc xác định quan điểm, chủ trương, biện pháp lớn về lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động của UBND tỉnh. Sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với UBND tỉnh trong việc ban hành các quyết định, chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện quyết định, chương trình, kế hoạch chưa kịp thời. Nội dung các nghị quyết, chủ trương của Tỉnh ủy, nội dung các nghị quyết, quyết định của HĐND tỉnh chưa được UBND tỉnh cụ thể hóa một cách đầy đủ trong các quyết định, chương trình, kế hoạch. Do đó, năng lực chấp hành nghị quyết của HĐND tỉnh về phát triển KT - XH, củng cố quốc phòng, an ninh còn một số hạn chế, yếu kém. Thứ tư, có khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo UBND tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về các lĩnh vực đời sống xã hội ở địa phương theo quy định của pháp luật. Trong các kỳ họp UBND tỉnh chủ yếu bàn về việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển KT - XH, chưa dành nhiều thời gian kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của tỉnh ủy về quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội, về hoạt động CCHCNN, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Tăng trưởng kinh tế các tỉnh ở ĐBSH chủ yếu dựa vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, hàm lượng tri thức, khoa học, công nghệ và lao động có kỹ năng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của từng ngành, hàng, sản phẩm còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu lao động chưa thích ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất, kết cấu hạ tầng KT - XH chưa đáp ứng được yêu cầu, ô nhiễm môi trường ở một số nơi chậm được giải quyết, quản lý đô thị còn nhiều lúng túng. 96 Công tác CCHCNN còn chậm, chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo... chưa có tiến bộ rõ rệt. Ở một số địa phương, tình trạng khiếu kiện, khiếu kiện đông người diễn biến khá phức tạp; tội phạm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông gây nhiều bức xúc, tiến độ thực hiện một số dự án lớn chậm chạp, ô nhiễm môi trường chưa được xử lý dứt điểm... do đó ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường đầu tư và chỉ số cạnh tranh của tỉnh. Hoạt động quản lý nhà nước về các lĩnh vực đời sống xã hội của các UBND tỉnh ở ĐBSH được đánh giá có khó khăn, yếu kém về tài nguyên môi trường, giáo dục - đào tạo, y tế, giao thông vận tải lần lượt là 76,00%, 74,00%, 71,00% tổng số ý kiến được hỏi [Phụ lục 6]. Hai là, một số tỉnh ủy ở ĐBSH chưa quan tâm đúng mức đến lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức của CQT trong sạch, vững mạnh. Thứ nhất, chưa thường xuyên lãnh đạo kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy CQT theo quy định của pháp luật. Một số tỉnh ủy chưa thường xuyên lãnh đạo việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy CQT, nhất là bộ máy các ban HĐND tỉnh, để xảy ra tình trạng khuyết thiếu trưởng ban hoặc phó ban trong một thời gian dài, gây ảnh hưởng nhất định đến chất lượng hoạt động của các ban đó nói riêng và chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh nói chung. Hơn nữa, các tỉnh ủy ở ĐBSH có sự chỉ đạo khác nhau trong xây dựng mô hình Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh. Nhận thức của một số cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong bộ máy CQT về quan điểm, nguyên tắc đổi mới, kiện toàn bộ máy CQT chưa đầy đủ, thiếu thống nhất, do đó việc tổ chức triển khai thực hiện thiếu kiên quyết, còn nể nang, né tránh. Sau chia tách, sáp nhập, vẫn còn tình trạng chưa rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy ở một số lĩnh vực công tác. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy thuộc sở chưa gọn, còn kém hiệu quả. Công tác quản lý điều hành của một số sở gặp các khó khăn, vướng mắc khi thực hiện quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Bên cạnh đó, một số sở, ngành của tỉnh chia nhỏ lĩnh vực quản lý để lập 97 thêm một số phòng, đơn vị mới, điển hình là hệ thống các cơ quan, đơn vị thuộc ngành Y tế của tỉnh Thái Bình tăng 9 đơn vị [140]. Thứ hai, có khuyết điểm trong lãnh đạo kiện toàn, củng cố Đảng đoàn HĐND tỉnh, BCSĐ UBND tỉnh, các cấp ủy trong bộ máy CQT. Biểu hiện rõ nét về khuyết điểm của một số tỉnh ủy ở ĐBSH trong lãnh đạo kiện toàn, củng cố Đảng đoàn HĐND tỉnh, BCSĐ UBND tỉnh, các cấp ủy trong bộ máy CQT như: chưa định rõ tiêu chuẩn cấp ủy viên trong bộ máy CQT, để kéo dài tình trạng khuyết thiếu cấp ủy viên. Bên cạnh đó, tỉnh ủy chưa sát sao trong việc hướng dẫn, chỉ đạo Đảng đoàn HĐND tỉnh, BCSĐ UBND tỉnh, các cấp ủy trong bộ máy CQT xây dựng và thực hiện quy chế làm việc. Mặc dù đã có quy chế làm việc nhưng một số cấp ủy trong bộ máy CQT không thực hiện nghiêm túc, thậm chí có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng ở các mức độ khác nhau. Thứ ba, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ CQT còn nhiều hạn chế, yếu kém. Các tỉnh ủy ở ĐBSH có một số khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo CQT xây dựng đội ngũ CB,CC,VC khá phổ biến và khó khắc phục. Nhiều tỉnh ở vùng ĐBSH có cùng thực trạng như tỉnh Nam Định: “Nhìn về mặt hình thức, số CB,CC,VC có bằng cấp, chứng chỉ tăng lên rất nhiều, nhưng chất lượng lại thực sự không tương xứng” [130]. Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ được tăng cường, số lượng CB,CC,VC qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng khá lớn nhưng nhìn chung chất lượng, nhất là là kiến thức quản lý nhà nước, kỹ năng nghiệp vụ hành chính, khả năng sử dụng ngoại ngữ, kiến thức hội nhập quốc tế, khả năng xử lý tình huống quản lý của một bộ phận CB,CC,VC chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, tiêu biểu như tỉnh Vĩnh Phúc: “Một bộ phận cán bộ, công chức năng lực, trình độ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ” [162]. Cơ cấu đội ngũ chưa phù hợp, vừa thừa, vừa thiếu, nhất là chuyên gia giỏi có khả năng nghiên cứu, thẩm định, xây dựng đề án và hướng dẫn, kiểm tra triển khai thực hiện trên các lĩnh vực mà cấp ủy, CQT cần lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là về phát triển kinh tế. Một bộ phận CB,CC,VC chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, 98 còn biểu hiện quan liêu, lãng phí, tiêu cực. Các tỉnh ở ĐBSH có chung thực trạng như tỉnh Thái Bình: “Việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật ở một số bộ phận cán bộ, công chức chưa nghiêm túc trong việc thực thi công vụ” [160]. Một số tỉnh ủy lãnh đạo quán triệt quan điểm, chủ trương về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế chưa tạo được được sự thống nhất, đồng thuận cao. Việc thực hiện tinh giản biên chế chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, chủ yếu là giảm những người sắp đến tuổi nghỉ hưu theo chế độ quy định. Hơn nữa, số lượng biên chế có xu hướng tăng lên vì trong khi kiện toàn, sắp xếp tổ chức xảy ra hiện tượng tăng đầu mối. Bên cạnh đó, công tác quản lý biên chế chưa tập trung, thống nhất, công tác quản lý hồ sơ CB,CC,VC ở một số sở, ngành chưa được thực hiện kịp thời. Chế độ chính sách đối với CB,CC,VC mặc dù được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Ba là, các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo CQT phối hợp công tác với các tổ chức trong HTCT trong một số hoạt động chưa kịp thời và hiệu quả chưa cao. Một số tỉnh ủy trong vùng ĐBSH lãnh đạo hoạt động phối hợp công tác giữa HĐND tỉnh và UBND tỉnh với Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các đoàn thể CT - XH tỉnh chưa tốt, chưa hiệu quả. Tỉnh ủy chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của CQT khi tham gia phối hợp với MTTQ Việt Nam tỉnh và các tổ chức CT - XH tỉnh trong một số hoạt động như: xây dựng và thẩm tra dự thảo báo cáo, nghị quyết, chương trình, kế hoạch, giải quyết kiến nghị, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân... Tỉnh ủy chưa kiểm tra, đôn đốc UBND tỉnh trong việc giải quyết kiến nghị, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân nên để xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người, phức tạp, kéo dài ở một số địa bàn. Có 8% tổng số ý kiến cho rằng Tỉnh ủy có yếu kém trong lãnh đạo phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng CQT [Phụ lục 6]. * Trong thực hiện phương thức lãnh đạo Một là, lãnh đạo CQT bằng các nghị quyết, chủ trương, kế hoạch chưa được một số tỉnh ủy ở ĐBSH thực sự coi trọng. Ở một số tỉnh, việc chuẩn bị, xây dựng dự thảo nghị quyết chưa được chú trọng thực hiện nghiêm túc. Trong những thời điểm khác nhau, các tỉnh ủy có biểu hiện chủ quan duy ý chí, ban hành nghị quyết mà chưa tiến hành khảo sát, đánh giá 99 đầy đủ thực trạng, chưa xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, chưa căn cứ vào mục tiêu của Đại hội đảng bộ tỉnh, chương trình làm việc toàn khóa Do đó, có tình trạng ban hành nhiều nghị quyết, chưa chú trọng tổ chức thực hiện và kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, khi có vấn đề phát sinh, BTV Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy chưa kịp thời ban hành kết luận mới để lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Hai là, lãnh đạo CQT thông Đảng đoàn HĐND tỉnh, BCSĐ UBND tỉnh, cấp ủy trong bộ máy CQT chưa thực hiện tốt. Hoạt động lãnh đạo xây dựng quy chế làm việc của Đảng đoàn HĐND tỉnh, BCSĐ UBND tỉnh còn gặp khó khăn, việc sửa đổi bổ sung quy chế cho phù hợp với thực tiễn còn chưa kịp thời. Sự phối hợp giữa Đảng đoàn HĐND tỉnh và BCSĐ UBND tỉnh với các chủ thể khác còn gặp nhiều vướng mắc, rào cản. Ở một số tỉnh trong vùng ĐBSH có tình trạng chưa xác định rõ vị trí, vai trò giữa Đảng đoàn HĐND tỉnh với Thường trực HĐND tỉnh, giữa BCSĐ UBND tỉnh với Thường trực UBND tỉnh. Một số cấp ủy đảng chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của CQT. Có nơi cấp ủy đảng trong cơ quan, tổ chức thuộc CQT chưa sâu sát trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tổ chức, chỉ mới chú trọng công tác cán bộ. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế, nhất là việc cụ thể hóa và chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ. Chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ nâng lên chậm, chưa thực hiện tốt sinh hoạt chuyên đề. Công tác tự phê bình và phê bình một số nơi thực hiện chưa tốt. Ba là, nội dung và phương pháp công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động cán bộ, đảng viên công tác trong bộ máy CQT chưa được đổi mới. Một số tỉnh ủy thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương về củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của CQT không được thường xuyên, chủ yếu theo từng đợt, tiến hành như một chiến dịch, sau đó buông xuôi. Trong tuyên truyền, thuyết phục, vận động, cấp ủy chưa nêu rõ lợi ích, sự cần thiết phải xây dựng CQT trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thực sự là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Một số cán bộ, đảng viên 100 giảm sút ý chí phấn đấu, suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, bị thi hành kỷ luật, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của cấp ủy đảng và quản lý, điều hành của chính quyền. Bốn là, trong lãnh đạo CQT bằng công tác tổ chức, cán bộ chưa thể hiện rõ tầm nhìn xa, thậm chí có biểu hiện lúng túng. Công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC thiếu tầm chiến lược, nên còn bị động, khó khăn trong việc bố trí CB,CC,VC chủ chốt ở một số ngành và địa phương. Chất lượng CB,CC,VC nâng lên chậm. Bên cạnh đó, còn khá nhiều CB,CC,VC trong các cơ quan thuộc CQT có các biểu hiện xa dân, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm với công việc. Đánh giá CB,CC,VC trong một số trường hợp còn thiếu chính xác, bố trí chưa phù hợp với trình độ, năng lực chuyên môn, chưa đúng với ngành nghề đào tạo. Thực hiện luân chuyển CB,CC,VC trong quy hoạch còn chậm, bố trí CB,CC,VC sau luân chuyển gặp khó khăn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đào tạo, chưa gắn với bố trí, sử dụng CB,CC,VC. Việc thực hiện thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở, phòng ở một số địa phương có nhiều khó khăn, vướng mắc, có nhiều ý kiến còn khác nhau. Thực hiện chính sách cán bộ, nhất là chính sách giải quyết “đầu ra”, còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Năm là, việc phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên công tác trong bộ máy của CQT chưa được coi trọng đúng mức. Trong những năm qua, việc phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên công tác trong bộ máy CQT chưa được một số tỉnh ủy ở vùng ĐBSH coi trọng. Một bộ phận đảng viên trong bộ máy CQT chưa nêu cao ý thức trách nhiệm, chưa tận tụy với công việc, thậm chí một số ít đảng viên chưa nhận thức đầy đủ và chưa thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; một số cán bộ làm việc ở cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh có biểu hiện lạm dụng chức vụ, quyền hạn khi giải quyết công việc Có 19% tổng số ý kiến được hỏi cho rằng: Tỉnh ủy chưa thành công khi sử dụng PTLĐ CQT bằng cách thông qua việc phát huy tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Có 16% tổng số ý kiến 101 cho rằng: Tỉnh ủy chưa thành công khi sử dụng PTLĐ thông qua vai trò, trách nhiệm của Bí thư Tỉnh ủy, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong các cơ quan thuộc CQT [Phụ lục 6]. Sáu là, lãnh đạo CQT bằng các hoạt động kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao; chỉ đạo tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo CQT chưa nghiêm túc. Chất lượng xây dựng chương trình kiểm tra giám sát toàn khóa, hằng năm của một số tỉnh ủy chưa cao, còn có biểu hiện né tránh khi không đưa những nội dung có nhiều bức xúc vào chương trình kiểm tra, giám sát. Hoạt động giám sát của một tỉnh ủy ở ĐBSH đối với hoạt động của CQT chưa được coi trọng, tiến hành chưa thường xuyên, chưa rõ nội dung, hiệu quả thấp. Công tác kiểm tra đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy CQT vẫn là kiểm tra chung, chưa chú trọng đúng mức kiểm tra việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của tỉnh ủy về củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động của CQT. Một số cuộc kiểm tra được tiến hành, nhưng chưa kết luận, đánh giá đúng mức tiến bộ và hạn chế, nhất là chưa quy rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân có hành vi vi phạm. Về phương pháp kiểm tra, chủ yếu vẫn là tổ chức đoàn kiểm tra của cấp ủy, ủy ban kiểm tra đảng, chưa huy động được vai trò của Thanh tra tỉnh ở các địa phương, các đoàn thể và của báo chí, người dân và doanh nghiệp trên địa bàn tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc CQT. Ở một số nơi chưa phát huy được vai trò, trách nhiệm của tỉnh ủy viên, ủy viên BTV Tỉnh ủy trong công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên trong bộ máy CQT. Tỉnh ủy chưa chú trọng chỉ đạo kiểm tra, giám sát đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý. Bảy là, lãnh đạo CQT bằng quy chế, lề lối, phong cách làm việc chưa được coi trọng. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực hiện quy chế làm việc một số tỉnh ủy ở ĐBSH cũng có những hạn chế, yếu kém, cụ thể như: quy chế làm việc của BCH đảng bộ tỉnh còn có những quy định chung chung, khó thực hiện, chưa làm rõ các mối quan hệ cơ bản và cách thức giải quyết các mối quan hệ đó; việc thực hiện quy chế chưa nghiêm túc; hoạt động kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện quy chế 102 làm việc của BCH đảng bộ tỉnh chưa thường xuyên, kịp thời. Bên cạnh đó, các quy định về chế độ làm việc, phương pháp công tác của các tỉnh ủy ở ĐBSH chưa thật cụ thể, chưa có các quy định về xử lý các hành vi vi phạm. Ngoài ra, một số tỉnh ủy hoạt động theo kinh nghiệm, chưa bám sát nội dung quy chế, dẫn đến có sự lẫn lộn giữa trách nhiệm, quyền hạn của tập thể và cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftv_cac_tinh_uy_o_vung_dong_bang_song_hong_lanh_dao_chinh_quyen_tinh_giai_doan_hien_nay_7957_1916292.pdf
Tài liệu liên quan