Luận án Dao động tự do và dao động mùa của mực nước biển đông

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.3

CHƯƠNG 1- KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰNHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM NỰC NƯỚC

BIỂN ĐÔNG. CƠSỞPHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.9

1.1. Khái quát về điều kiện tựnhiên và đặc điểmdao động mực nước biển Đông.9

1.1.1. Hình dạng đường bờvà phân bố độsâu của biển Đông.9

1.1.2. Chế độgió trên biển Đông.10

1.1.3. Thủy triều và dao động mực nước biển Đông.10

1.2. Cơsởphương pháp nghiên cứu mực nước.12

1.2.1. Phương pháp phân tích điều hòa mực nước.12

1.2.2. Công thức biến đổi Fourier. Phương pháp phân tích phổtrong hải dương học.13

1.2.3. Phương pháp môhình sốtrịthủy động.16

1.2.3.1. Hệphương trình tuyến tính của chuyển động sóng dài trong nước nông.16

1.2.3.2. Những điều kiện ban đầu và điều kiện biên.18

1.2.3.3. Sơ đồsai phân của hệphương trình.19

CHƯƠNG 2- KHẢO SÁT DAO ĐỘNG TỰDO CỦA BIỂN ĐÔNG.21

2.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu dao động tựdo của biển Đông.21

2.2. Phương pháp tính dao động tựdo của thủy vực.22

2.3. Tính dao động tựdo của biển Đông.23

2.3.1. Mô hình sốdao động tựdo của biển Đông.23

2.3.2. Lưới tính.24

2.3.3. Kết quảtính chu kỳvà những sơ đồcấu trúc không gian của các dao động tựdo25

2.4. Những kết luận rút ra từkhảo sát dao động tựdo.31

CHƯƠNG 3– PHỔMỰC NƯỚC ỞVEN BỜTÂY BIỂN ĐÔNG.49

3.1. Đặt vấn đềnghiên cứu phổmực nước.49

3.2. Lọc những chuỗi quan trắc mực nước đểtínhphổ.50

3.3. Kết quảtính phổvà nhận xét.52

CHƯƠNG 4– TÍNH MỰC NƯỚC TRONG TRƯỜNG GIÓ MÙA.58

4.1. Dao động mùa của mực nước và đặt vấn đềtính toán.58

4.2. Mô hình sốtính mực nước theo trường gió.60

4.3. Các bản đồtrường gió xuất phát.61

4.4. Phân bốmực nước trong gió đông bắc.63

4.5. Phân bốmực nước trong gió tây nam.65

4.6. Nhận xét chung vềkết quảtính mực nước theo môhình.66

KẾT LUẬN.70

TÀI LIỆU THAM KHẢO.71

PHỤLỤC.74

pdf75 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Dao động tự do và dao động mùa của mực nước biển đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà cơ học cổ điển nghiên cứu dựa trên phép xấp xỉ kênh, khi đó người ta xem xét chuyển động chỉ diễn ra trong một hướng dọc kênh. Giải bằng giải tích bài toán về các chuyển động của sóng dài trong kênh (xem [58]) cho phép người ta đi đến kết luận rằng trong kênh sẽ tồn tại những sóng tiến chạy ngược chiều nhau với vận tốc , trong đó 2/1)(ghC = −C tốc độ truyền sóng; −g gia tốc trọng lực; −h độ sâu kênh. Khi xảy ra sự phản xạ sóng ở đầu kênh, thì các sóng này tạo thành dao động sóng đứng hoặc một tập hợp sóng đứng với điều kiện ở đầu kín của kênh sẽ tồn tại bụng sóng, còn ở đầu hở của kênh sẽ tồn tại nút sóng, và trong kênh phải xếp đặt vừa đủ một số nguyên lần một phần tư độ dài bước sóng. Từ đó nhận được công thức Merian quen thuộc cho kênh hình chữ nhật kín với chiều dài L : 2/1))(1( 2 ghn LTn += (2.1) hoặc cho kênh chữ nhật hở một đầu: 2/1))(12( 4 ghn LTn +=′ (2.2) hoặc những biến dạng của các công thức này áp dụng cho trường hợp độ sâu biến đổi theo trục x dọc kênh (công thức Đuyboa): ∫+= L n xgh dx n T 0 2/1)]([1 2 (2.3) 22 ∫+=′ L n xgh dx n T 0 2/1)]([12 4 (2.4) ở đây là số điểm nút của dao động đứng có mặt trong kênh. Trong biển thực đối với những dao động thủy triều thông thường chỉ có một dao động với chu kỳ lớn nhất ứng với trị , người ta gọi là mốt (mode) thấp nhất, là có khả năng cộng hưởng. )1( +n 0=n Khi đó, trong kênh kín sẽ chứa trọn một nửa độ dài bước sóng, điểm nút nằm ở giữa kênh, còn trong kênh hở một đầu – một phần tư độ dài bước sóng với điểm nút nằm ở đầu hở của kênh. Nguyễn Ngọc Thụy trong [15] đã từng sử dụng công thức (2.2) để ước lượng kích thước cộng hưởng của biển, thí dụ với vịnh Bắc Bộ, tác giả nhận được trị số độ dài cộng hưởng của nó với sóng bằng 567 km, sóng - bằng 613 km và nhận định rằng kích thước của vịnh Bắc Bộ (theo Phan Phùng [12] bằng 470 km) gần trùng với kích thước cộng hưởng. 1O 1K Đối với những biển thực, việc phân định thủy vực biển phức tạp thành những vùng với hình dạng đơn giản để áp dụng các công thức của Merian và Đuyboa, sau đó lại ghép nối để nhận được một tập hợp những chu kỳ dao động tự do của cả biển sẽ phức tạp và chắc chắn chứa đựng sai số đáng kể. Với thủy vực biển Đông, đương nhiên những công thức này không thể giúp chúng ta khảo sát chi tiết được. Song chúng tôi cho rằng giá trị của các công thức giải tích trên là ở chỗ nó được dùng làm tiêu chuẩn để kiểm tra những mô hình phức tạp khác, điều mà chúng tôi cũng đã làm trước khi thử nghiệm những tính toán chi tiết cho biển Đông. Đối với những biển thực, người ta nghiên cứu chế độ cộng hưởng theo phương pháp thực nghiệm dựa trê những quan trắc mực nước. Đánh giá triều riêng bằng cách so sánh quan trắc nhiều năm của mực nước ở các quần đảo Axo và Becmuđa với triều tĩnh đã cho phép [67] chỉ ra những chu kỳ cộng hưởng của Bắc Đại Tây Dương bằng 9,3 và 14,8 giờ. Garette [62] đã thử tính các chu kỳ dao động riêng của hệ thống vịnh Phơnđi-Men tren cơ sở phân tích sự khuếch đại của từng sóng thủy triều ở những khu vực bờ khác nhau và nhận được chu kỳ cộng hưởng bằng giờ. 4,03,13 ± Gần đây đã hình thành một phương pháp khác [66, 29, 31, 52] để tính tới độ sâu và hình dạng tự nhiên của biển thực, đó là phương pháp tích phân bằng số những phương trình chuyển động không ma sát trong khuôn khổ bài toán biên không dừng khi kích động những dao động riêng bằng một nhiễu động ban đầu bất kỳ. Phân tích phổ các chuỗi mực nước tính được từ mô hình sẽ cho phép tìm ra những tần số riêng (những chu kỳ riêng), còn phân tích điều hòa – sẽ tính được những hàm riêng (những mốt (mode)) dao động riêng. 2.3. Tính dao động tự do của biển Đông 2.3.1. Mô hình số dao động tự do của biển Đông Chúng tôi đã áp dụng phương pháp tích phân bằng số vào nghiên cứu dao động tự do của biển Đông bằng cách giải hệ phương trình (1.24)-(1.26) bỏ qua các lực tạo triều, građien 23 áp suất khí quyển, ma sát gió ở mặt biển và ma sát đáy với các điều kiện ban đầu (1.29) và (1.31). Hệ phương trình được viết lại như sau: 0=∂ ∂+−∂ ∂ x gV t U ζλ (2.5) 0=∂ ∂++∂ ∂ y gU t V ζλ (2.6) 0)]([)]([ =∂ +∂+∂ +∂+∂ ∂ y hV x hU t ζζζ (2.7) 0sincos =+ αα vu tại (2.8) 1G 0=ζ tại (2.9) 2G Nhiễu động ban đầu được cho dưới dạng trường vân tốc bằng không: 0== vu khi 0=t (2.10) và ở giữa biển có một mô nước: 022,0 22],6/3[(sin]6/)3[(sin khivà và22 =>−>− ≤−≤−+−+−= tjJiI jJiIjJiIA ππζ (2.11) trong đó m; điểm nằm ở giữa biển; i và là số hiệu nút lưới tính. 5,1=A ),( JI j Các phương trình sai phân của hệ (2.5)-(2.11) chính là những phương trình (1.34)-(1.36) với 0==== rPTT yx . 2.3.2. Lưới tính Để giải bằng số bài toán (2.5)-(2.11) toàn bộ biển Đông được xấp xỉ bằng một lưới ô vuông phẳng với bước lưới dọc theo các trục toạn độ bằng nửa độ kinh và vĩ, tức km. Phần biên cứng là toàn bộ đường bờ của các nước kế cận và những eo biển hẹp xen lẫn bởi các chuỗi đảo. Chỉ riêng ở phía đông bắc, eo Đài Loan và eo Luxông với độ sâu ở giữa tuần tự đạt tới 100 m và 3000 m được coi là biên lỏng. 569,55=∆=∆ yx Độ dài bước tính thời gian lấy theo điều kiện ổn định của Curant-Fridrich-Levis 2/122 )]([ yxgh yxt ∆+∆ ∆∆≤∆ bằng 150 giây. Các chuỗi mực nước dùng để phân tích phổ các dao động tự do dài 1000 giờ được máy tính giữ lại cho 16 điểm phân bố đều đặn đại diện cho các dải bờ khác nhau và phần khơi biển (hình 1.1). Thủ tục phân tích điều hòa để khôi phục lại hình dạng không gian của các dao động (tức tính phân bố biên độ và pha của nó) được thực hiện cho một nửa số điểm tính ζ trên lưới tính. 24 2.3.3. Kết quả tính chu kỳ và những sơ đồ cấu trúc không gian của các dao động tự do Kết quả tính các dao động tự do được trình bày dưới dạng một bảng liệt kê những đỉnh phổ của mười sáu điểm tính phổ (bảng 2.1). Trong bảng này, những chữ số có dấu sao bên trên chỉ độ lớn (phương sai) của đỉnh phổ cao nhất có mặt trong phổ. Những chữ số không có dấu sao – các giá trị đã quy chuẩn theo tung độ của các đỉnh phổ cao nhất này (biểu thị bằng phần trăm của đỉnh phổ cao nhất). Dòng cuối cùng của bảng có ghi những trị số bình phương trung bình (đại diện cho phương sai tổng cộng) của mỗi chuỗi mực nước mà từ đó phổ được tính. Bảng 2.1. Những đỉnh phổ tại các điểm được phân tích Điểm Chu kỳ (giờ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 55,6 62* 10 2 11 2 4 25,0 2 2 3 2 2 2 2 2 24,8 38 23,8 6 6 19,2 95 146* 64* 83* 28 121* 208* 223* 153* 97 207* 219* 212* 96* 224* 212* 17,2 35 8 10 7 6 9 7 5 7 7 6 7 14,7 146* 75 13,2 13 8 2 14 11,6 62 15 49 24 10,6 23 10 80 21 8 76* 2 9,7 3 3 11 2 14 2 9,4 2 9,1 2 8,6 4 8,2 2 68 3 2 7,9 10 7,6 18 4 7,1 6 6 6,9 4 3 6,1 4 5 21 2 ∆ (mm) 121 172 89 48 50 89 41 41 99 80 39 51 29 21 38 22 Trên các hình (2.1)-(2.16) biểu diễn các đồ thị phổ của các điểm tính. Trục tung ghi giá trị phổ quy chuẩn theo giá trị của tung độ đỉnh phỏ cao nhất tại mỗi điểm. Cấu trúc không gian của bảy mốt dao động đáng chú ý nhất trong số những mốt nhận được, được biểu diễn trên các hình (2.17)-(2.23). Từ đây về sau, để mô tả những dao động tự do một cách ngắn gọn chúng tôi sẽ sử dụng 25 một số thuật ngữ của thủy triều vì hình dáng các dao động tự do và dao động thủy triều giống nhau, mặc dù hai hiện tượng này đương nhiên khác nhau. Trên tất cả các bản đồ của các mốt dao động đều tồn tại các hệ thống “amphidromy” liên hệ với nhau theo kiểu ăn khớp bánh răng khế. Những biên độ lớn nhất thấy ở các vùng nước nông, đặc biệt là tại đỉnh của các vịnh. Phân tích các kết quả đã nêu trên đây cho phép rút ra những nhận xét như sau: 1. Các đồ thị phổ nhận được tại tất cả các điểm tính đều có tính gián đoạn rõ rệt, hình dáng của các đường cong phổ có dạng như những phổ vạch. Điều đó cho phép tương đối dễ dàng xác định các đỉnh phổ và phần nào cũng nói lên tính tin cậy của chương trình tính. 2. Đối với toàn biển đã xác định được những đỉnh phổ với phần phương sai đáng kể là 55,6; 33,3; 25,0; 24,8; 23,8; 19,2; 17,2; 14,7; 13,2; 11,6; 10,6; 9,8-9,6; 9,4; 9,1; 8,6; 8,2; 7,9; 7,6; 7,1; 6,9; 6,1 và 4,7-4,2 giờ. Bảng 2.2 liệt kê những chu kỳ dao động tự do tại mỗi điểm tính để tiện tham khảo. Bảng 2.2. Những chu kỳ dao động tự do tại mỗi điểm tính Điểm Các chu kỳ (giờ) 1 55,6 23,8 19,2 11,6 10,6 9,8 7,6 6,1 2 55,6 19,2 13,2 11,6 10,6 9,8 8,2 3 55,6 23,8 19,2 13,2 11,6 10,6 9,6 8,2 7,1 6,1 4 55,6 24,8 19,2 17,2 13,2 10,6 9,6 9,1 8,6 8,2 6,1 5 19,2 17,2 14,7 8,2 6,9 6 33,3 25,0 19,2 17,2 14,7 7,6 7 19,2 17,2 8 25,0 19,2 17,2 9 25,0 19,2 13,2 11,6 10,6 9,8 7,9 7,1 6,4 6,1 10 55,6 19,2 17,2 10,6 6,1 11 25,0 19,2 17,2 12 25,0 19,2 17,2 13 25,0 19,2 17,2 14 55,6 25,0 19,2 17,2 11,6 10,6 9,8 9,4 15 19,2 17,2 16 25,0 19,2 17,2 3. Biển Đông là một hệ cộng hưởng rát phức tạp có khả năng cộng hưởng với những nhiễu động từ bên ngoài trên một dải chu kỳ khá rộng gồm đến năm nhóm mà chúng tôi quy ước gọi như sau: nhóm thứ nhất gồm các chu kỳ trên một ngày, đó là các chu kỳ 33,3 và 55,6 giờ. Nhóm thứ hai gồm các chu kỳ 23,8 – 24,8 – 25,0 giờ là những chu kỳ kiểu toàn nhật. Nhóm thứ ba gồm các chu kỳ 14,3 – 17,2 – 19,2 – những chu kỳ trung gian. Nhóm thứ tư 26 gồm các chu kỳ 10,6 – 11,6 – 13,2 – những chu kỳ kiểu bán nhật và nhóm thứ năm phong phú nhất gồm các chu kỳ từ 10,6 giờ trở xuống là nhóm các chu kỳ “nước nông”. 4. Nét đáng chú ý đầu tiên khi phân tích các bảng 2.1, 2.2 và các đồ thị phổ là những đỉnh phổ mang năng lượng lớn nhất thuộc về nhóm trung gian. Hầu như đỉnh phổ cao nhất của tất cả các điểm tính đều rơi vào chu kỳ 19,2 giờ, đỉnh phổ thứ hai là 17,2 giờ, chỉ duy nhất tại điểm tính số 5 đỉnh phổ cao nhất là 14,7 giờ, còn đỉnh phổ thứ hai mới là 19,2 giờ. Như vậy chu kỳ 19,2 giờ là chu kỳ dao động chung của toàn biển. Chúng ta thấy trên hình 2.19 toàn bộ khối nước của biển kể cả các vịnh của nó tham gia vào chuyển động lớn này. Hệ thống “amphidromy” lớn nhất quay trái với điểm “vô triều” ảo ở đông bắc biển làm cho toàn bộ khối nước vùng trung tâm biển được lan truyền sóng xoay trái. Trong các vịnh lại hình thành những hệ thống “amphidromy” riêng. Những nơi có biên độ dao động lớn nhất rõ ràng sẽ là phần phía nam của biển và trong các đỉnh vịnh. Ở đỉnh vịnh Thái Lan, biên độ dao động tương đối (quy chuẩn theo trị bình phương trung bình của nó trên toàn biển (xem bảng 2.3)) đạt tới 10 -13, tức biên độ tuyệt đối đạt gần một mét nước. Bức tranh tương tự như trên cũng có thể xảy ra với mốt 17,2 giờ. Điều khác biệt duy nhất là quy mô của dao động này nhỏ hơn, trị bình phương trung bình của biên độ chỉ bằng 14, và do độ dài bước sóng nhỏ hơn nên ở ngay phần phía nam của biển, trước cửa vào vịnh Thái Lan đã hình thành một điểm “vô triều” và trong vịnh Thái Lan hình thành thêm một cặp điểm “vô triều” nữa. Bảng 2..3. Trị số bình phương trung bình toàn biển của biên độ các dao động ứng với một số mốt Chu kỳ (giờ) 60 24 19,2 17,2 11,6 10,6 9,7 ∆ (mm) 16 10 64 14 18 15 8 5. Chu kỳ dao động cộng hưởng nữa đặc trưng cho toàn biển là chu kỳ 55,6 giờ. Trên biển hình thành ba hệ thống “amphidromy” xoay trái với các điểm “vô triều” tập trung ở phía bắc biển. Toàn bộ phần thủy vực trung tâm và phía nam tham gia vào chuyển động dao động để đạt biên độ khá lớn. Trong đỉnh vịnh Thái Lan biên độ tương đối đạt trên 6. Sở dĩ trên các phổ của các điểm thuộc bờ miền trung của Việt Nam (các điểm tính 5, 7, 8) và phần khơi phía bắc biển (các điểm tính 11, 12, 13, 15, 16) đỉnh phổ với chu kỳ này không lộ ra là do chúng nằm gần các điểm “vô triều” của sóng này. 6. Bây giờ chúng ta xét tới mốt dao động tự do với chu kỳ kiểu toàn nhật. Điều đáng chú ý ở đây là sự có mặt của các đỉnh phổ này ở hầu khắp biển, kể cả ở phần ngoài khơi lẫn ven bờ, chỉ trừ riêng có các điểm tính số 5, 7 ở quãng cửa tây nam vịnh Bắc Bộ, điểm số 2 gần bờ cận nam Việt Nam, điểm số 10 ở ven bờ đông bắc đảo Hải Nam của Trung Quốc và điểm số 15 ở sát bờ tây đảo Bocneo. Dao động với các chu kỳ 23,8 – 24,8 – 25,0 giờ này, như chúng ta thấy, có đặc điểm là gần bằng với chu kỳ dao động của các sóng thủy triều và 1K 27 1O . Trên hình 2.24 dẫn bản đồ thủy triều của sóng do Nguyễn Ngọc Thụy [43] tính được bằng phương pháp Hanxen. Thấy rằng, giữa mốt dao động tự do với chu kỳ ngày và dao động nhật triều có sự giống nhau trên những nét đại thể. 1K Như vậy dao động các sóng nhật triều của thủy triều đương nhiên sẽ được cộng hưởng trên toàn biển và gây nên tính độc đáo của chế độ triều ở biển Đông với nhật triều ngự trị, đúng như Nguyễn Ngọc Thụy [15] đã có mô tả trong “Thủy triều vùng biển Việt Nam” rằng “trên biển này, phần nhật triều không đều choán hầu khắp vùng biển khơi rộng lớn, phần nhật triều đều choán hầu khắp vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và phần quan trọng phía tây Philippin. Nếu ở các vùng biển khác của thế giới tính chất bán nhật triều thường đóng vai trò rất chủ yếu thì ở biển Đông ta chỉ quan sát thấy những khu vực bán nhật triều đều rất nhỏ ở eo biển Đài Loan, khu vực lân cận Thuận An và khu vực bán nhật triều không đều cũng không lớn ở phía nam eo biển Đài Loan cho tới phía đông bắc đảo Hải Nam, khu vực vịnh Pulô Lakei, vùng ven bờ biển đông nam Nam Bộ của Việt Nam, khu vực phía tây của vịnh Thái Lan và vùng lân cận Xinhgapo”. Nếu để ý thêm rằng tại các điểm tính số 3 và 9, tuy có sự cộng hưởng với các chu kỳ toàn nhật nhưng lại cũng cộng hưởng rất mạnh với các chu kỳ nửa ngày (bảng 2.1 và 2.2) thì từ đây chúng ta cũng có thể suy ra được phần lớn các địa phương có điều kiện thuận lợi cho bán nhật triều phát triển như tác giả [15] đã chỉ ra ở trên. Như vậy là từ kết quả của những tính toán về dao động tự do chúng tôi đã có thể dự đoán được tương đối chính xác những nơi nào của biển Đông thuận lợi cho phát triển nhật triều và những nơi nào thuận lợi cho dao động bán nhật triều. 7. Qua những nhận xét ở trên, chúng ta thấy rằng biển Đông được đặc trưng bởi một nhóm những chu kỳ cộng hưởng chung. Tuy nhiên từng vùng biển khác nhau của nó do những đặc điểm khu vực về độ sâu và viền bờ bao quanh còn có sự phân hóa rất rõ rệt về khả năng cộng hưởng dao động, tức mỗi vùng của biển có thể coi là một bộ cộng hưởng. Thí dụ, những chu kỳ cộng hưởng ở nhóm bán nhật chỉ đặc trưng cho những điểm tính với số hiệu 1, 2, 3 và 4, tức những điểm đại diện cho vịnh Thái Lan, điểm 9 gần vịnh Pulô Lakei, đại diện cho vùng thềm lục địa nước nông ở đông nam biển và các điểm 10 và 14 đại diện cho dải ven bờ nam Trung Quốc từ eo Đài Loan cho đến đông bắc đảo Hải Nam. Những vùng này thực tế cho thấy đúng là những vùng với chế độ dao động triều bán nhật không đều hoặc thậm chí bán nhật đều. Vùng biển vịnh Bắc Bộ là điển hình về sự phân hóa mạnh trong đặc điểm cộng hưởng. Nếu chúng ta so sánh những chu kỳ cộng hưởng của các điểm 6 và 7, thì thấy rằng những điểm này chỉ cách nhau vài trăm cây số nhưng chúng có kiểu cộng hưởng rất khác nhau: vùng điểm số 6 cộng hưởng với các sóng triều bán nhật và những sóng triều nước nông, là những dao động luôn luôn xảy ra và kết quả là độ lớn triều trong vùng thuộc loại lớn nhất trong biển, trong khi đó ở điểm số 7 danh sách các chu kỳ cộng hưởng rất nghèo nàn, nó chỉ cộng hưởng với hai dao động 19,2 và 17,2 giờ là những dao động rất hiếm thấy và thực tế đây chính là nơi 28 có độ lớn thủy triều rất nhỏ như chúng ta đã biết. 8. Tính phân hóa về đặc điểm cộng hưởng không những biểu hiện ở sự có mặt hay không có mặt của những nhóm chu kỳ ở điểm tính này hay điểm tính kia, mà ngay trong một nhóm chu kỳ cộng hưởng, ở các điểm khác nhau, chúng ta cũng thấy có khác nhau về trị số. Thí dụ, từ bảng 2.1 và 2.2 thấy rằng đa số các điểm phần phía bắc và trung tâm biển và cả ở vịnh Bắc Bộ chu kỳ cộng hưởng của nhóm chu kỳ “toàn nhật” bằng 25,0 giờ. Trong khi đó, ở những điểm tính thuộc phần phía nam biển (điểm 3, 4) và trong vịnh Thái Lan (điểm 1) chu kỳ cộng hưởng nhỏ hơn (bằng 23,8 giờ đối với điểm số 1 và 3, bằng 24,8 giờ đối với điểm 4) và phần phương sai giành cho đỉnh phổ nơi đây cũng lớn hơn gấp ba lần. Như vậy, ở phía bắc và trung tâm biển các sóng nhật triều và cùng được cộng hưởng, nhưng chắc chắn sóng được cộng hưởng mạnh hơn so với sóng vì chu kỳ của sóng lớn hơn chu kỳ của sóng , nó gần trùng với chu kỳ cộng hưởng 25,0 giờ hơn (chu kỳ của các sóng và tuần tự bằng 25,82 và 23,93 giờ). 1K 1O 1O 1K 1O 1K 1O 1K Khi tiến sâu xuống phía nam, dọc theo trục chính đông bắc – tây nam của biển, thì sự cộng hưởng lại thuận lợi hơn cho sóng vì chu kỳ của nó (bằng 23,93 giờ) rất gần với chu kỳ cộng hưởng ở điểm 4 và gần như trùng một cách lý tưởng với chu kỳ cộng hưởng ở các điểm 1 và 3, còn chu kỳ của sóng thì cách xa các chu kỳ cộng hưởng ở nơi đây hơn. 1K 1O Kết quả chắc chắn sẽ phải như sau: 1) nếu chu kỳ cộng hưởng tại điểm gần nhất với chu kỳ sóng thủy triều nào thì biên độ của sóng thủy triều đó phải lớn; 2) tỷ số biên độ của hai sóng và cần phải tăng dần từ phía bắc biển xuống phía nam biển. 1K 1O Kết quả phân tích điều hòa do chúng tôi thực hiện bằng sơ đồ chính xác đã nêu ở chương 1 đối với các chuỗi năm của mực nước thực đo dẫn trong bảng 2.4 hoàn toàn khẳng định cho nhận xét này. Bảng 2.4. Tương quan biên độ của các sóng nhật triều ở một số trạm theo tuyến dọc biển Sóng Hòn Dấu Đà Nẵng Quy Nhơn Vũng Tàu Rạch Giá 1K (cm) 65,16 19,44 30,88 59,48 20,46 1O (cm) 74,71 12,93 26,49 45,22 11,82 1 1 O K 0,87 1,50 1,16 1,32 1,73 Rõ ràng từ bảng 2.4 chúng ta thấy được hai điều đã khẳng định ở trên: ở đoạn bờ miền trung nước ta tương ứng điểm tính số 7 và ở Rạch Giá, tương ứng điểm tính số 2, tại các trạm không tồn tại một chu kỳ cộng hưởng nào trong số các chu kỳ nhóm toàn nhật, nên các sóng và ở đây nói chung có trị số biên độ nhỏ hơn nhiều so với ở các trạm còn lại. Sóng 1K O K1 1 29 ở phía bắc có biên độ nhỏ hơn sóng đã trở thành lớn gấp đôi ở phía nam biển. 1O Kết quả tương tự cũng nhận được nếu chúng ta phân tích như trên với các sóng thủy triều bán nhật. Phần phía bắc và trung tâm biển, nhìn chung không cộng hưởng với nhóm chu kỳ bán n hật triều nên biên độ của cả hai sóng và đều nhỏ. Nhưng ở phía nam, chu kỳ cộng hưởng 11,6 giờ gần với chu kỳ của sóng hơn là sóng , nên sóng tăng biên độ một cách mạnh mẽ hơn và kết quả chúng ta có thể xét theo bảng các hằng số điều hòa do chúng tôi tính theo số liệu thực đo dẫn dưới đây. 2S 2M 2M 2S 2M Bảng 2.5. Tương quan biên độ của các sóng bán nhật triều ở một số trạm theo tuyến dọc biển Sóng Hòn Dấu Đà Nẵng Quy Nhơn Vũng Tàu Rạch Giá 2S (cm) 5,03 5,75 6,65 28,64 3,04 2M (cm) 9,29 17,23 16,06 74,83 16,12 2 2 M S 0,54 0,33 0,41 0,38 0,18 Trên đây là những thí dụ về việc sử dụng các kết quả tính dao động tự do để giải thích những nét độc đáo của hiện tượng thủy triều trên biển Đông. Như vậy là những kết quả tính dao động tự do đã giúp giải thích khá thỏa đáng những đặc điểm của hiện tượng thủy triều, kể cả những nét tinh tế nhất trong hiện tượng này. Cũng dựa vào kết quả tính toán trên, chúng tôi có thể sơ bộ chia thủy vực biển Đông thành sáu loại vùng dựa theo khả năng phản ứng cộng hưởng của nó với những kích động bên ngoài mà theo chúng tôi có ý nghĩa dự báo như sau: Vùng loại 1 là toàn bộ phần trung tâm rộng lớn thủy vực biển Đông kể cả phần bờ sâu trung nam của Việt Nam, chỉ cộng hưởng với các chu kỳ ngày và trung gian. Biểu hiện dao động mực nước mang tính nhật triều không đều với biên độ nhỏ. Vùng loại 2 gồm toàn bộ vịnh Bắc Bộ trừ phần phía tây nam cửa vịnh, cộng hưởng với các chu kỳ trung gian, ngày, các chu kỳ nước nông, không cộng hưởng với chu kỳ nửa ngày. Biểu hiện dao động mực nước sẽ là nhật triều đều biên độ lớn. Vùng loại 3 gồm một vùng nhỏ ở phía tây nam cửa vịnh Bắc Bộ tiếp giáp Việt Nam và một vùng nhỏ nữa ven bờ tây bắc đảo Calimantan, chỉ cộng hưởng với các chu kỳ trung gian, hoàn toàn không cộng hưởng với các chu kỳ triều. Biểu hiện dao động mực nước sẽ là bán nhật triều đều nhưng biên độ rất nhỏ. Vùng loại 4 gồm một dải hẹp ven bờ đông nam Việt Nam và một vùng đối diện ở ven bờ tây nam đảo Calimantan, phản ứng với dải chu kỳ rộng gồm cả năm nhóm chu kỳ, nhưng cộng hưởng với các chu kỳ bán nhật có phần mạnh hơn, nên biểu hiện dao động mực nước sẽ là thủy triều hỗn hợp với bán nhật triều không đều. 30 Vùng loại 5 bao trùm phần phía bắc vịnh Thái Lan, cộng hưởng với dải rộng gồm cả năm nhóm chu kỳ, trong đó cộng hưởng với chu kỳ toàn nhật mạnh nhất, nên biểu hiện của dao động mực nước sẽ có tính chất nhật triều với các sóng nước nông phong phú và biên độ dao động khá lớn. Vùng loại 6 giáp bờ nam Trung Quốc ở phía đông bắc đảo Hải Nam cho tới eo Đài Loan (gần các điểm tính 10 và 14) phản ứng với dải rộng các chu kỳ, nhưng hoàn toàn không cộng hưởng với dao động ngày nên biểu hiện mực nước sẽ là bán nhật cộng với các sóng nước nông phát triển. Có thể thấy rằng sự phân vùng trên đây thuần túy dựa theo đặc điểm của dao động tự do của từng vùng, cũng đã cho phép chúng ta đoán được những khả năng của những vùng đó thuộc vào một kiểu dao động thủy triều nào. Để so sánh chúng tôi dẫn bản đồ phân bố tính chất thủy triều trên biển Đông lấy trong [43] (hình 2.25). Thấy rằng, về cơ bản những vùng với những đặc trưng thủy triều dự đoán đã được thể hiện gần giống với bản đồ phân bố tính chất thủy triều. 2.4. Những kết luận rút ra từ khảo sát dao động tự do Qua một mô hình tương đối đơn giản này chúng tôi đã khảo sát được những tính chất rất quan trọng của biển Đông như một hệ cộng hưởng. Có thể thấy rằng thủy vực này có một chế độ dao động tự do rất phức tạp phản ánh sự phức tạp của hình dạng đường bờ và địa hình đáy của nó. Biển Đông có thể cộng hưởng với những lực tác động từ bên ngoài trên một dải rộng các gtần số. Trong số những chu kỳ cộng hưởng của biển có mặt các chu kỳ với trị số xấp xỉ chu kỳ dao động của thủy triều toàn nhật và bán nhật. Điều này một lần nữa lý giải cơ chế cộng hưởng của các sóng triều làm cho biên độ thủy triều đặc biệt lớn trong một số vùng của biển này và phân hóa tính chất triều ở những vùng khác nhau. Việc khả sát tính phân hóa trong dao động tự do ở các vùng khác nhau của biển Đông đã giúp giải thích nhiều hiện tượng độc đáo lý thú trong dao động thủy triều của biển như sự tồn tại vùng nhật triều biên độ lớn, những vùng bán nhật triều, quy luật tăng giảm các tương quan biên độ của các sóng nhật triều hay bán nhật triều khi chúng lan truyền trong biển. Những đặc điểm độc đáo của chế độ thủy triều ở biển Đông rõ ràng là kết quả của sự cộng hưởng của các sóng thủy triều tại những vùng khác nhau của biển. Những vùng thềm lục địa và những vịnh biển có khả năng cộng hưởng với những nhiễu động cỡ vài giờ sẽ là nơi có nhiều thuận lợi cho các sóng bội của thủy triều phát triển mà điều này thì luôn luôn có cơ hội để xảy ra. Vì vậy vấn đề phân tích các sóng nước nông trong chuỗi đo mực nước là rất cần thiết. Chu kỳ cộng hưởng 19,2 giờ chiếm phần phương sai rất lớn và phổ biến trong toàn biển. Nếu xuất hiện những nhiễu động của ngoại lực như các nhiễu của trường gió hay áp suất khí quyển trong bão trùng hợp với chu kỳ này, thì rất có khả năng trong biển sẽ có dao động với 31 biên độ nguy hiểm. Đáng tiếc chúng tôi không có tư liệu để phân tích khía cạnh này của vấn đề. Sơ đồ tính toán ở đây có thể sử dụng để khảo sát dao động riêng của các đầm hoặc hồ nước khi nghiên cứu xâyxi, hay dao động lắc của các thủy vực cảng, vũng tầu... Hình 2.1. Phổ dao động tự do tại điểm số 1 (các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-23,8-19,2-11,6-10,6-9,8-7,6-6,1 giờ) Hình 2.2. Phổ dao động tự do tại điểm số 2 (các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-19,2-13,2-11,6-10,6-9,8-8,2 giờ) 32 Hình 2.3. Phổ dao động tự do tại điểm số 3 (các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-23,8-19,2-13,2-11,6-10,6-9,6-8,2-7,1-6,1 giờ) Hình 2.4. Phổ dao động tự do tại điểm số 4 (các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-24,8-19,2-17,2-13,2-10,6-9,6-9,1-8,6-8,2-6,1 giờ) 33 Hình 2.5. Phổ dao động tự do tại điểm số 5 (các đỉnh ứng với chu kỳ 19,2-17,2-14,7-8,2-6,9 giờ) Hình 2.6. Phổ dao động tự do tại điểm số 6 (các đỉnh ứng với chu kỳ 33,3-25,0-19,2-17,2-14,7-7,6 giờ) 34 Hình 2.7. Phổ dao động tự do tại điểm số 7 (các đỉnh ứng với chu kỳ 19,2-17,2 giờ) Hình 2.8. Phổ dao động tự do tại điểm số 8 (các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-17,2 giờ) 35 Hình 2.9. Phổ dao động tự do tại điểm số 9 (các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-13,2-11,6-10,6-9,8-7,9-7,1-6,4-6,1 giờ) Hình 2.10. Phổ dao động tự do tại điểm số 10 (các đỉnh ứng với chu kỳ 55,6-19,2-17,2-10,6-6,1 giờ) 36 Hình 2.11. Phổ dao động tự do tại điểm số 11 (các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-17,2 giờ) Hình 2.12. Phổ dao động tự do tại điểm số 12 (các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0-19,2-17,2 giờ) 37 Hình 2.13. Phổ dao động tự do tại điểm số 13 (các đỉnh ứng với chu kỳ 25,0

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuanAnTienSi.pdf