Luận án Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6

1.2. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo và vấn đề

đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 21

Chương 2: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG

TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 24

2.1. Trí thức và công tác vận động trí thức ở nước ta 24

2.2. Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức và đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức - khái niệm, nội dung

và phương thức41

Chương 3: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI SỰ

LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG

TRÍ THỨC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 60

3.1. Thực trạng đội ngũ trí thức và công tác vận động trí thức ở nước

ta hiện nay 60

3.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức -

thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm 79

Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP

CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025 116

4.1. Những nhân tố tác động và yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức 116

4.2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác vận động trí thức giai đoạn hiện nay 125

KẾT LUẬN 154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158

PHỤ LỤC 169

pdf183 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí thức. Do đặc thù của đội ngũ trí thức khác với các giai tầng xã hội khác, họ là những người có học vấn cao, vì vậy Đảng chủ trương từ Trung ương đến địa phương, cơ sở 79 phải đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng một đội ngũ cán bộ chủ chốt chuyên trách và bán chuyên trách giúp Trung ương nghiên cứu, soạn thảo ra các “vấn đề vĩ mô”, các chủ trương, đường lối và giúp các địa phương, cơ sở vận dụng, triển khai một cách đúng đắn, sáng tạo, có hiệu quả tốt công tác vận động trí thức ở các cấp. Nhìn chung, trình độ học vấn và trí tuệ của các cán bộ chủ chốt ở các cấp chí ít cần bằng hoặc trội hơn, nhất là về lý luận chính trị, các khoa học lãnh đạo, quản lý so với trình độ chung của bộ phận trí thức mà họ được trực tiếp phân công đảm nhiệm trong công tác vận động trí thức. Đó vừa là nhận thức, vừa là kinh nghiệm thực tiễn rất cần chú trọng trong công tác này. Hơn thế, đội ngũ cán bộ làm công tác vận động trí thức còn phải được học tập, tích lũy các nghệ thuật tổng hợp trong công tác vận động trí thức, ví dụ: nghệ thuật giao tiếp; nghệ thuật ứng xử; nghệ thuật tuyên truyền, thuyết phục; nghệ thuật “phản biện” hay đấu tranh; nghệ thuật biểu dương, khen thưởng về tinh thần và vật chất Rất nhiều trí thức coi trọng động lực tinh thần, dù không coi thường các động lực vật chất. Vì vậy, cán bộ làm công tác vận động trí thức phải đạt yêu cầu: được đa số trí thức mà mình tiếp xúc “khẩu phục, tâm phục”, thì công tác này mới có kết quả tốt. Bốn là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Quá trình đổi mới công tác tư tưởng của Đảng thể hiện qua các Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 24 - 8 - 1989 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX số 16- NQ/TW, ngày 18 - 3 - 2002 “về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” và một số nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác tư tưởng, công tác lý luận đã thể hiện sự đổi mới, chú trọng công tác tư tưởng đối với trí thức. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, các cấp ủy Đảng đã tổ chức và hướng dẫn các bộ phận khác nhau của tầng lớp trí thức học tập, nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở những mức độ, yêu cầu, nội dung, hình thức và phương pháp khác nhau, phù hợp mỗi đối 80 tượng; Tổ chức và hướng dẫn trí thức nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối cách mạng, Cương lĩnh, Chiến lược, chủ trương lớn của Đảng ta, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước ta và một số nội dung cơ bản hoạt động của cả hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài việc học tập lý luận chính trị, việc học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng, vận động, yêu cầu và tạo điều kiện để trí thức nhận thức và thực hiện đúng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, vận động trí thức tự giác và tích cực tham gia các hoạt động xã hội để hợp tác với nhau, góp phần tăng cường sức mạnh đồng thuận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Vận động và tạo điều kiện cho trí thức Việt Nam mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong giai đoạn hiện nay cũng đã được chú trọng. Nếu như trước đây, công tác chính trị, tư tưởng đối với trí thức chỉ chú trọng vào việc tuyên truyền vận động thì trong những năm gần đây, hình thức gặp gỡ, đối thoại trực tiếp để đối thoại giữa các cấp lãnh đạo của Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa cấp ủy chính quyền địa phương được chú trọng; đồng thời phát huy ảnh hưởng của những trí thức lớn, có uy tín cao đến bộ phận đông đảo còn lại của đội ngũ trí thức. Ngoài ra các hoạt động tôn vinh trí thức như các giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ, giải thưởng Hồ Chí Minh được tổ chức định kỳ cũng góp phần động viên tinh thần đối với trí thức. Năm là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức Đảng đã đổi mới tư duy về giáo dục và đào tạo để xây dựng đội ngũ trí thức. Đổi mới GD&ĐT là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Từ năm 1986, yêu cầu của đổi mới đất nước là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học và công nghệ, song giáo dục và đào tạo phải trở thành điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa những mục tiêu của khoa học và công nghệ. Như vậy, để có đội ngũ trí thức có trình độ kỹ thuật cao thì phải coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, bên cạnh đó Đảng ta cũng khẳng định: “giáo dục và đào tạo là chìa khóa để mở cửa tiến vào tương lai”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khóa VIII (12-1996) của Đảng khẳng định “Nhận thức sâu sắc giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và 81 công nghệ là nhân tố quyết định tăng cường kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Với mục tiêu đầu tư cho giáo dục, trong những năm đầu đổi mới chúng ta chú trọng vào giáo dục Đại học, các trường đại học là ngành đào tạo chính đội ngũ trí thức trẻ bổ sung cho lực lượng cán bộ khoa học - công nghệ và chuyên gia trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa khác. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng chủ trương mở rộng đào tạo cán bộ khoa học ở nước ngoài, nhằm vào các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn mà ta đang có nhu cầu cấp bách. Một trong những vấn đề mà Đảng ta quan tâm trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức là việc “trẻ hóa” đội ngũ trí thức. Trước đây số cán bộ trẻ trong các trường đại học rất ít và hầu như trí thức trẻ không ai được phong học hàm giáo sư, phó giáo sư, nhưng những năm gần đây, nhờ có nhiều chính sách như tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, các chính sách đãi ngộ khác, nhiều trường đại học đã thu hút được đông đảo số lượng cán bộ trẻ, đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, GD&ĐT còn những bất cập, yếu kém. GD&ĐT vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa là động lực quan trọng nhất cho phát triển. Chất lượng giáo dục nhìn chung thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, yêu cầu phát triển giáo dục, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” [47]. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, ngày 4-11-2013, Hội nghị Trung ương 8 đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. Đây là những nghị quyết hết sức quan trọng góp phần đưa giáo dục đào tạo phát triển nhằm thúc đẩy việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhân tài nói chung và đặc biệt góp phần tạo nên nền tảng vững chắc cho việc đặt nền móng để xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. 82 Sáu là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các lực lượng xã hội trong việc tạo lập môi trường, điều kiện hoạt động khoa học thuận lợi cho các tập thể trí thức lao động, cống hiến Việc Đảng xác định một trong những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất nước là phát triển KTTT, tiếp tục đổi mới phát triển GD&ĐT, khoa học và công nghệ. Đây thực chất là tạo môi trường phát huy trí tuệ cho trí thức Việt Nam. Đại hội XI của Đảng nêu rõ: Phát triển kinh tế thị trường trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức. Phát huy và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh tế thị trường đến năm 2020 [51, tr. 220-221]. Với môi trường này, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng trở thành trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển, được tôn trọng và phát huy vai trò của mình. Sống trong môi trường trí tuệ thuận lợi, con người Việt Nam, nhất là người trí thức phải học tập suốt đời, được đào tạo và đào tạo lại thường xuyên, bằng trường lớp và tự học hỏi để có năng lực chuyên môn tương xứng, lao động giỏi, đáp ứng được đòi hỏi cao về năng suất, chất lượng của KTTT. Với đường lối đối ngoại ngày càng đổi mới sẽ mở ra môi trường quốc tế rộng lớn cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Đường lối đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tạo điều kiện đa dạng hóa các nguồn lực và địa chỉ đào tạo trí thức nước ta từ các quốc gia khác nhau. Hợp tác quốc tế về khoa học được mở rộng tạo khả năng để trí thức nước ta giao lưu, trao đổi thông tin, tiếp cận những tri thức mới. Trí thức người Việt Nam định cư ở nước ngoài có cơ hội nhiều hơn hướng về Tổ quốc, đóng góp trí lực và vật lực nhiều hơn vào xây dựng quê hương, đất nước... 83 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo khả năng nhiều cơ hội và việc làm cho trí thức. Người trí thức có mặt ở mọi thành phần kinh tế, có cơ hội lựa chọn những nơi làm việc phù hợp để được cống hiến nhiều nhất và hưởng thụ xứng đáng, hơn nữa có khả năng vươn lên làm giàu chính đáng. Hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn là phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, trong đó có thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao động. tác động trực tiếp đến người trí thức. Bởi vì, như Đại hội Đảng lần thứ XI nêu rõ: “Phát triển mạnh kinh tế thị trường, KH&CN gắn với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có hình thức thông tin giới thiệu các hoạt động và sản phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế và mua bán các sản phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường” và “Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền công phải được gọi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường” [51, tr.213]. Như vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đem lại môi trường thuận lợi, bình đẳng, và tạo nên động lực kinh tế mạnh mẽ cho trí thức nước ta trong lao động sáng tạo khoa học. Thế nhưng trong nền kinh tế thị trường, người trí thức cũng phải chịu sức ép cạnh tranh, phải không ngừng học tập, bồi dưỡng để giữ vững “thương hiệu” cho sản phẩm khoa học và giá trị “chất xám” của mình. Nhất là, người trí thức phải biết giữ mình, không bị tha hóa trước những “cám dỗ” và tiêm nhiễm những tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường Bảy là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các đoàn thể chính tri - xã hội trong việc tập hợp, đoàn kết trí thức trong khối đại đoàn kết toàn dân tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Đảng đổi mới lãnh đạo Đảng đoàn MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội quán triệt sâu sắc, nắm vững và gương mẫu thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác vận động trí thức theo chức năng, nhiệm vụ của bộ, ngành, mặt trận và các đoàn thể bằng chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể; Chỉ đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác dân vận và nhiệm vụ công tác vận động trí thức của bộ, ngành, Mặt trận và các đoàn thể; Có biện pháp thực hiện tốt công tác vận động trí thức, ổn 84 định tư tưởng trí thức theo đặc thù, phạm vi của cơ quan, tổ chức mình. Từ sự lãnh đạo của Đảng, MTTQ đã có nhiều hoạt động như vận động, kêu gọi trí thức Việt kiều hướng về Tổ quốc, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng những hoạt động thiết thực. Đoàn Thanh niên với các chương trình, đề án Trí thức trẻ đã tạo cơ hội cho trí thức trẻ cống hiến và trưởng thành, góp sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phụ nữ với dự án “Nữ trí thức Việt Nam với hoạt động sáng tạo” nhằm tạo điều kiện để hỗ trợ thương mại hóa các đề tài nghiên cứu của nhà khoa học nữ, tạo ra giá trị đích thực cho xã hội... Đảng cũng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như: Chỉ thị 35-CT/TW ngày 11-4-1988, của Ban Bí thư Trung ương Đảng về củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, trong đó nêu rõ “Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo cơ cấu và quy chế của một đoàn thể quần chúng cấp trung ương”; Ngày 20-11- 1992, Ban Bí thư trung ương Đảng ra Thông báo số 37-TB/TW về tổ chức và hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam, trong đó đề ra yêu cầu “cần thể chế hóa chức năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội về khoa học và kỹ thuật của các hội”; Ngày 11-11- 1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) ra Chỉ thị số 45-CT/TW về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam, trong đó nêu rõ: “Liên hiệp hội là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN Việt Nam, cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ngày 16-4-2010, Bộ Chính trị (khóa X) ra Chỉ thị số 42-CT/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị nêu rõ: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có hệ thống từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo [50]. Nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và của đội ngũ văn nghệ sĩ, ngày 16-6-2008, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Nghị quyết nêu rõ: Xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng, 85 chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững chắc, có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa dạng, đoàn kết, gắn bó cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước ta. Ngoài những nghị quyết nêu trên Đảng còn ban hành nhiều nghị quyết khác nhằm tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức như Nghị quyết số 36- NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức, Đảng còn thành lập các Đảng đoàn của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Hội Liên hiệp Văn học, Nghệ thuật, Hội Luật gia, Hội nhà Báo Đây cũng là một sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Các đảng đoàn tổ chức quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, phát huy tinh thần dân chủ, tham gia tư vấn, phản biện về những vấn đề hệ trọng liên quan đến quốc kế, dân sinh, cũng như mạnh dạn đề đạt ý kiến của mình trong việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. * Những ưu điểm trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Một là, đã có những đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị quyết và các định hướng chính sách lớn về trí thức và công tác vận động trí thức Khác với trước đây, việc ban hành nghị quyết được đưa vào chương trình kế hoạch toàn khóa của các kỳ Đại hội Đảng và được chuẩn bị kỹ càng, chu đáo, chứ không phải theo từng vụ việc, từng vấn đề như trước. Ví dụ như khi ban hành Nghị quyết số 27 - NQ/TW, theo chương trình toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị Trung ương 7 sẽ bàn và ra Nghị quyết về ''Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế”. Trong quá trình chuẩn bị đề án, thấy rằng về vấn đề giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có những nghị quyết chuyên sâu: Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VII) về giáo dục và đào tạo, về khoa học và công nghệ, v.v. Sau đó có rất nhiều nghị quyết và chỉ thị của Bộ Chính trị liên quan đến vấn đề này. Nhưng về trí thức, dù đã được đề cập ở khía cạnh này, 86 khía cạnh khác trong các nghị quyết chuyên đề, về mặt chính thức chúng ta chưa bàn tổng thể về xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức, trong khi đó thực tiễn xung quanh vấn đề trí thức đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới, rất quan trọng. Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức, Bộ Chính trị đã cân nhắc, đề nghị và được Trung ương nhất trí điều chỉnh tiêu đề của Đề án thành “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế”. Sau đó tại Hội nghị Trung ương thống nhất bỏ cụm từ “ hội nhập kinh tế quốc tế”. Trước khi ban hành Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa X đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo để lấy ý kiến các đại biểu trí thức, thể hiện bầu không khí sinh hoạt dân chủ đối với trí thức tham gia vào công việc có liên quan đến vận mệnh của chính mình. Trong quá trình hội thảo, thảo luận, đã có khoảng 200 lượt ý kiến của trí thức phát biểu xoay quanh vấn đề trí thức Việt Nam. Khi bản dự thảo Nghị quyết này đưa ra thảo luận tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X, trong hai ngày 10 và 11-7-2008, Trung ương đã thảo luận rất sôi nổi, nhiều ý kiến tâm huyết và sâu sắc. Đã có 108 lượt ý kiến phát biểu. Trong quá trình chỉ đạo chuẩn bị Đề án, Bộ Chính trị đề xuất đổi tên đề án đã ghi trong Chương trình toàn khóa là “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế”, thành tên mới: “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tên gọi mới này của Nghị quyết đã được đa số các ủy viên Trung ương nhất trí và trở thành tên gọi chính thức Việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết về trí thức có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và thể hiện quyết tâm chính trị cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy Đảng. Trong nghị quyết có giao trách nhiệm cụ thể cho các ban của Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương Đảng, các tỉnh ủy, thành ủy. tổ chức nghiên cứu, quán triệt nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân; xây dựng chương trình hành động để đưa nghị quyết vào cuộc sống. Công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết về trí thức có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và thể hiện quyết tâm chính trị cao thông qua việc 87 tổ chức sơ kết tổng kết và có kết luận, đánh giá ưu, khuyết điểm, phê bình, nhắc nhở, chấn chỉnh kịp thời đối với các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc và hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt tích cực để phát huy, mặt yếu kém để uốn nắn, khắc phục. Hai là, đã có những đổi mới hoạt động của Đảng trong chỉ đạo xây dựng chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước về công tác vận động trí thức. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, là tiền đề và điều kiện để Nhà nước giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của mình. Nội dung chủ yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức là Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Trung ương Đảng và Bộ Chính trị thông qua Đảng đoàn Quốc hội và các đảng viên là đại biểu Quốc hội để lãnh đạo hoạt động của Quốc hội . Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước; thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng, quyết định những vấn đề về công tác vận động trí thức, về GD&ĐT, KH&CN. Kiểm tra, giám sát tối cao việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Quốc hội về công tác vận động trí thức, về GD&ĐT, KH&CN. Trong quá trình đổi mới, Đảng đã có đổi mới quan trọng về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ trong công tác vận động trí thức. Với tư cách là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn để chỉ đạo, định hướng về công tác vận động trí thức về GD&ĐT, KH&CN cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những chủ trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ. Đảng không làm thay chính quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định những phương hướng, chủ trương, chính sách lớn về vận động trí thức, về văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, y tế ... còn Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và ban hành chiến lược, chương trình, kế hoạch, quyết định cụ thể, Các bộ, ngành, đoàn thể cụ thể hóa 88 thêm một bước thành nghị quyết, thông tư, quyết địnhcho từng nhiệm vụ, từng giai đoạn và tổ chức thực hiện. Như vậy, việc lựa chọn đúng vấn đề quan trọng liên quan tới hoạt động của Chính phủ mà Đảng cần bàn và ra quyết định là rất cần thiết để tránh được sự lẫn lộn giữa chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Chính phủ trong những vấn đề liên quan đến vận động trí thức. Ba là, đã có những đổi mới công tác tư tưởng của Đảng trong tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Công tác tư tưởng góp phần trực tiếp và thiết thực trong việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội và đội ngũ trí thức để mang lại hiệu quả thiết thực trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Trí thức vừa là đối tượng vừa là chủ thể có điều kiện, ưu thế để làm công tác tư tưởng. Đảng đã chú trọng hoạt động giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các trường đào tạo cán bộ (của Trung ương, tỉnh, thành phố, quận, huyện), các trường đại học, cao đẳng, và hệ thống giáo dục phổ thông. Đây là hình thức, biện pháp cơ bản để không ngừng nâng cao trình độ lý luận, giác ngộ chính trị cho trí thức trẻ, cho cán bộ, đảng viên và đội ngũ trí thức. Thông qua hệ thống truyền thông đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình và các thiết chế, ấn phẩm khác. Ngày nay, với những thành tựu mới của khoa học - công nghệ, hệ thống truyền thông đại chúng đã trở thành một loại “vũ khí” toàn diện và mạnh mẽ nhất trên mặt trận tư tưởng và là nhân tố thường xuyên tác động tới đời sống tinh thần của đội ngũ trí thức và toàn xã hội. Hình thức giáo dục chính trị tư tưởng thông qua sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức đảng (cấp ủy các cấp, chi bộ), các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức hiệp hội, các câu lạc bộ trí thức được chú trọng. Hình thức, biện pháp này nhằm phát huy vai trò tự giáo dục trong từng tổ chức, từng cơ sở, là hình thức để trí thức tự giáo dục trí thức. Đây là biện pháp quan trọng bảo đảm cho công tác tư tưởng sát với đặc điểm từng đối tượng trí thức, với điền kiện, hoàn cảnh của từng nơi và thiết thực phục vụ cho hoàn thành nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ sở. Ngoài các hình thức trên, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hoạt động biểu diễn nghệ thuật, điện ảnh, các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, tuyên 89 truyền, giáo dục của cán bộ, đảng viên và hành động gương mẫu của họ trong công tác và lối sống... mà giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, đạo đức, lối sống lành mạnh cho đội ngũ trí thức. Nét đặc trưng của hình thức, biện pháp này là giáo dục thông qua con đường tình cảm; hiệu lực của nó là để lại những dấu ấn sâu sắc, bền vững trong nhận thức, tư tưởng, tâm khảm trí thức. Bốn là, đã có những đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của Đảng trong các cơ quan quản lý nhà nước về công tác vận động trí thức, trongcác tập thể lao động khoa học, trong các đơn vị sự nghiệp khoa học công lập. Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất về công tác cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị là một trong những nhiệm vụ lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Nhằm t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftv_doi_moi_su_lanh_dao_cua_dang_doi_voi_cong_tac_van_dong_tri_thuc_trong_giai_doan_hien_nay_7024_191.pdf
Tài liệu liên quan