Luận án Nghiên cứu văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU VĂN BIA PHẬT GIÁO VÀ

VĂN BIA TỈNH BẮC NINH, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA .8

1.1. Khái niệm.8

1.1.1. Khái lƣợc phân loại theo loại hình văn bia nói chung.8

1.1.2. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành tỉnh Bắc Ninh .10

1.2. Tình hình các di tích lịch sử tỉnh Bắc Ninh và di tích Phật giáo .15

1.3. Những nghiên cứu về văn bia và văn bia tỉnh Bắc Ninh .19

1.3.1. Tổng quan chung về tình hình nghiên cứu văn bia ở Việt Nam .19

1.3.2. Nghiên cứu trực tiếp và những nghiên cứu liên quan đến tƣ liệu văn

bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII ở Bắc Ninh. .23

1.4. Những vấn đề đặt ra cho việc nghiên cứu văn bia Phật giáo thế kỷ

XVII - XVIII ở tỉnh Bắc Ninh. .30

Tiểu kết chƣơng 1.31

Chƣơng 2: KHẢO SÁT VĂN BẢN VĂN BIA PHẬT GIÁO THẾ KỶ XVII

- XVIII TỈNH BẮC NINH.33

2.1. Phân loại loại hình văn bia thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh.33

2.1.1. Phân loại theo địa phƣơng hành chính hiện nay qua các đợt sƣu tầm.33

2.1.2. Phân loại theo niên đại .35

2.2. Nghiên cứu văn bản học văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh

Bắc Ninh.38

2.3. Tác giả soạn văn bia.52

2.3.1. Tác giả là những vị thiền sƣ .52

2.3.2. Tác giả soạn văn bia là những ngƣời đỗ đại khoa.54

2.4. Thợ san khắc văn bia .57

Tiểu kết chƣơng 2.59

Chƣơng 3: VĂN BIA VỚI NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ MỘT SỐ NGÔI

CHÙA TIÊU BIỂU .61

3.1. Văn bia phản ánh địa thế, phong thuỷ.61

3.2. Văn bia phản ánh về ý nghĩa của tên gọi và quy mô, diện mạo của một

số ngôi chùa.673.3. Giá trị của những văn bia thế kỷ XVII - XVIII cho biết thêm thông tin

về ngôi chùa thời Lý, Trần và Lê sơ.75

3.4. Nguyên nhân chính dẫn đến việc nhiều ngôi chùa lớn đƣợc xây dựng,

trùng tu vào thế kỷ XVII - XVIII .78

3.4.1. Tham gia của tầng lớp quý tộc, quan lại cao cấp .78

3.4.2 Trải qua binh hỏa cần phải trùng tu, xây dựng.84

3.5. Các hoạt động khắc in kinh Phật.86

3.6. Hệ thống tƣợng thờ và các hoạt động khác .87

3.7. Một số ngôi chùa tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh thế kỷ XVII - XVIII.92

Tiểu kết chƣơng 3.98

Chương 4: GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU TÔNG PHÁI, SƯ TỔ CHÙA BẮC NINH 100

4.1. Về vấn đề tông phái.100

4.2. Về những danh tăng tiêu biểu thế kỷ XVII - XVIII.112

4.2.1. Chân Nguyên thiền sƣ (1647 - 1726) - Ngƣời nối dòng Phật giáo

Trúc Lâm .112

4.2.2. Chuyết Chuyết Thiền sƣ (1590 - 1644) - Ngƣời mở đầu phái Lâm

Tế ở Việt Nam .115

4.2.3. Vị thiền sƣ truyền thừa của phái Lâm tế .117

4.2.4. Trịnh Thập - Trịnh Lân Giác (1696 - 1733) và phái Trúc Lâm chùa

Hàm Long.125

4.3. Ảnh hƣởng, mối quan hệ của một số ngôi chùa nổi tiếng, của một số

danh tăng tiêu biểu.130

4.4. Những nét văn hóa và sinh hoạt Phật giáo .136

4.4.1. Văn bia Phật giáo thể hiện triết lý nhân sinh.136

4.4.2. Quy định về lễ nghi khi thờ cúng Hậu Phật .142

4.4.3. Hội chùa.146

Tiểu kết chƣơng 4.147

KẾT LUẬN .149

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN

 

pdf303 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 375 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Mai... cùng toàn họ hƣng công xây dựng điện vũ nguy nga. Nghĩ đến công đức của Hiển tằng tổ Chính cung Hoàng Thái hậu trinh tĩnh u nhàn, tổ cô sắc phong Bồ Tát đoan trang diễm lệ thuộc dòng dõi tôn quí[], lầu rồng chƣớng ngọc, có lòng từ bi xây dựng chùa Ninh 52 Nguyên văn: 皇太后實菩薩之再來也.其長公主號妙慧者,育於皇宮,深居禁闥,德幸擧世無雙,純淑宮中 第一,况是時躭文繡之娛,身美色之娱,目聲音之娛,耳肥甘之娱口便嬖,使令之娛前母氏聖善嘻嘻焉家人 和繹高高焉.王姬下嫁百輛千歸多歡瑟琴静好.[...]惟厥初生粵自髮年便重釋教雖在家以遵在命至詠桃夭 心行既種善缘施施仁度衆遂于二十有六即厥志長往茹素氣于一身力辟皇后以...皇太后太后福澤于妙慧 故妙慧遂承聖母之心悟成佛祖之道不顧貨財珠玉援啟寧福伽藍内外嚴莊無異靈山會上寶塔圓成流傳 萬代. 124 Phúc, xã Nhạn Tháp trở thành một chốn thiền lâm đẹp nhất Kinh Bắc[], tập hợp công đức của hƣơng thôn, xây dựng điện vũ nguy nga, tráng lệ, mở mang trang hoàng trở thành một thế giới lƣu ly, thật là có công đức với Phật nhƣ thế sao không hƣơng hỏa thờ cúng cùng Phật đƣợc. Bèn xây dựng một nhà thờ riêng liền đặt vào sau nhà thờ Phật”53. - Ni sư Như Tuỳ 如隨尼師 (1691 - 1736) Bên trái tháp Tôn Đức 尊德塔 là tháp Tâm Hoa 心華塔 cao 3 tầng, dựng năm 1737 về hình thức cũng tƣơng tự nhƣ tháp Ni Châu 尼朱塔 - nơi yên nghỉ của nhà sƣ pháp hiệu Nhƣ Tuỳ 如隨 (1691 - 1736). Trên thân tháp còn khắc tiểu sử của vị thiền sƣ này, do Sa môn Tính Quảng Thích Điều Điều 挲門性廣釋條條 (soạn). Nội dung bài văn bia trên tháp ghi về học trò là Tỳ kheo ni hiệu Diệu Viên比丘尼 號妙圓 cúng ruộng vào chùa để tổ chức cúng giỗ và tƣởng nhớ bậc đại sƣ là Sa Môn tự Tính Hài 沙門性諧 và Tỳ kheo tự Nhƣ Tuỳ比丘字如隨: “Tỳ kheo ni hiệu Diệu Viên, tôn sùng Phật đạo, trụ trì chùa Ninh Phúc, mua ruộng ở hai xã Nhạn Tháp, Đại Trạch, sở hữu ruộng các xứ tổng cộng 1 mẫu 1 sào 5 thƣớc, nguyên hứa cúng cho Sa Môn, tên tự là Tính Hài, lấy làm chi phí trà, cơm, để gây ƣơm phúc đức, để đền đáp công ơn truyền dạy của Bậc Tỳ kheo, tự là Nhƣ Tuỳ, Thiền sƣ hoá thân Bồ Tát, lấy hoa lợi làm đồ cúng tế phụng thờ, giao cho bản thôn trồng cấy. Hằng năm vào dịp 2 kỳ: Ngày sinh - 17, tháng 6, chuẩn bị 2 mâm cỗ xôi; ngày 26 tháng 10, ngài viên tịch (kỵ), chuẩn bị 4 mâm cỗ. Bản xã chuẩn bị đầy đủ hƣơng hoa, quả. Ngày sinh tiến hành lễ cúng nhƣ đã quy định54 [No: 22826]. 53 Nguyên văn: 副該隊署衞事體泰候黎會侍候仍一仍左仍前把軸左等隊副該管頴郡公黎挺尚郡主鄭氏 玉基侍候内馬前并牽馬等隊正隊長都指揮使司都使寜祿候黎詠副正隊長堅完候黎轎中後船正隊長右 校點祥義候黎損尙郡主鄭氏玉梅副正隊長繼禄候黎賢黎氏妙黎氏情黎氏淑黎氏演黎氏景侍仍鹿忠候 黎顯黎氏姜黎氏春黎增全族等奉祀碑記[...]顯曾祖妣正宮皇太后員静幽閑聖德之配耦也.祖姑敕封聖善 菩薩端莊艶麗天演之衍派也. 龍楼鷄幛玊繞金粧語其[...]惟 以慈悲施濟為心覔得超類縣鴈塔社古跡寜 福寺遷京北第一禪天也.[...]鄕村之力鳩工構作經之營之殿宇巍峩梵宮宏敞粧成一壺世界之琉璃也既有 功於佛寜本與佛同其香火耶仍建別堂一連于佛堂之後. Bia Khánh lưu bi kí 慶留碑記 không thấy trong kí hiệu của FEEO cũng nhƣ trong các đợt sƣu tầm của VNCHN gần đây, thác bản này do tác giả sƣu tầm tại di tích). 54 Nguyên văn: 比丘尼號妙圓尊崇佛道,住持寜福禪寺,為有買田在鴈塔大澤二社,所有各處田共壹畝壹 高五尺,原許供沙門字性諧,以為茶飯,日時穜福蔭功以為法藥.其字性諧,感河尊師,遵承教法,無忌大德, 因此敬奉尊師竹林圓證教授師摩訶比丘字如隨,禪師化身菩薩以為祭祀奉事,付本村耕種,係遞年二期: 生時: 六月,十七日,炊盘貳具;諱日:十月,二十六日,炊盘四具.其本社整備香花,炊菓諸于.生下行禮如儀 [...]. 125 Phần tiểu sƣ của nhà sƣ ghi: "Nhà sƣ ngƣời Kim Bảng, cha là Nguyễn Quý Công tự là Lục, mẹ là Đinh thị hiệu Diệu Cung, khi sinh mộng thấy trong rừng trúc mà suất thai (ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (1691). Cha ngài mất sớm, còn mẹ già tìm đến đất Bắc (Kinh Bắc) nghe chùa Thiên Tâm 天心寺, Tiêu Sơn 焦山 có sƣ trụ trì là lão tăng pháp danh Nhƣ Trí 如智 rồi cho Nhƣ Tuỳ 如隨 đến làm đệ tử và nhà sƣ nhận xuống tóc thụ giới từ đây. Đƣợc khoảng 5 năm, nhà sƣ Nhƣ Trí viên tịch. Bà mới đầu trụ trì chùa Chân Khai 真開, (Đông Sơn 東山). Đến năm Đinh Mùi lại đến chùa Long Động 龍洞, núi Yên Tử thuộc tông phái nhà sƣ Hòa thƣợng Chính Giác. Nhà sƣ ứng duyên trụ trì chùa Ninh Phúc (tức Bút Tháp) đƣợc hai ba năm, đến năm Bính Thân thì mất. Giờ Mùi ngày 20 tháng 11 năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) nhà sƣ nhập định, hƣởng thọ 46 tuổi. Khi Bà viên tịch, sau các học trò tổ chức hoả đàn 7 ngày rồi cho nhập tháp đặt ở bên trái tháp Tôn Đức. Cuối bài minh tháp là một bài minh dài 32 câu và danh sách 16 học trò, tháp này do học trò của Thiền sƣ Nhƣ Tuỳ lập nên. Chữ viết trên tháp khá đẹp, nhuần nhuyễn, phần cuối viết theo lối thảo phóng khoáng đạt trình độ nghệ thuật cao [N0: 22826]. Bài kí trên tháp, cho biết Thiền sƣ Nhƣ Tuỳ từng trụ trì nhiều nơi. Tuy ở chùa Bút Tháp trong một thời gian ngắn nhƣng bà có công tu tạo chùa vào những năm đầu Tk XVIII. Trong khoảng một thế kỷ (từ nửa đầu Tk XVII đến nửa đầu Tk XVIII), chùa Bút Tháp đã đƣợc xây dựng với qui mô bề thế. Đó là sự đóng góp sức ngƣời sức của của nhiều thế hệ, của toàn dân trong đó không thể không kể đến công lao của các vị thiền sƣ nhƣ Chuyết Chuyết, Minh Hành, Nhƣ Tuỳ, Nhƣ Chúc, Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và nhiều vị Vƣơng tôn, Quận chúa, Quận công trong chính quyền Lê - Trịnh. Sự đóng góp xây dựng của những nhân vật này đƣợc ghi lại một cách hệ thống, đầy đủ trên các bi kí và hiện diện bằng những công trình kiến trúc bề thế và qui mô, độc đáo về nghệ thuật. 4.2.4. Trịnh Thập - Trịnh Lân Giác (1696 - 1733) và phái Trúc Lâm chùa Hàm Long Chùa là nơi thờ Phật nhƣng có một số chùa trên thực tế cũng có gian thờ Đế Quân của Đạo giáo. Ở một số chùa tu theo nối Mật tông cũng có nhiều yếu tố gần 126 gũi với Đạo giáo nhƣ việc bắt quyết, niệm chú ... Qua khảo sát một số văn bia Phật giáo Tk XVII, XVIII ở tỉnh Bắc Ninh cho thấy, có một số tên gọi của chùa dƣờng nhƣ có sự gần gũi với Đạo giáo (?). Chẳng hạn nhƣ tên chùa: Thánh Tổ Cô Tiên tự bi ký 聖祖姑仙寺碑記; hay văn bia Cô Tiên tự 姑仙寺 chùa Cô Tiên, (xã Châu Cầu, huyện Quế Võ) [N0: 5602/5603), (5588/5589]. Nhƣ vậy, theo lời kể hạnh cho biết, Hòa thƣợng Chân Nguyên, pháp danh là Tuệ Đăng chính là ngƣời có công biên tập lại sách Thiền Tông bản hạnh 禪宗本行 dòng Trúc Lâm thiền tông. Theo sách Thiền sư Việt Nam của Hòa thƣợng Thích Thanh Từ thì Thiền sƣ Chân Nguyên Tuệ Đăng sinh năm Đinh Hợi (1647) và viên tịch năm 1726, thọ 80 tuổi, đời pháp thứ 36 dòng Lâm Tế. Sƣ cũng là ngƣời đƣợc truyền thừa y bát Trúc Lâm, trụ trì chùa Long Động (còn có tên là Lân Động) và chùa Quỳnh Lâm là hai ngôi chùa lớn trên núi Yên Tử. Thiền sƣ Chân Nguyên là ngƣời đời Lê, do vậy bài Yên Tử Sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền tông bản hạnh do sƣ sáng tác là một tác phẩm thuộc thời Lê [74; 24]. Đến Tk XVII - XVIII có sự thâm nhập, đan xem giữa phái Lâm Tế và phái Liên Tông của thiền sƣ Trịnh Thập ở chùa Liên Hoa (Tức chùa Liên Phái, Hà Nội) và chùa Hàm Long (Quế Võ, Bắc Ninh). Văn bia đề cập đến vị tổ khai sáng: Cứu Lĩnh Sơn thượng đỉnh Thiên Thai tự bi kí 究嶺山上頂天台寺碑記 [N0: 04491], niên đại Đức Long 3 (1631) viết về sƣ Trịnh Thập: “Đệ nhất khai sáng hƣng công chi thành Thiên Thai tự, gia trì Lão Tăng Trịnh Tỳ kheo Thập, trụ pháp hiệu Tuệ Giác (công đức tiền tài không thể kể hết. (Nguyên văn: “Công đức tiền tài bất kê số dã” (功德钱財不计数也). Nhƣ thế, Trịnh Thập đƣợc tôn làm tổ thứ Nhất của chùa Thiên Thai. Ảnh hƣởng sử sƣ Huệ Thập không chỉ ở chùa Hàm Long (nay thuộc thành phố Bắc Ninh), chùa Bảo Tháp, chùa Thái Sƣ (Xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) mà còn hƣng công xây dựng chùa Hƣơng Nghiêm, xã Quế Ổ (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Trên tấm bia Hưng Nghiêm tự bi 興嚴寺碑[N0: 05092/05093], niên đại Hoằng Định 19 (1619), (xã Quế Ổ, huyện Quế Dƣơng, Bắc Ninh). Nội dung bia cho biết: chùa là một cổ tích danh lam đã bị xuống cấp đổ nát, xin mời vị Thiền tăng chùa Thiên Thai đến hƣng công ngày 27 tháng 8 năm Giáp Dần (1614), xây dựng thƣợng điện, thiêu hƣơng, tiền đƣờng, bốn chung quanh, tam quan, lại tạo 127 27 pho tƣợng, đến năm Mậu Ngọ (1618) thì hoàn tất. Với thời gian xây dựng kéo dài và những hạng mục công trình đƣợc đề cập đến trong văn bia, chứng tỏ ngôi chùa Hƣng Nghiêm đầu thế kỷ XVII đƣợc xây dựng rất quy mô, bề thế và tƣơng đố hoàn thiện. Sƣ Trịnh Thập, quê Thanh Hóa, ông vốn là con trai của Tấn Quang Vƣơng Trịnh Bính, em trai của Chúa Trịnh Căn đồng thời là Phò Mã của Thái thƣợng hoàng Lê Hy Tông, thế danh là Trịnh Thập, pháp danh là Nhƣ Trừng, tên tự là Lân Giác, hiệu là Cứu Sinh. Ban đầu Trịnh Lân Giác đến chùa Trúc Lâm Long Động thụ giáo ở Hòa thƣợng Chính Giác và Hòa Thƣợng Chân Nguyên. Hòa thƣợng Chân Nguyên đƣợc coi là ngƣời đã nối đƣợc dòng Phật giáo Trúc Lâm Thiền tông thời Trần. Đƣợc Chân Nguyên truyền cho y bát ban đầu trụ trì ở chùa Liên Phái (huyện Thọ Xƣơng, Thăng Long), sau chuyển đến trụ trì chùa Hàm Long. Thiền sƣ xuất thân nguồn gốc tôn quý tuy sống trong lầu son gác tía nhƣng không màng đến danh lợi, lòng luôn gửi chốn cửa thiền. Hiện nay, các nguồn tƣ liệu viết về Thiền sƣ Trịnh Thập không nhiều. Không biết tháp Cứu Sinh đƣợc xây dựng tự bao giờ, nhƣng phải đến năm Bảo Đại thứ 2 (1926) chùa mới đƣợc trùng tu nhƣ hiện nay. Tƣơng truyền khi về trụ trì chùa Hàm Long, Trịnh Thập cho xây dựng nhiều công trình nhƣ nhà tiền đƣờng, tam bảo, tổ đƣờng. Tác giả công trình khảo cứu về tác phẩm Thiền tông bản hạnh cho rằng: bản khắc in chùa Liên Hoa (tức chùa Liên Phái, Hà Nội) khắc in năm 1745 là theo một bản ở chùa núi Yên Tử, bản này có thể là bản ban đầu hoặc bản gần nhất với bản của Hòa thƣợng Chân Nguyên do Thiền sƣ Nhƣ Trừng Lân Giác mang về chùa Liên Hoa [74; 27 - 28]. Nghiên cứu về hành trạng của Thiền sƣ Lân Giác của học giả Hoàng Xuân Hãn [26; 1087] cũng nhƣ của Hòa thƣợng Thích Thanh Từ trong tác phẩm Thiền sư Việt Nam cho biết: “Chùa Liên Hoa là do Lân Giác Thƣợng sĩ (1696 - 1733) lập ra. Sƣ họ Trịnh tên Thập (Ông là em ruột của chúa Trịnh Cƣơng), tuy ở lầu son gác tía nhƣng lòng luôn mơ về cõi Phật, nhân đào đƣợc một ngó sen lớn trong vƣờn nhà mà cho đó là điềm xuất gia bèn đổi ra chùa đặt tên là chùa Liên Hoa (sau đệ tử tôn Sƣ là sƣ tổ chùa, gọi dòng là Liên Tông, đổi tên chùa là Liên Tông). Sau khi dâng sớ xin xuất gia, đƣợc đồng ý ông đi thẳng đến chùa Long Động ở Yên Tử gặp Hòa 128 thƣợng Chính Giác Chân Nguyên lúc đó đã 80 tuổi. Sƣ đƣợc Chính Giác Chân Nguyên truyền tâm pháp rồi lại trở về chùa Liên Tông [99; 414]. Hiện nay, tại chùa Hàm Long có ngôi tháp Cứu sinh 救生塔 tên tháp đặt theo tên hiệu của ông - nơi chứa xá lỵ của sƣ Trịnh Thập. Ngoài ra, tại chùa Liên Phái (Hà Nội) cũng có tháp Cứu Sinh, nhƣng không rõ đây là tháp có chứa xá lỵ hay chỉ là tháp tƣởng niệm công đức của một vị thiền sƣ có công trong thiền phái Liên Tông. - Sƣ Trịnh Phúc Nguyên với chùa Thiên Thai và một số ngôi cổ tự khác Trong văn bia ghi về tiểu sử nhân vật đặc biệt là các vị cao tăng khá cụ thể, chi tiết đƣợc coi là những trang sử đá nhƣ dạng “thực lục”. Chẳng hạn văn bia: Cứu Lĩnh Sơn thượng đỉnh Thiên Thai tự bi kí 究嶺山上頂天台寺碑記 [N0: 04491], niên đại bia: Đức Long 3 (1631) ghi: “Hƣơng Ngu Nhuế, xã Lập Ái, có thôn Bảo Tháp Ân Vƣơng ấm phụ Mậu Lâm tá lang Trịnh Phúc Nguyên đến năm 18 tuổi thì làm thầy cứu đời, tên hiệu là Huyền Tông Nhân. Đến năm 33 tuổi thì xin xuất gia, trụ trì chùa Tĩnh Lự, đƣợc khoảng 6 - 7 năm, thấy ngƣời ngộ đạo. Năm Tân Hợi, về các xã thuộc các huyện Gia Định, Quế Dƣơng khai sáng các chùa, cùng với các sãi vãi, thập phƣơng, thiện tín cùng bỏ gia tài ra để tân tạo thƣợng điện, thiêu hƣơng, tiền đƣờng, tái tạo Tam giáo Thánh tôn các tƣợng”55... Nội dung bia này còn viết tiếp: “Trên đỉnh núi Bảo Tháp, núi Đông Cứu, huyện Gia Định, phủ Thuận An, vốn là danh lam cổ. Đời trƣớc có tháp, có chùa, các danh lam đều nguy nga, trải qua lâu ngày, bị đổ nát, xuống cấp chỉ còn nền thôi” 順安府,嘉定縣,東究,究領山,寶塔 上頂,原古跡前代,有寺名藍巍峩業禪天日久弊頹,存一基也. Trên tấm bia Bảo Tháp sơn, Thiên Thai tự, sãi vãi bi ký 寳塔山天台寺士娓碑 記 [N0: 04493], niên hiệu Đức Long 5 (1633), ghi về Chùa Thiên Thai, xã Đông Cứu có Mậu Lâm tá lang Trịnh Phúc Nguyên cùng với cháu đích tôn là Vệ sử Thắng Sơn Bá, chức Thiên hộ Tổng binh, truyền cho tính giác ngộ, lòng sáng trong, bỏ gia tài, cầu đạo Trụ trì chùa Tĩnh Lự là Tỳ Kheo Huệ Giác. Sƣ Trịnh Giác 55 Nguyên văn: 玆立愛社,屋東究社,虞芮鄊,在宝塔村,恩王蔭父茂林佐郎鄭福源,住家十八為師濟世號玄 宗仁,至三十三士,請捨業,出家,住持静慮寺,集福六七年餘,見人悖道,至辛亥,回開創唱卒嘉定,桂陽等縣 各社,士娓十方善信而共發家財新造上殿燒香前堂再造三教聖尊諸”. 129 Nguyên còn cung tiến nhiều tiền của vào chùa Thiên Thai, (núi Đông Cứu, h. Gia Bình, t. Bắc Ninh). Bia: Bảo Tháp sơn, Thiên Thai tự, sãi vãi bi ký ghi: Hƣng công tân tạo Thiền tăng trụ trì Thiên Thai tỳ kheo, tự Tuệ Giác Trịnh Phúc Nguyên (bỏ ra 35 quan). Trịnh Huệ Giác không phải là Trịnh Giác Nguyên hay nói cách khác, hai vị thiền sƣ này sống cùng thời và cùng tham gia hƣng công xây dựng chùa Thiên Thai. Tại chùa Phúc Lai (h. Gia Bình, t. Bắc Ninh) có tấm bia Phúc Lai tự bi kí 福萊寺 碑記 [N0: N0 04806 - 04807], niên đại Hoằng Định 16 (1616) đề cập đến Sƣ Huệ Giác chùa Thiên Thai, chùa Thái Sƣ và chùa Tĩnh Lự của xã Đông Cứu (h. Gia Bình, t. Bắc Ninh) nhƣ sau: “Trụ trì Thiên Thai tự, Sơn Tăng Trịnh Huệ Giác, Tỳ kheo tâm Phật chi từ tâm tính chi minh tính, lạc vi thiện, cẩn lạc phúc, ký trùng tu Tĩnh Lự, Thái Sƣ, Thiên Thai, chiêm vạn ban chi phong cảnh dã” 住持天台寺山僧 鄭惠覺比丘心佛之兹心性之明性樂為善勤樂福既重修静慮太師天台占萬般之 風景也. (Dịch nghĩa: Sƣ Trịnh Huệ Giác, trụ trì chùa Thiên Thai là vị tỳ kheo có tấm lòng sáng trong, từ bi của một vị Phật, ngài chuyên tâm làm phúc, đã trùng tu các chùa Tĩnh Lự, Thái Sƣ, Thiên Thai và từng đi chiếm bái muôn vàn cảnh đẹp). Những trƣờng hợp cúng Hậu Phật thƣờng là những ngƣời không có con nối dõi nhƣng có tiền của cúng vào chùa của bản thôn để sau khi chết đƣợc thờ cúng tại đây. Tuy nhiên, có một số trƣờng hợp đƣợc dân làng thờ làm Hậu Phật vì có công giúp dân đóng thuế, đắp một đoạn đê ngăn nƣớc lũ bảo vệ mùa màng [N0: 5048] hoặc có khi bỏ tiền tu sửa đình làng để đƣợc thờ làm Hậu Phật [N0: 5170]. Có những trƣờng hợp trực tiếp đem của cải để mình đƣợc bầu làm Hậu Phật nhƣng có nhiều trƣờng hợp lại làm việc đó cho cha, mẹ đẻ, cha mẹ vợ hoặc làm thủ tục để dân làng bầu cho vợ hoặc cho chồng mìnhTài sản đem dâng cúng có khi là đất đai, ruộng vƣờn hay tiền bạc Về thân phận, có những ngƣời cung tiến để đƣợc chùa thờ Hậu Phật có khi là ngƣời cô đơn quả phụ, nhƣng có khi lại là ngƣời đông con nhiều cháu, ngƣời làm quan, ngƣời làm dân thƣờng, thậm chí có nhiều ngƣời đỗ đại khoa cũng tham gia vào việc cúng Hậu vào chùa nhƣ trƣờng hợp Tiến sĩ Trần Thiệu quê ở Điền Trì (h. Nam Sách, t. Hải Dƣơng) đƣợc thờ làm Hậu Phật chùa Dâu 130 4.3. Ảnh hƣởng, mối quan hệ của một số ngôi chùa nổi tiếng, của một số danh tăng tiêu biểu Để thấy đƣợc sự ảnh hƣởng của những vị thiền sƣ nổi tiếng trụ trì ở một số sơn môn nổi tiếng của tỉnh Bắc Ninh thời Lê (Tk XVII - XVIII), cần tìm hiểu trên nhiều giác độ nhƣ không chỉ tìm hiểu về dấu ấn của họ đƣợc phản ánh trên những bi kí, trƣớc thuật bằng thƣ tịch ở những chùa đó mà còn phải tìm hiểu những mối quan hệ, các trƣớc tác của họ đƣợc lƣu hành tại các địa phƣơng khác, các sơn môn khác hoặc ảnh hƣởng của họ qua các mối quan hệ thầy - trò. Sự ảnh hƣởng đó không chỉ đƣợc thể hiện bằng những dấu ấn thiền phái, tƣ tƣởng, trƣớc tác mà có thể còn thể hiện bằng những dấu ấn vật chất qua các công trình kiến trúc, tôn giáo, nghệ thuật Tuy nhiên, những vấn đề này đã đƣợc tác giả đặt ra nhƣ một thao tác, phƣơng pháp luận để làm việc. Trên thực tế, sự tìm hiểu những vấn đề về sự ảnh hƣởng giữa các thế hệ và việc tìm hiểu về cá nhân các thiền sƣ nổi tiếng với những bậc sƣ hữu đƣơng thời là một vấn đề khó khăn, phức tạp nhƣng sẽ đƣợc tiếp tục nghiên cứu trong tƣơng lai. Chẳng hạn nhƣ, sự ảnh hƣởng của chùa Bút Tháp về mặt kiến trúc đã ảnh hƣởng đến kiến trúc ở chùa Yên Hoa (Yên Tử) nhƣ thế nào (?). Đó là kiến trúc của Liên hoa đài chùa Bút Tháp đã trở thành một mẫu hình tiêu biểu cho nhiều chùa ở địa phƣơng khác học theo. Cũng theo Hòa thƣợng Thích Thanh Từ trong Thiền sư Việt Nam cho biết: Năm 1684, Ông (Thiền sƣ Chân Nguyên - Tg) đã dựng đài “Cửu Phẩm liên hoa” theo mẫu đài “Cửu phẩm liên hoa” mà sƣ Huyền Quang đã dựng ở chùa Ninh Phúc (còn gọi là chùa Bút Tháp, Thuận thành, Bắc Ninh) [99; 31 - 32]. Nếu nhận định của Hòa thƣợng Thích Thanh Từ là đúng thì nhƣ thế là có thể nghĩ rằng, về mặt tƣ tƣởng và kiến trúc Cửu phẩm liên hoa chùa Yên Hoa (Yên Tử) đã chịu ảnh hƣởng bởi phong cách của Cửu phẩm liên hoa chùa Bút Tháp hay nói cách khác, suy rộng ra, tƣ tƣởng của thiền sƣ Chân Nguyên đƣợc thể hiện qua tháp Cửu phẩm liên hoa đã chịu ảnh hƣởng từ Thiền sƣ Pháp Loa thời Trần. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cho đến hiện nay chƣa có nhiều tƣ liệu chứng minh một cách chắc chắn Cửu phẩm liên hoa chùa Bút Tháp là tác phẩm của Thiền sƣ Huyền Quang và Cửu phẩm liên hoa chùa Yên Hoa là tác phẩm của sƣ Chân Nguyên (?). Nhiều nghiên cứu khác trong học giới đều cho rằng, Cửu phẩm liên hoa ở chùa Ninh Phúc (Bút Tháp) mới đƣợc làm vào thời Lê Trung hƣng. Nhƣng không 131 đƣa ra đƣợc bằng chứng xác đáng, tin cậy. Gần đây, chúng tôi đã khảo cứu kỹ bài văn khắc trên thân tháp Tôn Đức năm 1739 ghi: “Ngày tốt, tháng 4, năm Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (1739),Trụ trì bản tự Sa môn Tính Hài, hƣng công đắp tƣợng, trang hoàng trong ngoài các toà cùng Cửu phẩm liên hoa, hƣơng án, hết thảy đều hoàn thành viên mãn. Công đức lớn có Thái phi Trƣơng Thị Ngọc Chử hiệu Diệu Khoan con gái Phƣơng Hoa, con gái lớn Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ hiệu Diệu Huy”56. Qua nguồn tƣ liệu văn bia trên tháp Tôn Đức có thể khẳng định, toà Cửu phẩm liên hoa đƣợc tạo tác vào thế kỷ XVII do Sa di Tính Hài và Thái phi Trƣơng Thị Ngọc Chử cùng các con gái của bà hƣng công. Sự kiện này đƣợc khắc ghi trên bia đá tháp Tôn Đức vào năm 1739. Nhƣ thế, nghiên cứu sự ảnh hƣởng của những motif kiến trúc giữa các ngôi chùa trong khu vực tỉnh Bắc Ninh ở Tk XVII - XVIII cần phải tiếp tục nghiên cứu để thấy đƣợc sự tiếp thu, ảnh hƣởng giữa các thế hệ Thầy - Trò trong thiền phái là một việc làm cần tiếp tục trong tƣơng lai. Nhƣng ở đây muốn nói đến sự ảnh hƣởng của của vị trụ trì, bậc cao tăng trong giới thiền lâm nhƣ Thiền sƣ Chân Nguyên thì đã có nhiều nghiên cứu khẳng định. Chân Nguyên thiền sƣ đƣợc coi là ngƣời có công trong việc nối lại dòng mạch của phái Trúc Lâm bằng cách sƣu tập, biên chép nhiều tác phẩm Phật học đời Trần. Ông có ảnh hƣởng lớn và đƣợc vua Lê Hy Tông rất nể trọng. đƣợc các vị hoàng đế triều Lê trân trọng và coi nhƣ là những vị quốc sƣ đƣơng đại tiêu biểu của vƣơng triều: “Năm 46 tuổi, ông đƣợc vua Lê Hy Tông triệu vào cung để tham vấn Phật pháp và ban cho hiệu Vô Thƣợng Công cùng áo cà sa và đồ pháp khí để thừa tự. Năm 76 tuổi, ông đƣợc vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng thống và ban hiệu Chính Giác Hòa thƣợng. Ngày 28 tháng 10 năm 1726, Sƣ viên tịch, thọ 80 tuổi, môn đồ làm lễ hỏa táng, đem xá lỵ chia ra để thờ ở hai tháp chùa Quỳnh Lâm và Long Động [99; 31 - 32]. Thiền sƣ Chân Nguyên trƣớc thuật sáng tác nhiều, với nhiều tác phẩm nổi tiếng, cho đến nay, nhiều tác phẩm đã đƣợc dịch thuật và chú giải57. Các tác phẩm của Chân Nguyên Tuệ Đăng có: 56 Nguyên văn: 黎朝永祐五年,歲在己未,四月,吉日,住持本寺沙門字性諧興功修造粧金塑寺,内外各座及 九品蓮花,案前,做好各各完成圓滿事,一大功德尊太妃張氏玉渚號妙寬,親女芳花,親長上郡主鄭氏玊基, 號妙輝. (Bia Tháp Tôn Đức, [No: 02889]. 57 Nhiều tƣ liệu văn bia Yên Tử trong đó có các trƣớc tác của Chân Nguyên thiền sƣ đã đƣợc tập hợp in trong công trình: Trúc Lâm Yên Tử phật giáo tùng thư do Thích Thanh Quyết - Trịnh Khắc Mạnh (Chủ biên, 2018), 132 1. Tôn sư pháp sách đăng đàn thọ giới 2. Nghênh sư duyệt định khoa 3. Long thư tịnh độ văn 4. Long thư tịnh độ luật bạt hậu tự 5. Tịnh độ yếu nghĩa 6. Ngộ đạo nhân duyên 7. Nam hải quan âm bản hạnh 8. Đạt Na thái tử hạnh 9. Hồng mông hạnh 10. Thiền tông bản hạnh Thiền tịch phú 11. Kiến tính thành Phật Đối với những đóng góp trong “sơn môn” và địa phƣơng, với quan niệm “Hằng sản hằng tâm”, những vị thiền sƣ có ảnh hƣởng lớn thƣờng cũng đồng thời là ngƣời nhiều đóng góp bằng việc hƣng công xây dựng các hạng mục công trình, in khắc kinh Phật cho chùa; Nhƣ nhà sƣ Nguyễn Hải Soạn Thích Thời Thời là một thí dụ. Qua bia Tịnh Từ tháp 淨慈塔 (chùa Thiên Ân, x. Xuân Lai, h. Gia Bình) cho biết, thiền sƣ Nguyễn Hải Soạn Thích Thời Thời (ngƣời x. Nhân Lý, h. Hải Đƣờng, phủ Kinh Môn, Hải Dƣơng) là ngƣời giác ngộ đạo Phật. Năm Ất Dậu (1765), Sƣ tu sửa tiền đƣờng, thƣợng điện, thiêu hƣơng, in kinh Phật; viên tịch năm 83 tuổi; xá lỵ an trí ở chùa Thiên Ân, (x. Phúc Lai, h. Gia Bình) và chùa Ninh Phúc quê hƣơng nhà sƣ. Cũng nhƣ thiền sƣ Lân Giác Trịnh Thập, thiền sƣ Chuyết Chuyết cũng có ảnh hƣởng lớn không chỉ trong khu vực các sơn môn thuộc tỉnh Bắc Ninh mà còn có ảnh hƣởng đến nhiều danh lam cổ tự trong nƣớc. Bằng các hoạt động hoằng dƣơng Phật pháp lúc sinh thời, Chuyết Công đã đến nhiều nơi khắp các nƣớc Ấn Độ, Trung Quốc, Miên (Campuchia), Ai Lao (Lào); ngoài ra, Ông còn đi qua các vƣơng quốc Chămpa, Chân Lạp, Phù Nam (nay thuộc miền Trung và miền Nam của Việt Nam) Về hành trạng và công lao cũng nhƣ ảnh hƣởng của Chuyết Công đối với giới Phật giáo đƣơng thời, đã đƣợc Đàm Chí Từ (Đại học Kí Nam, Trung Quốc) nghiên cứu một cách công phu, toàn diện về cuộc đời của vị thiền sƣ này [161]. Qua các nguồn sử liệu văn bia, thƣ tịch cho biết, Chuyết Công từng đến các chùa Khán Sơn ở thành Thăng Long), chùa Trúc Lâm Long Động (Yên Tử), chùa Bút Tháp (Thuận Thành) và chùa Phật Tích (Tiên Du) và nhiều ngôi chùa khác. Ảnh hƣởng của Chuyết Chuyết đến các thế hệ sau có lẽ là rất sâu sắc, nên sau này vào khoảng Nxb Khxh. Nhƣng do khuôn khổ, phạm vi luận án, nên những tƣ liệu văn bia viết về Chân Nguyên Thiền sƣ sƣu tầm, phát hiện ở ngoài phạm vi tỉnh Bắc Ninh, tác giả không có điều kiện đi sâu và trình bày ở đây. 133 cuối Lê đầu Nguyễn, Nguyễn Hữu Thận đã biên tập tác phẩm Kiến tính thành Phật nội dung ghi về dòng Lâm Tế của Chuyết Công, lƣu hành tại chùa Sùng Phúc (Gia Lâm, Hà Nội). Cũng nhƣ trƣờng hợp thiền sƣ Trịnh Thập, thiền sƣ Chuyết Chuyết cũng đƣợc thờ ở nhiều nơi nhƣ chùa Phật Tích và ngôi tháp Báo Nghiêm (chùa Bút Tháp). Tháp Báo Nghiêm an trí trong chùa Bút Tháp đƣợc xây bằng đá, kiến trúc 5 tầng, cao 13m đƣợc coi là sự tri ân của các thế hệ đệ tử đối với thầy. Qua bài minh bi Hiển Thụy am, Báo nghiêm tháp bi minh 顯瑞庵報嚴塔碑銘 đặt tại Chùa cho biết rõ điều đó. Tƣ tƣởng của Chuyết Công đƣợc thể hiện qua tác phẩm Chuyết Công ngữ lục 拙公語籙 đã đƣợc ngƣời học trò kế đăng là Minh Hành Thích Tại Tại và Thiền sƣ Tuệ Tiến biên tập, khắc in lƣu hành [11]. Nhƣ trên đã đề cập, sự ảnh hƣởng của các vị thiền sƣ Tk XVII - XVIII đối với học giới và giới Phật tử đƣơng thời không chỉ thể hiện qua các trƣớc tác của chính bản thân mình mà bằng việc tăng cƣờng phát huy in ấn các tác phẩm của tiền nhân tức là góp phần xiển dƣơng tƣ tƣởng của tiền bối, nhƣ thế, tạo nên sự ảnh hƣởng của họ đối với việc nâng cao sự hiểu biết về Phật học nói riêng và tri thức xã hội nói chung. Trong thời gian này, thiền sƣ Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647 - 1726) đã tiến hành biên tập tập sách Thiền tông bản hạnh - tác phẩm có nguồn gốc từ thời Trần. Với tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt huyết với vốn cổ tinh hoa tri thức của dòng thiền Trúc Lâm, Thiền sƣ Nhƣ Trí 如智- trụ trì chùa Tiêu Sơn (Từ Sơn) đã cùng với các vị tăng hữu biên tập và in khắc lại (trùng san) bộ sách Phật giáo thời Trần mang tên Thiền uyển tập anh 禪菀集英,khắc in năm 1715. Trong các vị thiền sƣ nổi tiếng của Bắc Ninh Tk XVII - XVIII, ni sƣ Trịnh Thị Ngọc Trúc là một nhân vật đặc biệt. Bà là con gái của Thanh Đô Vƣơng Trịnh Tráng và Chính phi Nguyễn Thị Ngọc Trúc. Tuy sống trong cung cấm nhƣng cuộc tình duyên gặp nhiều vất vả, éo le, từng là Quốc mẫu Hoàng Hậu (vợ của vua Lê Thần Tông) và là phu nhân của Cƣờng quận công Lê Trụ. Sau đó, Bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên vào chùa Bút Tháp đi tu và đƣợc Minh Hành Thích Tại Tại thọ giới. Công lao của bà đƣợc ghi nhận qua các bi kí tại chùa nhƣ cúng ruộng thế nghiệp tại Ninh Bình (Bia Phụng lệnh chỉ 奉令指 dựng năm 1647), [N0: 22822], xây tháp Báo Nghiêm của Thiền sƣ Chuyết Chuyết (1647) (Bia Ninh 134 Phúc Thiền tự tam bảo tế tự điền bi (năm Phúc Thái 5 - 1648), [N0: 22817 - 22818]... Đặc biệt, ảnh hƣởng của Ni sƣ Trịnh Thị Ngọc Trúc rất lớn đối với học giới đƣơng thời và các thế hệ Phật tử qua tác phẩm Chỉ nam ngọc ân giải nghĩa 指 南玊音解義. Đây là một tác phẩm đồ sộ với độ dài hơn 3.000 câu (hơn 24.000 chữ) đƣợc sáng tác bằng thể văn vần theo thể loại lục bát. Tập sách đƣợc chia làm 40 chƣơng, đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣ: Thơ văn, địa lý, động thực vật học, và những tri thức về tự nhiên và bảo vệ sức khỏe... Tác phẩm Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa đƣợc coi là một bộ từ điển bách khoa đầu tiên của Việt Nam đƣợc diễn đạt bằng chữ Nôm - thứ chữ của dân tộc Việt. Tác phẩm này đã đƣợc các nhà nghiên cứu đánh giá cao với nhiều đóng góp trên nhiều phƣơng diện58. Ni sƣ Trịnh Thị Ngọc Trúc đƣợc thờ ở nhiều nơi nhƣ chùa Bút Tháp (thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) và chùa Mật Sơn (Đại Bi tự, thôn Bố Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa). - Các vị thiền sư khác: Hành trạng và sự nghiệp của một số vị thiền sƣ khác đƣợc thể hiện bằng những bức phù điêu cụ thể, sinh động qua những bức tƣợng đƣợc điêu khắc trên những phiến đá bền, bên cạnh ghi về hành trạng của họ. Thí dụ, hình ảnh của vị Hòa thƣợng, Cao tăng thời Lê thể hiện qua tấm bia Nam Vô a di đà Phật 南無阿弥陀佛 [N0: 04370/04371], niên hiệu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_van_bia_phat_giao_the_ky_xvii_xviii_tinh.pdf
  • pdfQD_NguyenQuangHa.pdf
  • jpgScan0007.JPG
  • jpgScan0008.JPG
  • pdfTrichyeu_NguyenQuangHa.pdf
  • pdfTT eng NguyenQuangHa.pdf
  • pdfTT NguyenQuangHa.pdf
Tài liệu liên quan