Luận án Nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU 5

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10

1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án 10

1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án 17

1.3. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề đề luận án tập trung nghiên cứu 26

Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT, NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA QUÂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP, CÔNG NHÂN VÀ VIÊN CHỨC QUỐC PHÒNG Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI 31

2.1. Ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội 31

2.2. Quan niệm, những vấn đề có tính nguyên tắc nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội 53

Chương 3 THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA QUÂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP, CÔNG NHÂN VÀ VIÊN CHỨC QUỐC PHÒNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA QUÂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP, CÔNG NHÂN VÀ VIÊN CHỨC QUỐC PHÒNG Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI 70

3.1. Thực trạng ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội 70

3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 105

Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA QUÂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP, CÔNG NHÂN VÀ VIÊN CHỨC QUỐC PHÒNG Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 117

4.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 117

4.2. Những giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 128

KẾT LUẬN 168

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 171

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 172

PHỤ LỤC 187

 

doc226 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a toàn diện, thiếu quyết liệt trong triển khai thực hiện; còn có cán bộ thiếu gương mẫu, nói chưa đi đôi với làm, ý thức tổ chức kỷ luật kém, vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội” [60, tr.3]. Với chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là lãnh đạo, quản lý, giáo dục chấp hành pháp luật, kỷ luật, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp ở các HV, TSQ quân đội đã có nhiều cố gắng trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, góp phần nâng cao chất lượng GD, ĐT. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn có cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chỉ huy chưa đề cao trách nhiệm, sâu sát tỷ mỷ trong quản lý, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật của QNCN, công nhân và VCQP. Một số cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, nhất là cán bộ ở cơ sở trách nhiệm chưa cao, năng lực còn hạn chế, chưa thường xuyên sâu sát bám nắm đơn vị; giải quyết chưa thấu đáo, thiếu quyết liệt, chưa triệt để với những vướng mắc nảy sinh trong tư tưởng của QNCN, công nhân và VCQP thuộc quyền. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của một số cấp ủy, chỉ huy chưa thường xuyên, chất lượng, nội dung còn thấp. Quản lý duy trì các chế độ chưa chặt chẽ, phương pháp quản lý có lúc còn nặng nề, mang tính hình thức, mệnh lệnh hành chính. Năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của một số cấp chỉ huy chưa thực sự sáng tạo, còn dập khuôn máy móc. Năng lực hoạt động thực tiễn còn hạn chế, thụ động trong việc chỉ đạo, lãnh đạo và giải quyết các mối quan hệ trong đơn vị. Công tác kiểm tra, thanh tra thiếu thường xuyên, sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ. Quản lý tư tưởng chưa toàn diện nhất là quản lý các mối quan hệ của QNCN, công nhân và VCQP, do đó tính thuyết phục trong giáo dục chưa cao. Có QNCN, công nhân và VCQP còn thiếu gương mẫu trong chấp hành các chế độ quy định, ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, quy định của nhà trường và tính tự giác trong công tác, học tập, rèn luyện chưa cao. Qua trao đổi với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của một số HV, TSQ quân đội, cho thấy: Nguyên nhân chủ quan dẫn tới các vụ việc vi phạm nghiêm trọng phần lớn là do năng lực giáo dục, thuyết phục chấp hành pháp luật, kỷ luật của cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở còn yếu, phương pháp nắm, xử lý các mâu thuẫn nảy sinh thiếu năng động, sáng tạo, còn ngại tìm hiểu, nghiên cứu thực tiễn, học hỏi trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau nhất là kinh nghiệm trong giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Những hạn chế về nhận thức, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, cán bộ chỉ huy các cấp trong các HV, TSQ quân đội là nguyên nhân cơ bản, quyết định nhất đến chất lượng quản lý, giáo dục YTPL, hành vi chấp hành pháp luật, kỷ luật và nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ GD, ĐT và xây dựng nhà trường chính quy, mẫu mực. Kết quả điều tra xã hội học đã cho thấy, có 17,67% ý kiến của sĩ quan được hỏi cho rằng: Cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các HV, TSQ quân đội chỉ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đến YTPL của QNCN, công nhân và VCQP khi đơn vị có vụ việc vi phạm kỷ luật; có 8,67% số ý kiến của sĩ quan được hỏi cho rằng: Cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các HV, TSQ quân đội không quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đến YTPL của QNCN, công nhân và VCQP [Phụ lục 3.1]. Một số cơ quan chức năng ở một số đơn vị chưa thường xuyên quan tâm và phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ tham mưu, đề xuất, hướng dẫn các đơn vị thực hiện các khâu, các bước đối với việc giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP “Cơ quan chức năng chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong tham mưu đề xuất với lãnh đạo, chỉ huy Học viện; hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện một số nội dung xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật còn lúng túng, hiệu quả thấp” [66, tr.4]. Sự chuyển biến về hiệu quả phối hợp tham mưu, đề xuất, hướng dẫn giữa các cơ quan chức năng thực hiện một số nội dung trong giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP còn hạn chế. Nhất là sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng đối với việc trang bị tri thức, nâng cao nhận thức với hướng dẫn, rèn luyện hành vi chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, quy định của nhà trường cho QNCN, công nhân và VCQP chưa nhịp nhàng, đồng bộ. Ở một số ít đơn vị, cơ quan chức năng ở các HV, TSQ quân đội chỉ vào cuộc một cách quyết liệt đối với vấn đề YTPL của QNCN, công nhân và VCQP khi đơn vị có vụ việc vi phạm kỷ luật “Phối hợp giữa cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật có thời điểm chưa chặt chẽ, thống nhất” [66, tr.4]. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy, có 17,33% số ý kiến của sĩ quan được hỏi cho rằng: Các cơ quan chức năng (cơ quan chính trị, văn phòng, phòng hậu cần, phòng kỹ thuật) chỉ quan tâm đến YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội khi đơn vị có vụ việc vi phạm kỷ luật; có 7,67% số ý kiến của sĩ quan được hỏi cho rằng: Các cơ quan chức năng không quan tâm đến YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội [Phụ lục 3.2]. Hoạt động của Hội đồng quân nhân ở một số đơn vị có nội dung còn mang tính hình thức, chưa thực sự quan tâm giải quyết, bảo đảm tốt các vấn đề dân chủ trên các mặt để hướng đến giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP. Một số tổ chức đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ ở các HV, TSQ quân đội chưa thực sự quan tâm đến việc cụ thể hóa nội dung, biện pháp giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP thành những nội dung, biện pháp cụ thể, thiết thực sát với đặc điểm hoạt động “Phát huy vai trò của các cấp, các ngành, của các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân trong tham gia giáo dục, quản lý, giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật, kỷ luật nghiêm trọng có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức” [79, tr.2]. Qua khảo sát: Có 25,67% sĩ quan được hỏi cho rằng: Các tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, công đoàn, hội phụ nữ và hội đồng quân nhân ở các HV, TSQ quân đội chỉ quan tâm đến giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP khi đơn vị có vụ việc vi phạm pháp luật; 5,30% sĩ quan được hỏi cho rằng: Các tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, công đoàn, hội phụ nữ và hội đồng quân nhân ở các HV, TSQ quân đội không quan tâm đến YTPL của QNCN, công nhân và VCQP [Phụ lục 3.3]. Một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý chưa phát huy tốt vai trò trách nhiệm, chưa quan tâm đầy đủ đến hoạt động thực tiễn giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Cá biệt, một số cán bộ cấp phòng, khoa, hệ, tiểu đoàn trong chỉ huy, quản lý còn buông lỏng việc quản lý, GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP; hoặc khi quản lý, GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP còn sử dụng những hình thức, biện pháp cực đoan, quân phiệt, phản giáo dục “Trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhất là cán bộ trực tiếp quản lý bộ đội chưa được phát huy đầy đủ; trong tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, năng lực quản lý còn hạn chế, nặng về mệnh lệnh, xem nhẹ giáo dục, thuyết phục; việc nắm tình hình đơn vị và quản lý con người còn mang tính hành chính” [77, tr.3]. Qua điều tra xã hội học, có 7,00% số ý kiến của sĩ quan được hỏi cho rằng: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy các cấp ở các HV, TSQ quân đội không phát huy tốt trách nhiệm trong giáo dục, rèn luyện YTPL của QNCN, công nhân và VCQP [Phụ lục 3.4]. Ba là, một bộ phận QNCN, công nhân và VCQP chưa thực sự tự giác học tập, tu dưỡng rèn luyện và tự bồi dưỡng YTPL; điều kiện bảo đảm cho giáo dục YTPL còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Các HV, TSQ quân đội là “cái nôi” đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, sĩ quan cho quân đội. Vì vậy, các lực lượng trong nhà trường nói chung và QNCN, công nhân và VCQP nói riêng đặt ra yêu cầu rất cao về ý thức, kỷ luật và phương pháp, tác phong công tác. Những phẩm chất, ý chí chỉ có thể đạt được và trở nên vững chắc khi có tinh thần trách nhiệm, tích cực, chủ động, tự học, tự rèn mọi lúc, mọi nơi. Trong những năm qua, đa số QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội đã có trách nhiệm cao trong công tác, rèn luyện. Song có lúc, có nơi một bộ phận QNCN, công nhân và VCQP còn thiếu tích cực, chủ động, ỷ lại, ngại học, ngại rèn, ít chú ý tới công việc chung của tập thể, còn có biểu hiện bàng quang về pháp luật và trật tự luật pháp đang tồn tại ở nước ta. Họ ít quan tâm đến những vấn đề đang nổi cộm trong xã hội, đó là những hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng, của quân đội đang diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Không ít QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội có biểu hiện ngại học, ngại rèn, tùy tiện trong chấp hành pháp luật, kỷ luật, thiếu ý chí vươn lên. Cá biệt, còn có QNCN, công nhân và VCQP nhận thức chưa thực sự đúng đắn, hành động trách nhiệm không cao, thiếu gương mẫu, còn vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, quy chế, quy định của nhà trường, thậm chí là vi phạm nghiêm trọng phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Tất cả những điều đó, cùng với những nguyên nhân khách quan khác như: tác động của những tiêu cực và tệ nạn xã hội; sự phá hoại của các thế lực thù địch về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; công tác lãnh đạo, chỉ huy có những thiếu sót,... là những lực cản lớn trong giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã chỉ rõ: “Việc tự học, tự nghiên cứu và nêu gương của một số cán bộ, đảng viên chưa tốt” [60, tr.3]. Trang bị, cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội mặc dù thường xuyên được cấp trên quan tâm đầu tư, nâng cấp, nhưng về cơ bản vẫn sử dụng từ nguồn ngân sách, kinh phí CTĐ, CTCT; trích từ nguồn quỹ vốn tăng gia sản xuất của các đơn vị; từ nguồn cấp ủy chính quyền, đoàn thể địa phương, đơn vị bạn cho, tặng Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, trình độ học vấn của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội ngày càng cao, do vậy nhu cầu sử dụng, làm việc, thưởng thức các loại hình hoạt động văn hóa, tinh thần, tiếp thu tri thức cũng cao hơn trước. Tuy nhiên, phần nhiều trang thiết bị, cơ sở vật chất ở các HV, TSQ quân đội đã lạc hậu so với xã hội hoặc quá niên hạn sử dụng, nhiều công trình văn hóa, nhà truyền thống, thư viện, các câu lạc bộ, pa-nô, bảng điện tử thiếu kinh phí để bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cấp kịp thời [Phụ lục 14]. Thậm chí một số đơn vị được đầu tư trang thiết bị hiện đại nhưng chưa chú trọng khai thác phục vụ các hoạt động GDPL và giáo dục YTPL. Một số đơn vị chủ yếu trông chờ vào nguồn kinh phí, vật tư CTĐ, CTCT do trên cấp hằng năm, chưa chủ động đầu tư ngân sách mua sắm, sửa chữa. Vì thế, muốn công tác GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội phải có ngân sách, kinh phí, phương tiện Tài liệu phục vụ cho việc GDPL cũng như cho việc nghiên cứu cập nhật pháp luật của QNCN, công nhân và VCQP ở một số HV, TSQ quân đội còn hạn chế. Mặc dù trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của BQP, các tủ sách pháp luật đã được trang bị cho các HV, TSQ quân đội. Trong thực tế, ngay cả các HV, TSQ quân đội cũng nhiều nhà trường chưa có phần mềm thư viện pháp luật nhằm cung cấp văn bản pháp luật một cách chính thống, đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu tìm hiểu, học tập và nghiên cứu của toàn trường. Hầu hết phải tự tìm kiếm tài liệu bằng các cách thức không chính thống khác nhau như qua mạng Internet, qua các trang mạng xã hội, báo, tạp chí chuyên ngành. Điều này đang làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của GDPL và YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Những thiếu thốn và lạc hậu trên nếu không được khắc phục kịp thời và triệt để thì khó có thể đổi mới nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp GDPL và YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội có hiệu quả. 3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 3.2.1. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm và phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay Thực tiễn cho thấy, mặc dù tình hình chấp hành kỷ luật, pháp luật của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội trong những năm qua đã có những chuyển biến cả về số vụ việc, số người vi phạm, nhưng chưa thật vững chắc; đặc biệt các vụ việc nghiêm trọng có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, có nơi đáng báo động. Các vụ việc vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, như: Tự tử, tự sát, giết người, bắn giết đồng đội, cố ý gây thương tích, mất đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân; tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, cờ bạc, lô đề, cá độ; vay mượn tín dụng đen vượt quá khả năng chi trả... chưa chấm dứt. Nhiều vụ việc vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, trái với bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội chưa được kịp thời phát hiện và ngăn chặn, đã gây tổn thất về tính mạng và tài sản của quân đội, của nhân dân, ảnh hưởng xấu đến uy tín, hình ảnh cao quý của “Bộ đội Cụ Hồ” làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với quân đội, bị các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, chống Đảng, Nhà nước và quân đội, kích động chia rẽ quân đội với nhân dân... Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả khách quan, chủ quan, song nguyên nhân cơ bản, chủ yếu vẫn là do cấp ủy, chỉ huy các cấp chưa thường xuyên nhận thức đầy đủ, sâu sắc và đề cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo; chưa quy tụ và phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong giáo dục nâng cao YTPL, tăng cường quản lý việc chấp hành kỷ luật của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Do đó, hiện nay đang tồn tại mâu thuẫn giữa yêu cầu cấp thiết phải nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP với sự thống nhất về nhận thức, đề cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng liên quan, trước hết là của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chỉ huy, quản lý và người đứng đầu các cấp nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp trong nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay. Thống nhất về nhận thức là sự đồng tình, tác động cùng chiều trong nhận thức của các chủ thể về vai trò, mục đích, nội dung, phương pháp nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Thống nhất về nhận thức của các chủ thể có vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ sở của sự thống nhất về hoạt động thực tiễn. Các tổ chức, lực lượng có nhận thức đầy đủ, sâu sắc và thống nhất sẽ tạo ra sự đồng thuận, đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, giáo dục, quản lý chấp hành kỷ luật, nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy, nhận thức của một số tổ chức, lực lượng chưa thật đầy đủ, sâu sắc về vai trò, ý nghĩa tầm quan trọng của YTPL và tính cấp thiết phải nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay. Trên thực tế, do nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc nên một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chỉ huy, quản lý đã buông lỏng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, thậm trí ở một số cơ quan, đơn vị tình trạng cố tình giấu diếm, bao che khuyết điểm, vi phạm của cán bộ, đảng viên và quần chúng, chạy theo thành tích, không báo cáo kịp thời trung thực với cấp trên. Vẫn còn những ý kiến cho rằng, YTPL chỉ có vai trò trong chấp hành pháp luật, kỷ luật, chứ không có vai trò đối với việc hoàn thiện nhân cách toàn diện của QNCN, công nhân và VCQP. Vì vậy, trong thực tiễn giáo dục, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa nội dung, hình thức và phương pháp GDPL với nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa cho QNCN, công nhân và VCQP. Đặc biệt, ở một số đơn vị chưa có nhận thức đúng và thống nhất về chủ thể nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội, còn khóan trắng việc nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP là trách nhiệm của cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị. Nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội đòi hỏi phải phát huy cao độ sự thống nhất về phát huy vai trò trách nhiệm và hoạt động thực tiễn của các chủ thể. Tuy nhiên, do chưa có sự thống nhất về nhận thức nên các chủ thể chưa có sự thống nhất trong phát huy trách nhiệm và hoạt động thực tiễn giáo dục YTPL đối với nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP. Biểu hiện ở việc các chủ thể chưa thống nhất về trách nhiệm và hoạt động thực tiễn đối với việc thực hiện nội dung và các biện pháp nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP. Việc triển khai thực hiện của chỉ huy các cấp còn có biểu hiện chưa thống nhất với chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp chưa có sự thống nhất trong xác định nội dung, biện pháp nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP. Đặc biệt, việc thống nhất cùng nêu gương của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong giáo dục YTPL còn hạn chế; khóan trắng việc giáo dục YTPL cho QNCN, công nhân và VCQP là chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chính trị. Đặc biệt có đơn vị chưa phát huy tốt vai trò của người chỉ huy các cấp trong giáo dục nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP. Nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP đòi hỏi phải có sự thống nhất trong phát huy trách nhiệm và hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ các cấp. Trong đó, đội ngũ cán bộ chính trị truyền thụ những tri thức lý luận về pháp luật, cán bộ quân sự hướng dẫn, uốn nắn động tác, chuẩn mực, hành vi pháp luật cho QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP đòi hỏi phải có sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng ở các HV, TSQ quân đội trong thực hiện các khâu, các bước. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP của các cơ quan chức năng ở các HV, TSQ quân đội chưa có sự thống nhất, đồng thuận. Chưa có sự phối hợp giữa cơ quan chính trị thực hiện chức năng tham mưu, xây dựng chương trình, nội dung, biện pháp giáo dục, trang bị nhận thức với các cơ quan khác trong tham mưu xây dựng kế hoạch duy trì, rèn luyện kỷ luật và xây dựng kế hoạch bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho giáo dục YTPL cho QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Các tổ chức quần chúng, nhất là tổ chức đoàn các cấp ở các HV, TSQ quân đội chưa có sự thống nhất đối với nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP. Nội dung kế hoạch hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh niên của các tổ chức đoàn chưa tập trung vào cụ thể hóa chủ trương của cấp ủy, chỉ huy các cấp về nội dung, biện pháp nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP gắn với đặc điểm chức năng, nhiệm vụ của đoàn và đặc điểm nhận thức của đoàn viên, thanh niên. Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay đang đặt ra vấn đề phải tạo dựng được sự thống nhất về nhận thức, trách nhiệm và hoạt động thực tiễn của các chủ thể đối với vấn đề này. 3.2.2. Tập trung khắc phục những hạn chế, bất cập của nội dung và hình thức, phương pháp giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay Giáo dục pháp luật cho QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội được thực hiện với nội dung, hình thức và phương pháp khoa học, gắn với đặc thù hoạt động quân sự. Đây là một trong những nhân tố cơ bản quy định hiệu quả nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Tuy nhiên, thực trạng GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay cho thấy, nội dung, hình thức và phương pháp GDPL cho họ chậm đổi mới, chưa thật sự phù hợp với sự vận động, biến đổi của tình hình thực tiễn, đặc điểm của từng đối tượng QNCN, công nhân và VCQP. Vì vậy, đang có sự bất cập giữa yêu cầu nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay với những hạn chế, bất cập cả về nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, GDPL cho họ. Nhiều năm qua, nội dung GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội do Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật của BQP và Tổng cục Chính trị xác định, gồm: những vấn đề cơ bản về pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội và quy định của các HV, TSQ. Chương trình, nội dung GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP được xây dựng và thực hiện thống nhất trong toàn quân. Tuy nhiên, việc đổi mới, cập nhật, bổ sung và cụ thể hóa nội dung GDPL gắn với đặc điểm nhận thức của QNCN, công nhân và VCQP và tình hình thực tiễn của HV, TSQ quân đội còn có những hạn chế, bất cập. Nội dung GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP, nhất là những nội dung thực hiện trong Ngày Pháp luật hằng tháng còn nhiều những vấn đề chung chung, chưa cụ thể hóa sát với yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị và đặc điểm của QNCN, công nhân và VCQP. Việc áp dụng một cách nguyên si, không cụ thể hóa nội dung GDPL vô hình chung tạo ra lực cản đối với quá trình nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay. Nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP đòi hỏi phải thực hiện đa dạng hình thức giáo dục, thống nhất, phù hợp với nội dung, phương pháp giáo dục và đặc điểm nhận thức của QNCN, công nhân và VCQP. Tuy nhiên, trong thực tiễn YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội thời gian qua, các hình thức GDPL chưa được thực hiện đa dạng, phong phú, thực hiện chủ yếu là hình thức quán triệt, huấn luyện theo chương trình tập trung. Việc tổ chức các hình thức GDPL gắn với các hoạt động vui chơi, giải trí, tạo sân chơi bổ ích, kích thích sự hứng thú, tích cực tiếp nhận, nâng cao ý thức và hành vi chấp hành pháp luật cho QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội còn hạn chế. Đặc biệt, GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP thông qua hình thức sân khấu hóa, các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật, kỷ luật chưa được quan tâm thực hiện đúng mức. Vì vậy, việc kết hợp một cách phù hợp giữa thực hiện các hình thức GDPL mang tính hành chính, tập trung với các hình thức sân khấu hóa, tạo sân chơi bổ ích, kích thích tính tích cực của QNCN, công nhân và VCQP sẽ góp phần thiết thực nâng cao YTPL cho họ. Nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP đòi hỏi phải thực hiện đa dạng các phương pháp giáo dục, phù hợp với nội dung, hình thức và đặc điểm nhận thức của QNCN, công nhân và VCQP ở từng HV, TSQ. Trong những năm qua, phương pháp GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP được các chủ thể thực hiện chủ yếu là phương pháp hành chính. Bởi phương pháp này đơn giản, ngắn gọn, dễ thực hiện với đa số các chủ thể giáo dục. Tuy nhiên, GDPL, kỷ luật cần phải được chuyển tải chủ yếu bằng phương pháp cảm hóa, thuyết phục QNCN, công nhân và VCQP từ tâm thức để họ tự giác chấp hành mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Thực tế ở các HV, TSQ quân đội hiện nay, các chủ thể GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP lại quá coi trọng phương pháp mệnh lệnh hành chính, mang nặng tính thủ tục, hình thức. Nếu chỉ sử dụng các biện pháp hành chính, mà không thực hiện các phương pháp thuyết phục, nêu gương thì pháp luật Nhà nước chỉ dừng lại ở văn bản chứ không thể tự chuyển hóa thành ý thức và cách hành xử tự giác theo pháp luật của QNCN, công nhân và VCQP. Do đó, việc áp dụng hành chính, thủ tục, máy móc các phương pháp mệnh lệnh hành chính sẽ không đạt hiệu quả nâng cao chất lượng GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP như mong muốn, thậm chí có thể phản tác dụng, làm cản trở quá trình này. Như vậy, nội dung, hình thức và phương pháp GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP còn chưa phù hợp, theo kịp với đòi hỏi của chính QNCN, công nhân và VCQP cũng như yêu cầu nâng cao YTPL cho họ hiện nay. Sự rập khuôn máy móc, hạn chế trong việc đổi mới, cụ thể hóa nội dung và sử dụng các hình thức, phương pháp GDPL không phù hợp, không chỉ gây ra những hiểu biết không đầy đủ, mà còn góp phần làm cho QNCN, công nhân và VCQP dễ nảy sinh những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật của nhà nước, kỷ luật của quân đội. Hệ lụy của vấn đề này tất yếu làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng GDPL cho QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay. Sự bất cập này đã đặt ra vấn đề phải đổi mới nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức và phương pháp GDPL nhằm nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay. 3.2.3. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong xây dựng và phát huy vai trò của môi trường văn hóa tốt đẹp lành mạnh ở các học viện, trường sĩ quan trong nâng cao ý thức pháp luật của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng hiện nay Nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội chịu sự quy định bởi môi trường VHPL. Môi trường VHPL là nơi bảo đảm các điều điện để nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Hệ giá trị kỷ luật, các mối quan hệ tốt đẹp, các thiết chế xã hội và yếu tố vật chất trong môi trường VHPL được xây dựng tích cực, lành mạnh là những điều kiện bảo đảm mang lại hiệu quả nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội. Tuy nhiên, thực tiễn giáo dục YTPL cho thấy, môi trường VHPL ở các HV, TSQ quân đội vẫn còn tồn tại những hạn chế làm cản trở quá trình giáo dục nâng cao YTPL của QNCN, công nhân và VCQP ở các HV, TSQ quân đội hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_nang_cao_y_thuc_phap_luat_cua_quan_nhan_chuyen_nghie.doc
  • doc1 BÌA LUẬN ÁN - Doan Hong Duan.doc
  • doc2 BÌA TÓM TẮT TIẾNG VIỆT - Doan Hong Duan.doc
  • doc2 TÓM TẮT TIẾNG VIỆT - Doan Hong Duan.doc
  • doc3 BÌA TÓM TẮT TIẾNG ANH - Doan Hong Duan.doc
  • doc3 TÓM TẮT TIẾNG ANH - Doan Hong Duan.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG ANH - Doan Hong Duan.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG VIỆT - Doan Hong Duan.doc
Tài liệu liên quan