Luận án Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN5

1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan 5

1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước 13

1.3. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan

đến đề tài và những vấn đề luận án sẽ tập trung giải quyết26

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC

ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN TRONG

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY28

2.1. Những vấn đề cơ bản về nguyên tắc Đảng gắn bó mật

thiết với Nhân dân28

2.2. Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân

dân - khái niệm và phương thức57

Chương 3: THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT THIẾT

VỚI NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC

TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA74

3.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiếtvới Nhân dân74

3.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra 109

Chương 4: PHưƠNG HưỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

ĐỂ THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮC ĐẢNG GẮN BÓ MẬT

THIẾT VỚI NHÂN DÂN ĐẾN NĂM 2025121

4.1. Dự báo những nhân tố tác động và phương hướng thực

hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân

đến năm 2025121

4.2. Những giải pháp chủ yếu thực hiện tốt nguyên tắc Đảng

gắn bó mật thiết với Nhân dân đến năm 2025127

KẾT LUẬN 161

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN164

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 165

PHỤ LỤC 176

pdf254 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 603 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong hệ thống tổ chức bộ máy giữa Đảng và Nhà nước có hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, đang cố gắng tìm cách giải quyết, song nhiều khi còn lúng túng hoặc thiếu quyết tâm. 103 Công tác dân vận của chính quyền ở một số địa phương còn tồn tại nhiều khuyết điểm, chậm khắc phục. Nhận thức về CTDV trong hoạt động quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền và cơ quan nhà nước ở một vài địa phương chưa thật đầy đủ và thường xuyên. Việc học tập, quán triệt các quan điểm, tư tưởng về dân vận, các NQ, văn bản của Đảng, của Chính phủ về dân vận ở một số nơi còn hình thức, chưa đi vào thực chất, chưa thực sự mang lại hiệu quả. Do vậy, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn ở một số cấp, ngành và trên một số lĩnh vực còn nặng về biện pháp hành chính, mệnh lệnh, thiếu sự vận động, thuyết phục Nhân dân thực hiện. Một số nơi, chính quyền chưa thực sự coi trọng CTDV, chưa quan tâm đến lợi ích của người dân. Sự phối hợp giữa chính quyền, Mặt trận, các ban, ngành, đoàn thể trong CTDV thiếu chặt chẽ; nói chưa đi đôi với làm, việc nắm bắt tình hình để tham mưu, đề xuất xử lý những vấn đề bức xúc của Nhân dân chưa nhạy bén, kịp thời. 3.1.2.7. Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội còn những bất cập; một số nơi chưa phát triển sâu rộng các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân Đảng, Nhà nước chậm ban hành cụ thể các văn bản pháp quy về cơ chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội; chậm đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng về CTDV và đối với MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội; chậm khắc phục tình trạng hành chính hóa và chạy theo thành tích trong hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội. Cơ chế, chính sách đãi ngộ cho cán bộ cơ sở chưa hợp lý, đời sống của cán bộ Mặt trận và đoàn thể còn nhiều khó khăn nên ít nhiều đã ảnh hưởng đến thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nhiều nơi trong vai trò là cầu nối giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước còn mờ nhạt, yếu kém. Việc chỉ đạo phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận, đoàn thể ở một số địa phương chưa được gắn kết chặt chẽ. Nội dung, phương thức tổ chức, hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân nhìn chung chậm được đổi mới, một số hoạt động còn "hành chính hóa"; phương thức công tác còn nhiều lúng túng, hiệu quả chưa cao, 104 chưa thực sự sâu sát với quần chúng, chưa hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; còn có tình trạng ở một số không ít cơ sở, khi xảy ra vấn đề phức tạp, đoàn thể không nắm được tình hình, không phát huy được vai trò của đoàn viên, hội viên. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng bộ máy, bố trí cán bộ của MTTQ và các đoàn thể chưa được quan tâm thỏa đáng, chưa có quan điểm, giải pháp cụ thể, chắp vá, hạn chế tính chuyên nghiệp, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới. 3.1.2.8. Cuộc đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng và hệ thống chính trị chưa thực sự hiệu quả, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ do Đảng lãnh đạo Nghị quyết ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: "tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng" [26, tr.263-264] Cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân là tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gây nên những bức xúc xã hội. Nhân dân rất bức xúc về tình hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy danh hiệu thi đua, chạy tuổi... của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền; tiêu cực trong y tế, giáo dục; tệ nạn ăn hối lộ của công chức, viên chức nhà nước trong quan hệ giao dịch hành chính với Nhân dân, doanh nghiệp; tình trạng thiếu trách nhiệm, yếu kém trong lãnh đạo của một số tổ chức đảng; yếu kém trong quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện của một số cơ quan Nhà nước, của chính quyền các cấp để thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, của Nhân dân; những người có chức, có quyền khi sai phạm, chưa được xử lý nghiêm, một số vụ sai phạm lớn nhưng người đứng đầu, quản lý, điều hành không bị kỷ luật, không chịu trách nhiệm. Nhân dân rất bức xúc về tình trạng thoái hóa, biến chất, quan liêu, mất dân chủ, thiếu gương mẫu của một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý có chức, có quyền hiện nay và tình hình xuống cấp đạo đức xã hội, tội phạm hình sự, nạn cờ bạc, ma 105 túy, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng cao... (xem phụ lục 8). Trước vấn nạn đó, Đảng và Nhà nước chưa tập trung cao để giải quyết tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu một cách triệt để, chậm đưa ra truy tố, xét xử những vụ tiêu cực đã phát hiện của một số cán bộ, đảng viên. Trong hệ thống bộ máy chính quyền các cấp - nơi dễ nảy sinh tham nhũng, tiêu cực nhất là những khu vực có những hoạt động độc quyền: hệ thống thu thuế, hải quan, cảnh sát (nhất là cảnh sát giao thông), các cơ quan có quyền ban hành các giấy phép xây dựng và các quyết định quy hoạch đất đai, ban hành các giấy phép kinh doanh và các loại giấy phép khác (kể cả giấy phép lái xe), các đơn đặt hàng của Nhà nước cho các dịch vụ công cộng.... Tham nhũng còn xuất hiện trong việc bổ nhiệm các chức vụ trong các cơ quan có nhiều cơ hội "thu lợi nhuận" cho những người trong gia đình, bà con, họ hàng, bạn bè.... Số vụ tiêu cực được phát hiện ngày càng tăng, quy mô và mức độ thiệt hại ngày càng lớn và tính chất ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Thực tế cho thấy, một số vụ án lớn gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đối với tài sản của Nhà nước nhưng lại không phát hiện được hành vi tham nhũng hoặc ban đầu khởi tố, điều tra về hành vi tham nhũng nhưng sau đó lại chuyển sang các tội danh khác nhẹ hơn như tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng... đã gây bất bình, bức xúc trong cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và quần chúng nhân dân. Theo Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2012 trước Ủy ban Thường vụ QH ngày 19-9-2012: Số vụ tham nhũng được khởi tố, điều tra, truy tố năm 2012 đều tăng hơn so với cùng kỳ năm trước, cụ thể lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm tham nhũng của công an đã thụ lý 551 vụ án, 1.277 bị can phạm tội về tham nhũng, trong đó khởi tố 222 vụ, 469 bị can (so với cùng kỳ năm trước tăng 80 vụ và 224 bị can). Viện Kiểm sát nhân dân đã thụ lý kiểm sát điều tra 225 vụ, 450 bị can về tham nhũng (so với cùng kỳ năm trước tăng 42 vụ). Tòa án các cấp đã xét xử sơ thẩm 167 vụ, 338 bị cáo về các tội danh tham nhũng, trong đó, tỷ lệ tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiếm 44,1% (năm 2011, tỷ lệ này là 31,7%) [7, tr.127]. Như vậy, mặc dù cuộc đấu 106 tranh phòng, chống tham nhũng vẫn được tiến hành thường xuyên, song số lượng các vụ tham nhũng, tiêu cực được phát hiện ngày càng tăng, cho thấy chế tài chưa đủ mạnh, xử lý chưa kiên quyết, triệt để, chưa có tác dụng răn đe, ngăn chặn tham nhũng phát sinh. Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí, kết quả thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng còn nhiều hạn chế. Số vụ án tham nhũng được khởi tố, điều tra chưa tương xứng với tình hình tham nhũng nghiêm trọng hiện nay. Các vụ việc tham nhũng được phát hiện và xét xử chủ yếu liên quan đến cấp xã, doanh nghiệp, cán bộ của chính quyền cơ sở, cán bộ của doanh nghiệp, nhân viên thừa hành. Việc xử lý các vụ án còn nhiều khó khăn do bị tác động, do tư tưởng hữu khuynh, xử lý "nhẹ trên, nặng dưới", lạm dụng xử lý kỷ luật hành chính, nội bộ, mức án treoMột số vụ việc xử lý kéo dài, thiếu thống nhất đã gây nên dư luận không thuận về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước. Việc hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng còn chậm. Một số quy định được ban hành thiếu tính khả thi và trong thực hiện có nhiều vướng mắc nhưng chậm được điều chỉnh, hướng dẫn, làm ảnh hưởng đến việc chấp hành của cán bộ, đảng viên cũng như khó khăn cho việc kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên trong chỉ đạo và thực hiện, trong việc chấp hành và xem xét, xử lý khi có vi phạm. Việc tự phát hiện, khai báo tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên trong từng cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị còn hạn chế. Số vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện qua kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, kiểm toán, tự phê bình và phê bình, qua phản ánh, tố cáo của đảng viên, quần chúng và kết quả xử lý còn thấp, chưa tương xứng với tình hình tham nhũng đang diễn ra. Một số vụ việc, vụ án tham nhũng xử lý chậm, kéo dài, gây tâm lý hoài nghi trong Nhân dân về tính nghiêm minh của pháp luật và kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Tình trạng sa sút phẩm chất, nhũng nhiễu, gây phiền hà của một bộ phận cán bộ, công chức trong thi hành công vụ chậm được khắc phục. Hiện tượng "chạy chức", "chạy quyền", "chạy tội", "chạy tuổi" chưa được quan tâm chỉ đạo làm rõ. Sự yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, giám sát dẫn đến các sai phạm của tập thể, cán bộ, đảng viên, công chức, gây thất thoát lớn tiền, tài sản của Nhà nước trong một số doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị. Theo số liệu tổng hợp 107 của Ban Dân vận TW, tổng số vụ tham nhũng được giải quyết từ năm 2007 đến năm 2012 là 1.725 vụ, với 3.725 bị can [xem phụ lục 10]. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng, làm giảm sút năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cũng như lòng tin của Nhân dân. Nhân dân giảm sút lòng tin, có lúc có nơi, có việc rất nghiêm trọng về những hạn chế, hiệu quả thấp của các giải pháp đấu tranh phòng chống, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí và sàng lọc cán bộ, đảng viên làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước và giải quyết các khó khăn, bức xúc trong cuộc sống của Nhân dân hiện nay. Theo kết quả điều tra, khảo sát của Ban Dân vận TW: Lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy đảng, chính quyền giảm sút nghiêm trọng, chỉ có 56,22% ý kiến cho rằng họ rất tin tưởng, còn lại 35,84% cho rằng ít tin tưởng và đặc biệt có tới 2,26% ý kiến cho rằng không tin tưởng. Thêm vào đó, uy tín của Đảng cũng giảm sút nghiêm trọng, khi có tới 53,20% ý kiến trả lời là giảm sút và có tới 7,92% cho rằng uy tín của Đảng giảm sút nghiêm trọng (xem phụ lục 5). Sau thời gian triển khai, tổ chức thực hiện NQ Hội nghị TW 4 (khóa XI) về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay", tuy đã đạt được những kết quả bước đầu, song, đa số nhân dân, nhất là cán bộ lão thành, cán bộ nghỉ hưu cho là: Đảng đề ra là đúng, hợp với nguyện vọng của Nhân dân, nhưng tổ chức thực hiện, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế so với yêu cầu đề ra và mong đợi của Nhân dân; đòi hỏi Đảng phải có những giải pháp lãnh đạo phát huy cao độ vai trò của Nhân dân để Nhân dân tham gia giải quyết tình hình cấp bách hiện nay. 3.1.2.9. Công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân còn hạn chế; việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân thiếu chủ động, chưa kịp thời Thực tiễn cho thấy, do chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương thức thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, nên việc thực hiện nguyên tắc này tại các đảng bộ địa phương, đơn vị, có lúc, có nơi còn xem nhẹ, có biểu hiện hình thức, qua loa, đại khái. Công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết việc thực hiện nguyên tắc này cũng chưa được triển khai rộng rãi trong toàn Đảng, tại tất cả các TCCSĐ. 108 Hoạt động kiểm tra, giám sát liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân hiện nay, chủ yếu tập trung vào kiểm tra thực hiện QCDC ở cơ sở. Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện những hạn chế, yếu kém trong thực hiện QCDC ở cơ sở. Nhận thức về dân chủ, trách nhiệm thực hiện QCDC ở cơ sở của một số cấp ủy, chính quyền, của một số cán bộ, công chức chưa đầy đủ. Trong chỉ đạo, lãnh đạo tổ chức thực hiện còn thụ động chờ vào những quy định của cấp trên mà chưa thấy hết trách nhiệm của mình phải chủ động rà soát những việc cần phải mở rộng dân chủ để chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện. Một số nơi chưa thực hiện đầy đủ các quy định, quy trình về thực hiện công khai, dân chủ, nhất là trong việc thực hiện chế độ, chính sách, mức giá đền bù thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, thậm chí còn lợi dụng, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân. Một số vụ việc giải quyết thiếu thống nhất, không công khai, gây bức xúc, làm nảy sinh điểm nóng. Còn nhiều lúng túng trong việc xây dựng và thực hiện QCDC ở các loại hình doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài và các loại hình dịch vụ ngoài công lập (trường tư thục, bệnh viện tư nhân). Còn không ít cơ quan, đơn vị chưa quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện QCDC ở cơ sở; chưa coi trọng việc tổng kết các quy chế, quy định đã ban hành. Nhiều lĩnh vực mới phát sinh, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của cán bộ, người lao động, của Nhân dân chưa được nghiên cứu, chỉ đạo, điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Nhiều công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa triển khai thực hiện, chưa chủ động xây dựng quy chế, quy trình thực hiện công khai, dân chủ. Trách nhiệm của một số bộ, ngành và chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo còn hạn chế, chưa quan tâm xây dựng, hướng dẫn quy chế "mẫu", thiếu kiểm tra theo hệ thống ngành dọc; không ít các cơ quan đảng, chính quyền chưa có ban chỉ đạo; nơi đã có, không kịp thời kiện toàn, thiếu kiểm tra đôn đốc; việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm chưa kịp thời. Chất lượng thực hiện QCDC có lúc, có nơi còn hình thức, hiệu quả thấp. Tình trạng mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, thiếu tôn trọng dân vẫn chậm khắc phục. Một số nơi, cán bộ mất đoàn kết, tính chiến đấu chưa cao. Việc tổ chức Nhân dân tham gia giám sát, góp ý vào các chủ trương, chính sách của 109 Đảng và Nhà nước, của địa phương, góp ý cho cán bộ, đảng viên, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền kết quả còn hạn chế. Nhiều cấp ủy, chính quyền địa phương chưa chú trọng phòng ngừa, phát hiện sớm, xử lý kịp thời các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, chưa giải quyết triệt để những bức xúc chính đáng của Nhân dân nên để xảy ra những vụ khiếu kiện, tụ tập đông người, có nơi tạo thành những "điểm nóng" chính trị - xã hội. Từ khi Đảng ta lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đến nay, có rất nhiều vụ tụ tập đông người tại các địa phương trên cả nước do vi phạm dân chủ, gây nên những bức xúc bất bình trong Nhân dân. Theo thống kê của Ban Dân vận TW, từ năm 2006 đến nay, có tới 12 vụ việc điển hình mà TW đã chỉ đạo giải quyết, tổng kết và rút kinh nghiệm. Những vụ việc tụ tập, khiếu kiện đông người hầu hết đều liên quan đến chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, vấn đề đất đai. Có những vụ việc, cấp ủy, chính quyền địa phương đã vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, có lúc, có nơi rất nghiêm trọng, tạo nên những phản ứng trong Nhân dân. Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cấp ủy, tổ chức đảng lẽ ra phải kịp thời phát hiện, xử lý những vi phạm dân chủ, những sai phạm trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng, đem lại công bằng cho Nhân dân, làm yên lòng dân, hóa giải mâu thuẫn, xung đột tại địa phương. 3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.2.1. Nguyên nhân 3.2.1.1. Nguyên nhân của ưu điểm Kể từ sau khi nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân được quy định trong Điều lệ Đảng thông qua tại ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006 đến nay), các tổ chức đảng, cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã tích cực quán triệt, thực hiện nguyên tắc. Những ưu điểm trong thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân chủ quan Một là, ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên 110 phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc. Bản chất của Đảng quy định hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên; yêu cầu, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải hoạt động phục vụ mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phục vụ Nhân dân, đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân, của Đảng lên trên lợi ích cá nhân. Đây là nguyên nhân quan trọng để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong tình hình hiện nay. Hai là, đa số cấp ủy các cấp và đội ngũ đảng viên đã có nhận thức, xác định rõ trách nhiệm đối với việc thực hiện nguyên tắc, đã tích cực chủ động triển khai thực hiện và tự giác thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong thực tiễn. Ba là, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phần lớn xuất thân từ công nhân, nông dân, trí thức. Lớp cán bộ, đảng viên trẻ cũng từ con em công nhân, nông dân, trí thức mà ra; nhiều người trong số họ là thế hệ đảng viên thứ hai, thứ ba trong gia đình truyền thống cách mạng, cha ông họ cũng là đảng viên, nên ít nhiều được thấm nhuần đạo đức cách mạng, nắm vững lý tưởng của Đảng; không quên cội nguồn xuất thân nên trong hoạt động thực tiễn họ gần dân, gắn bó với Nhân dân, không xa rời Nhân dân. Bốn là, ĐCS Việt Nam đã kịp thời đổi mới CTDV, giữ mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; phát huy được vai trò, sức mạnh của Nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Nguyên nhân khách quan Một là, công cuộc đổi mới đất nước phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ngày càng phát triển, xu thế hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa, đặt ra yêu cầu to lớn đối với ĐCS Việt Nam cầm quyền. Đảng cần đủ bản lĩnh, trí tuệ và năng lực để lãnh đạo đất nước, lãnh đạo Nhân dân trong bối cảnh quốc tế và trong nước vô cùng phức tạp, thời cơ và thách thức đan xen. Để lãnh đạo đất nước phát triển, tiếp tục được Nhân dân tin yêu, ủng hộ, Đảng cần thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, coi đây là chìa khóa làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng hiện nay. 111 Hai là, sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đối với Đảng và Nhà nước ta hòng phá hoại Đảng, phá hoại chế độ, bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", hòng làm chia rẽ Nhân dân với Đảng, nhất là bộ phận nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo cũng đặt ra yêu cầu Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ phá tan mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù, củng cố, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, không kẻ thù nào có thể chia rẽ được Nhân dân với Đảng, không thế lực nào có thể lôi kéo Nhân dân ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Ba là, truyền thống Đảng gắn bó với Nhân dân, Nhân dân gắn bó với Đảng có bề dày lịch sử, là tiền đề tốt để thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống cách mạng, tin Đảng và theo Đảng làm cách mạng được vun đắp hàng ngàn năm lịch sử, trải qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, được hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo, nên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đây là nguyên nhân quan trọng để nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân được triển khai, thực hiện trong cuộc sống, nhận được sự tương tác, hưởng ứng của Nhân dân, chứ không phải sự áp đặt một chiều từ phía Đảng. 3.2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế Nguyên nhân chủ quan Một là, nhận thức về nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân còn hạn chế. Công tác nghiên cứu, hướng dẫn thực hiện nguyên tắc này chưa cụ thể, chưa thường xuyên. Hai là, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền có lúc, có nơi còn thiếu trách nhiệm trong thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Có cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, lợi dụng, lạm dụng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng (nguyên tắc tập trung dân chủ) để hiện thực hóa ý chí của người đứng đầu, chà đạp lên quyền dân chủ của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, dẫn đến vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân Ba là, công tác xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến 112 đấu của Đảng của nhiều cấp ủy còn hạn chế. Chậm ban hành cơ chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ chế để MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu trước Nhân dân. Bốn là, Nhà nước chậm thể chế hóa một số chủ trương, NQ của Đảng thành chính sách, pháp luật, chưa cân đối, bố trí đủ nguồn lực trong tổ chức thực hiện, chưa tập trung chỉ đạo giải quyết tích cực, kịp thời một số bức xúc, kiến nghị chính đáng của Nhân dân. Thực hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương xã hội và công tác tuyên truyền, quản lý nhà nước về thông tin (nhất là thông tin mạng) chưa tốt. Năm là, sự phối hợp thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân trong hệ thống tổ chức của Đảng và với các tổ chức trong HTCT chưa chặt chẽ. Công tác tham mưu của ban dân vận các cấp và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Sáu là, công tác kiểm tra, giám sát ở nhiều nơi kém hiệu quả, thậm chí bị coi nhẹ, không phát hiện được các vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân hoặc phát hiện được nhưng không dám đấu tranh vì sợ "đấu tranh tránh đâu", sợ bị trù dập, ức hiếp, bởi tình trạng kéo bè, kéo cánh, ô dù, cục bộ, địa phương vẫn tồn tại ở không ít cấp ủy địa phương, đơn vị là rào cản thủ tiêu động lực đấu tranh tự phê bình và phê bình, đấu tranh vì công lý của những cán bộ, đảng viên kiên trung, chân chính. Nguyên nhân khách quan Một là, nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân là một trong 3 nguyên tắc mới được khẳng định, bổ sung từ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Cho đến nay, vẫn chưa có những quy định, hướng dẫn, chưa có văn bản cụ thể của Trung ương và của cấp ủy địa phương về nội dung của nguyên tắc cũng như phương thức thực hiện nguyên tắc, nên gây ra những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện. Hai là, một trong những nguy cơ của Đảng cầm quyền, như V.I.Lênin đã cảnh báo là quan liêu, xa rời quần chúng, tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng. 113 Đây là nguyên nhân làm rạn nứt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân, cản trở quá trình thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Ba là, công cuộc đổi mới đất nước là một quá trình vừa làm vừa nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm, hoàn thiện về quan điểm đường lối, cơ chế, chính sách, luật pháp, nên không thể tránh khỏi những hạn chế, yếu kém nói chung và việc thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Bốn là, những tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, lối sống thực dụng, vị kỷ không chỉ tác động tới các tầng lớp nhân dân mà còn tác động, chi phối, ảnh hưởng đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến số đảng viên có chức, có quyền. Mải chạy theo tiền tài, địa vị, danh vọng, số cán bộ này dần rơi vào tệ quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân, dẫn đến vi phạm nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân. Năm là, những khó khăn về kinh tế - xã hội của đất nước, về đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân do tác động của khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu; tư duy, phong cách làm việc cũ của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp vẫn tồn tại ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; tư tưởng phong kiến, chuyên quyền, độc đoán, gia trưởng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý; cùng với âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân là ngu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftv_thuc_hien_nguyen_tac_dang_gan_bo_mat_thiet_voi_nhan_dan_trong_giai_doan_hien_nay_8703_1917188.pdf
Tài liệu liên quan