Luận án Đảng lãnh đạo tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế từ năm 1945 đến năm 1954 - Phạm Thị Thanh Mai

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6

1.1. Vấn đề tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế qua các công trình

nghiên cứu 6

1.2. Kết quả của các công trình nghiên cứu và những vấn đề luận án

tiếp tục giải quyết 23

Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO TÌM KIẾM SỰ ỦNG HỘ VÀ GIÚP ĐỠ

QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1949 25

2.1. Sự cần thiết của tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế và chủ

trương của Đảng 25

2.2. Quá trình Đảng tìm kiếm, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế 40

Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO TRANH THỦ SỰ ỦNG HỘ, GIÚP ĐỠ

QUỐC TẾ, ĐƯA CUỘC KHÁNG CHIẾN ĐẾN THẮNG LỢI (1950 - 1954) 71

3.1. Bối cảnh trong nước, quốc tế và chủ trương của Đảng 71

3.2. Quá trình Đảng chỉ đạo tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế 81

Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 118

4.1. Nhận xét 118

4.2. Một số kinh nghiệm 137

KẾT LUẬN 148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

PHỤ LỤC 168

pdf198 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 382 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng lãnh đạo tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế từ năm 1945 đến năm 1954 - Phạm Thị Thanh Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng càng thấy rõ tầm quan trọng của sự giúp đỡ từ bên ngoài. Mục tiêu phát huy sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế giai đoạn này nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về nhân lực và vật lực, nâng cao sức mạnh tinh thần và vật chất để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và tiếp tục khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 76 Khi cách mạng Trung Quốc thành công, Đảng nhận định, thắng lợi của cách mạng Trung Quốc là một cơ hội lớn đối với Việt Nam, mở ra khả năng khai thông liên lạc với phe xã hội chủ nghĩa. Vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đối với cách mạng Việt Nam sẽ bị phá vỡ. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ có điều kiện thiết lập các mối quan hệ trực tiếp với Trung Quốc, Liên Xô và các nước khác. Ngày 18-01-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc tuyên truyền chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam: Chính sách ngoại giao của Chính phủ ta vẫn là liên minh với các nước dân chủ và kiến lập ngoại giao với bất cứ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước ta, kiếm thêm thật nhiều vây cánh và sự giúp đỡ bên ngoài để mau thắng thực dân Pháp. Trước kia Chính phủ ta chưa tuyên bố rõ chính sách ấy vì ta ở hoàn cảnh bị bao vây. Đến nay, nhờ những thắng lợi của ta đã thu được trong ba năm toàn quốc kháng chiến, nhờ thắng lợi vĩ đại của cách mạng Trung Quốc, khiến sự tương trợ quốc tế đối với ta có điều kiện thực hiện một cách cụ thể, nên ta đã có thể tuyên bố rõ chính sách của ta [55, tr.14]. Từ ngày 21-1 đến ngày 3-2-1950, Đảng đã họp Hội nghị toàn quốc nhận định tình hình và đề ra chủ trương, chính sách đáp ứng với tình hình mới. Hội nghị đã xác định vị trí của cuộc kháng chiến của nhân dân ta: Đông Dương hiện thời là nơi hai thế lực dân chủ chống đế quốc và đế quốc phản dân chủ tranh chấp nhau cho nên phe dân chủ càng sốt sắng ủng hộ ta và bọn đế quốc Mỹ - Anh cũng đang ra sức xúc tiến việc giúp đỡ thực dân Pháp và can thiệp thẳng vào Đông Dương, hòng biến Đông Dương thành một một căn cứ chống cộng ở Đông Nam châu Á và một cứ điểm chiến lược trong kế hoạch chuẩn bị chiến tranh đánh phá Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân [48, tr.346]. 77 Cuộc kháng chiến của các dân tộc Đông Dương mật thiết gắn bó với cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình của nhân dân các nước trên thế giới. Nhân dân Đông Dương đánh thực dân Pháp không những để giành tự do, độc lập thật sự cho mình mà còn để bảo vệ cho hoà bình và dân chủ thế giới [48, tr.359]. Trên cơ sở phân tích tình hình, Đảng đưa ra khẩu hiệu của Việt Nam là: tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Từ việc xác định rõ vị trí của cuộc kháng chiến, Đảng đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể: a. Tố cáo bằng đủ mọi cách mưu mô gây chiến của bọn đế quốc do Mỹ cầm đầu. b. Tố cáo chính sách can thiệp của Mỹ - Anh giúp thực dân Pháp và bọn bù nhìn ở Đông Dương. c. Ra sức tuyên truyền ủng hộ Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, củng cố tình hữu nghị giữa nhân dân các dân tộc Đông Dương và nhân dân các nước đó. d. Liên kết chặt chẽ cuộc chiến đấu của ta với phong trào đấu tranh cho hoà bình và dân chủ thế giới; hưởng ứng phong trào đó bằng mọi cách; gây phong trào các chiến sỹ bảo vệ hoà bình thế giới đ. Liên kết cuộc kháng chiến của ta với phong trào phản chiến của nhân dân Pháp; thống nhất hành động với Đảng Cộng sản Pháp. e. Thực hiện sự giúp đỡ của Liên Xô, cùng các nước dân chủ nhân dân Đông Âu về mọi mặt, làm cho các nước đó thiết thực giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao [48, tr.360]. Tiếp đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, tháng 2 năm 1951, Đảng đã đề ra phương hướng, chính sách đối ngoại nhằm phát huy sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế đối với cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới. Đại hội chỉ rõ: 78 Chính sách đối ngoại của ta là chính sách ngoại giao có tính chất dân tộc và dân chủ. Nguyên tắc cơ bản của chính sách đó là: bảo vệ trọn vẹn lãnh thổ và thống nhất quốc gia; ủng hộ phong trào giải phóng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa; bảo vệ hòa bình dân chủ thế giới, chống bọn phong kiến, đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, hợp tác thân thiện, tự do và bình đẳng với chính phủ và nhân dân các nước [56, tr.145]. Đảng đề ra chủ trương: Tiến hành đến cùng cuộc kháng chiến để tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh đổ bọn can thiệp Mỹ, thắt chặt tình đoàn kết với nhân dân lao động Pháp và Mỹ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp - Mỹ. Tích cực giúp đỡ cuộc chiến tranh giải phóng của các dân tộc Ai Lao và Cao Miên. Củng cố mối quan hệ hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với các nước, nhất là những nước láng giềng Đông Nam Á, trên nền tảng bình đẳng, thân thiện và tôn trọng chủ quyền của nhau [56, tr.145-146]. Trên cơ sở chủ trương, chính sách trên, Đại hội đề ra nhiệm vụ của công tác đối ngoại như sau: 1. Xúc tiến việc đặt các cơ quan ngoại giao và củng cố quan hệ ngoại giao với các nước bạn. 2. Tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến của các dân tộc: Ai Lao, Cao Miên. 3. Có kế hoạch theo dõi và đả phá kịp thời những mưu mô và hành động ngoại giao của bọn bù nhìn Việt gian ở những nước Đông Nam Á. 4. Củng cố mối liên hệ với nhân dân Pháp để tiến tới những hình thức phối hợp đấu tranh chống Pháp - Mỹ, quyết liệt và phong phú hơn. 79 5. Phát triển ngoại giao nhân dân, đặc biệt chú trọng tham gia các cuộc vận động giữa những đoàn thể nhân dân Việt Nam với các đoàn thể nhân dân thế giới. 6. Đào tạo và bổ túc cán bộ ngoại giao - luôn chọn những cán bộ đáng tin cẩn về chính trị, giáo dục, chu đáo về tư tưởng, chính sách và đạo đức cách mạng, huấn luyện họ thành những cán bộ ngoại giao mới. Đề phòng khuynh hướng ngoại giao hình thức theo lối tư sản [56, tr.148]. Nội dung đường lối đối ngoại và sách lược ngoại giao trong giai đoạn mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam là nhằm phục vụ cho mục tiêu lớn nhất của công cuộc kháng chiến: tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại can thiệp Mỹ, bảo vệ hòa bình thế giới. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước đã đề ra những biện pháp đối ngoại chủ yếu trong thời kỳ mới: - Phối hợp với quân giải phóng Tàu để nhanh chóng đánh tan quân đội Tưởng, cô lập quân đội Pháp và sớm giải phóng toàn bộ biên giới phía Bắc, mở cửa ngõ thông ra thế giới. - Ra sức tuyên truyền quốc tế, giành thêm sức ủng hộ của lực lượng dân chủ thế giới. - Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân, “làm cho các nước đó thiết thực giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt Nam, Ai Lao và Cao Miên” trở thành ưu tiên hàng đầu trong hoạt động ngoại giao nhằm góp phần xoay chuyển cục diện cuộc kháng chiến. - Liên kết chặt chẽ cuộc chiến đấu của Việt Nam với phong trào đấu tranh cho hòa bình và dân chủ thế giới, coi cuộc kháng chiến của Việt Nam là bộ phận của cuộc đấu tranh có tính toàn cầu này. - Liên kết cuộc kháng chiến của Việt Nam với phong trào phản chiến của nhân dân Pháp; thống nhất hành động với Đảng Cộng sản Pháp. - Duy trì chủ trương tích cực ủng hộ phong trào của các nước thuộc địa và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á. 80 - Phải kịp thời và triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giữa lực lượng bù nhìn thân Pháp và thân Mỹ để phân hóa và làm suy yếu sức mạnh của kẻ thù [110, tr.115-116]. Đảng Lao động Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lịch sử trọng đại vừa tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta, vừa có nghĩa vụ giúp đỡ các Đảng cách mạng ở Lào và Campuchia đấu tranh thắng lợi. Có thể nói, Đại hội lần thứ II của Đảng đã đánh dấu bước phát triển mới của chính sách đối ngoại. Đảng công khai xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào dân chủ trên thế giới, Việt Nam là một tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á. Từ đây, ngoại giao Việt Nam ngày càng phát triển trên ba mặt: Đảng, Nhà nước và nhân dân. Những chủ trương, chính sách và nhiệm vụ, biện pháp đối ngoại trên đây đã được triển khai cụ thể bằng sự chỉ đạo của Đảng trong những năm tháng tiếp theo của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây cũng là cơ sở cho các hoạt động nhằm tranh thủ, phát huy sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế của Đảng. Tháng 3 năm 1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết lần I, xác định cuộc kháng chiến của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào bảo vệ hòa bình thế giới do Liên Xô lãnh đạo Toàn dân tích cực tham gia kháng chiến và các cuộc vận động quốc tế chống bọn gây chiến và bảo vệ hòa bình. Ngày 24-12-1951, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra thông tư hoan nghênh Nghị quyết của Hội đồng Hòa bình thế giới và vạch rõ Việt Nam luôn chủ trương hòa bình “ nhưng giặc Pháp đã phá hoại ý nguyện hòa bình đó của ta, chúng âm mưu cướp nước ta. Cho nên chúng ta phải kiên quyết kháng chiến đến toàn thắng. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta không chỉ là một cuộc xây dựng hòa bình ở Việt Nam, trái lại giặc Pháp là kẻ thù phá hoại hòa bình ở Việt Nam [56, tr.620-621]. 81 Ngày 02-12-1953, Ban Bí thư ra Chỉ thị: “Chỉ có kiên quyết kháng chiến, nhân dân ta mới đạt được mục đích độc lập, tự do, hạnh phúc và hòa bình chân chính” [57, tr.150-151]. Bước sang năm 1954, ngay sau khi quân và dân Việt Nam nổ súng tấn công quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 18-3-1954, Ban Bí thư ra Chỉ thị về việc mở rộng tuyên truyền những chiến thắng của Việt Nam ở Điện Biên Phủ. Chỉ thị nêu rõ, trong việc tuyên tuyên truyền ra bên ngoài, Đài phát thanh và các cơ quan tuyên truyền quốc tế cần chú ý nhấn mạnh một điểm là nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Miên - Lào rất tha thiết với hòa bình, nhưng nếu bọn xâm lược cứ tiếp tục chiến tranh thì chúng còn gặp nhiều thất bại lớn hơn nữa và nhất định sẽ bị tiêu diệt. Tóm lại, sớm nhận thức được sự thay đổi của tình hình thế giới và trong nước cũng như cục diện của cuộc kháng chiến, Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương, biện pháp nhằm gắn cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với phong trào bảo vệ hòa bình thế giới, kết hợp mục tiêu đấu tranh của nhân dân Việt Nam với mục tiêu đấu tranh của nhân loại tiến bộ, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Đây chính là một trong những nhân tố quan trọng để đưa cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi. 3.2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CHỈ ĐẠO TRANH THỦ SỰ ỦNG HỘ, GIÚP ĐỠ QUỐC TẾ 3.2.1. Vận động các nước xã hội chủ nghĩa công nhận, đặt quan hệ ngoại giao và giúp đỡ Việt Nam Khi cách mạng Trung Quốc thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tăng cường các hoạt động ngoại giao nhân dân. Các tổ chức, đoàn thể lao động, thanh niên, phụ nữ Việt Nam đã tổ chức mít tinh, gửi điện chúc mừng nhân dân và Chính phủ Trung Quốc. Ngày 26-11-1949, Chủ tịch Mao Trạch Đông gửi điện cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh và chúc cuộc kháng chiến của 82 nhân dân Việt Nam mau chóng giành được thắng lợi hoàn toàn. Ngày 5-12- 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Chủ tịch Mao Trạch Đông chúc mừng sự ra đời của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Bức điện có đoạn: "Hai dân tộc Việt - Hoa có mối quan hệ anh em trải mấy nghìn năm lịch sử. Từ đây, mối quan hệ ấy sẽ càng mật thiết để phát triển tự do và hạnh phúc của hai dân tộc ta, và để bảo vệ dân chủ thế giới và hoà bình lâu dài" [126, tr.254]. Ngay sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời, ngày 3-10 - 1949, Liên Xô công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Trung Quốc. Tiếp đó, hàng loạt các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Từ đây, hành lang địa lý - chính trị của phe xã hội chủ nghĩa được mở rộng đến tận biên giới Việt - Trung. Đây là một cơ hội lớn để Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có điều kiện thiết lập các mối quan hệ trực tiếp với Trung Quốc, Liên Xô và các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa. Ngày 2-l-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc đẩy mạnh việc tuyên truyền gây thiện cảm với nước Trung Hoa Dân chủ nhân dân và Quân giải phóng.Chỉ thị nêu những nhiệm vụ cần thực hiện: Cần phải nêu rõ sự toàn thắng của cách mạng Trung Quốc có ảnh hưởng lớn lao đối với thế giới nói chung và đặc biệt đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam; Hoan nghênh Quân giải phóng phá tan kế hoạch cấu kết của thực dân Pháp với tàn quân Trung Hoa Dân quốc, đồng thời vạch rõ quân đội Việt Nam và Quân giải phóng Trung Quốc đều vì mục đích dân tộc và dân chủ mà chiến đấu, nếu Quân giải phóng bắt buộc phải kéo vào Việt Nam truy nã tàn quân Trung Hoa Dân quốc, thì ta sẽ nhiệt liệt hoan nghênh, sẽ hợp lực cùng Quân giải phóng tiêu diệt kẻ thù chung; Giải thích cho quân và dân hai nước hiểu rõ nhau về mọi mặt và hiểu rõ sự liên quan mật thiết, ràng buộc vận mạng của hai dân tộc trong hiện tại và tương lai. Về kế hoạch thực hiện, Chỉ thị nêu: Tại các vùng biên giới, bộ đội cần tổ chức liên hoan, mít tinh hoan nghênh Quân giải phóng, lập các đoàn đại biểu 83 quân đội, nhân dân Việt Nam sang thăm Trung Hoa và Quân giải phóng; trên các đài phát thanh, báo chí như Cứu quốc, Sự thật phải có bài, có mục nói về Trung Hoa; tiến tới thành lập một tổ chức mà tôn chỉ là phát triển tinh thần hữu nghị giữa hai dân tộc Hoa - Việt [55, tr.2-6]. Ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra tuyên bố với các chính phủ và nhân dân thế giới, Người khẳng định tính hợp pháp và chính sách đối ngoại của Chính phủ Việt Nam: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới [126, tr.310-311]. Ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố công nhận nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và tỏ ý sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Ngày 18-1-1950, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trước sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương chủ động tranh thủ sự công nhận và giúp đỡ trực tiếp của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện chủ trương này, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định đi thăm Trung Quốc và Liên Xô. Ngày 21-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Bắc Kinh. Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Chu Ân Lai và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc, Người đã thông báo tình hình cách mạng Việt Nam, đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương và đề nghị Trung Quốc giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt Nam. Trung Quốc hoàn toàn đồng tình với đường lối và chủ trương của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo và hứa sẽ tích cực giúp đỡ về tinh thần và vật chất. 84 Cũng tại cuộc gặp gỡ trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ Trung Quốc thông báo cho đồng chí Xtalin, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô biết Người đang ở thăm Trung Quốc và đề nghị được gặp Xtalin để thông báo cho Chính phủ Liên Xô biết về tình hình cách mạng Việt Nam. Xtalin đồng ý và mời Người sang thăm Liên Xô. Ngày 23-1-1950, thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Minh Giám gửi công hàm đến Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô, đề nghị hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức và trao đổi đại sứ. Đáp lại lời đề nghị trên, ngày 30-1-1950, Bộ Ngoại giao Liên Xô gửi cho Bộ Ngoại giao Việt Nam công hàm thông báo Chính phủ Liên Xô chấp thuận thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trao đổi công sứ. Tiếp theo Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân khác lần lượt công nhận, đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam: Ngày 31-1-1950, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên; Ngày 2-2- 1950, Cộng hoà Tiệp Khắc và Cộng hoà Dân chủ Đức; Ngày 3-2-1950, Cộng hoà nhân dân Rumani; Ngày 5-2-1950, Cộng hoà nhân dân Ba Lan và Cộng hoà Nhân dân Hungari; Ngày 8-2-1950, Cộng hoà nhân dân Bungari; Ngày 18-2-1950, Cộng hoà nhân dân Anbani. Việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân công nhận và kiến lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam là một đại thắng lợi về chính trị, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Từ đây, tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các nước dân chủ thế giới thêm chặt chẽ, sự giúp đỡ của các nước dân chủ đối với cuộc kháng chiến, kiến quốc của Việt Nam tăng thêm; dân tộc Việt Nam sẽ có cơ hội để học tập và trao đổi kinh nghiệm với các nước bạn bè. Thắng lợi ngoại giao của Việt Nam càng đẩy thực dân Pháp và đế quốc vào thế bị động, lúng túng. Cũng trong thời gian này, từ Bắc Kinh, ngày 3-2-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tàu hoả đến Matxcơva. Trong thời gian ở Maxcơva, Người đã có các 85 cuộc gặp gỡ với những người đứng đầu Đảng, Nhà nước Liên Xô, Trung Quốc (ngày 16-12-1949, Mao Trạch Đông dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc sang thăm Liên Xô, lúc này đang ở Matxcơva), đại diện Đảng Cộng sản Pháp và nhiều tổ chức quốc tế để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân Việt Nam chống thực dân Pháp. Hội đàm với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Xtalin đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích tình hình Việt Nam và Đông Dương mà theo ông đang có nhiều vấn đề khó hiểu, đặc biệt là về việc Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán vào cuối năm 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông báo cho các nhà lãnh đạo Liên Xô về cuộc Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; về tình thế gian nguy sau Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Việt Nam đã phải vận dụng những chiến lược, sách lược riêng để tồn tại và đi lên giữa muôn vàn khó khăn. Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật cũng là một biện pháp đau đớn buộc phải làm. Người còn thông báo tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và đề nghị Liên Xô cùng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế giúp đỡ. Nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô hiểu rõ hơn, thông cảm với tình hình khó khăn của cách mạng Việt Nam và đồng tình với đường lối và chủ trương của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo trong những năm qua. Chính phủ Liên Xô hứa sẽ tích cực viện trợ mọi mặt cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, sẽ giúp đào tạo cán bộ trên mọi lĩnh vực, phục vụ cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc sau này của Việt Nam như lời khẳng định của đồng chí Stalin: Liên Xô sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam tất cả những gì có thể. Từ nay trở đi, đồng chí có thể tin tưởng ở sự giúp đỡ của chúng tôi... chúng tôi có nhiều hàng hoá, chúng tôi sẽ chuyển tới cho các đồng chí qua 86 Trung Quốc. Nhưng vì điều kiện tự nhiên trở ngại, chủ yếu Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí. Những gì Trung Quốc thiếu, chúng tôi sẽ cung cấp [191, tr.286]. Ngay sau đó, những thoả thuận nói trên đã được thực hiện, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam một trung đoàn pháo cao xạ 37 mm, một số xe vận tải Môlôtôva và thuốc quân y, trong đó có 5 tạ thuốc ký ninh (quinine). Trung Quốc trang bị vũ khí cho một số đại đoàn bộ binh và một đơn vị pháo binh, vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Trung Quốc còn cử cố vấn quân sự sang giới thiệu những kinh nghiệm chiến đấu của Quân giải phóng Trung Quốc. Đặc biệt, Trung Quốc đồng ý cho Việt Nam đưa cán bộ, chiến sỹ Trường Bổ túc Quân chính trung cấp (Trường Lục quân) và các đơn vị khác sang Vân Nam để đào tạo và bổ túc cán bộ. Trong cuốn hồi ký của Khơrútsốp (N. Khrushchev) - nguyên Bí Thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô,“Khrushchev Remembers” xuất bản ở Mỹ năm 1970, ông đã đề cập đến chuyến thăm Liên Xô không chính thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1950. Khrushchev nói rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kể về cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại lực lượng chiếm đóng Pháp và đề nghị Liên Xô giúp đỡ về vật chất, nhất là súng đạn. Sau khi rời Matxcơva, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư yêu cầu Liên Xô cung cấp thuốc ký ninh vì lúc đó đồng bào Việt Nam đang phải chịu đựng dịch sốt rét. Nền công nghiệp dược phẩm của Liên Xô khi đó sản xuất rất nhiều thuốc ký ninh và Stalin tỏ ra rất hào phóng khi ra lệnh gửi cho Việt Nam nửa tấn [160, tr.99]. Khơrútsốp cũng đề cập đến chi tiết tại buổi tiếp kiến các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước Liên Xô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy ra từ cặp một “cuốn tạp chí Xô viết - Liên Xô trên công trường xây dựng (The USSR under Construction) - rồi xin chữ ký tay của Stalin”. Stalin và các nhà lãnh đạo Liên 87 Xô: Môlôtốp, Beria, Micoian, Bungaaniu, Malencốp ký tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng sau đó Stalin đã bí mật chỉ đạo lấy lại cuốn tạp chí trên. Đầu tháng 3 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Mátxcơva về Bắc Kinh. Tại đây, Người gặp lại Thủ tướng Chu Ân Lai và một số nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hai bên đã bàn bạc những biện pháp phối hợp hành động giúp Việt Nam tiếp nhận viện trợ. Trung Quốc hứa sẽ trang bị vũ khí cho 6 đại đoàn và có thể nhận ngay vũ khí trên đất Trung Quốc, tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Trung Quốc cử cố vấn sang giúp Việt Nam. Sau đó, một đoàn cố vấn của Trung Quốc sang giúp Việt Nam gồm 4 người: La Quý Ba, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trưởng đoàn cố vấn, Trần Canh, sau đó là Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về quân sự; Mai Gia Sinh, Cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần. Chuyến đi thăm Trung Quốc và Liên Xô của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với việc Trung Quốc, Liên Xô và các nước anh em khác công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một thắng lợi ngoại giao có ý nghĩa to lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam từ đây có hậu phương kéo dài từ Trung Quốc đến vùng biển Ban Tích, có sự ủng hộ cả về tinh thần và vật chất của hơn 800 triệu nhân dân các nước anh em. Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên Giới nhằm mục đích: “Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở thông đường giao thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc” [1, tr.164]. Sau gần một tháng chiến đấu (từ ngày 16-9 đến ngày 14-10-1950), quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi vang dội, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 tên địch, bằng hơn một nửa lực lượng cơ động chiến lược của Pháp ở Đông Dương, giải phóng 5 thị xã, 13 thị trấn với 35 vạn dân. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng 88 và nối liền với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nối liền Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa. Với chiến thắng Biên giới năm 1950, Việt Nam đã phá được thế bao vây, cô lập của kẻ thù, đưa cuộc kháng chiến sang một giai đoạn phát triển mới. Cánh cửa hậu phương quốc tế đã được mở, từ đây, cách mạng Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Ngay sau khi Chiến dịch Biên Giới Thu - Đông năm 1950 kết thúc, ngày 14-10-1950, từ Cao Bằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một bức thư bằng tiếng Anh, ký tên Din, gửi cho đồng chí Xtalin báo cáo về tình hình thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong thư, Người đã cảm ơn sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc đối với thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới. Bức thư còn nói về kế hoạch Đại hội Đảng toàn quốc dự kiến vào cuối tháng 12 năm 1950 để “thành lập một Đảng mới: Đảng Lao Động Việt Nam (The Vietnam Labour Party)” [16, xem thêm Phụ lục]. Trong thư, Người nói nhiệm vụ đầu tiên của Việt Nam là phải “cải cách” Đảng thành một đảng có một nửa triệu đảng viên được huấn luyện tương đối về chủ nghĩa Mác - Lênin. Người thông báo, hiện lúc này Việt Nam có khoảng 750.000 đảng viên nhưng trong số đó nhiều người sẽ phải loại bớt, thanh trừ (cleansed out). Qua đó, thể hiện mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc xây dựng một chính đảng vững mạnh của giai cấp công nhân và của toàn thể dân tộc Việt Nam. Điều này cũng đúng với chủ trương của Đảng về việc tạm ngừng kết nạp đảng viên trong toàn quốc vào thời gian này như trong Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 14-9-1950: Nay xét tình hình Đảng gần đây, và xét sự cần thiết chuẩn bị cho Đảng ra hoạt động công khai, Trung ương quyết định tạm ngừng kết nạp đảng viên mới trong toàn qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_dang_lanh_dao_tranh_thu_su_ung_ho_giup_do_quoc_te_tu.pdf
Tài liệu liên quan