Luận án Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khoẻ của con người từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương - Nguyễn Huy Tài

MỞ ĐẦU . 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 8

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước. 8

1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài . 13

1.3. Nhận xét, đánh giá các công trình khoa học và những vấn đề đặt ra

cần tiếp tục nghiên cứu. 16

Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM

HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHOẺ CỦA

CON NGƢỜI . 23

2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm

phạm sức khỏe của con người. 23

2.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe

của con người . 48

2.3. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm

sức khoẻ của con người. 59

Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM

SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI. 75

3.1. Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ trước năm 1945 về TNHS đối

với các tội xâm phạm sức khỏe của con người . 75

3.2. Pháp luật hình sự Viện Nam thời kỳ từ năm 1945 đến nay về TNHS

đối với các tội XPSK của con người. 79

3.3. Các quy định của pháp luật về TNHS đối với các tội xâm phạm sức

khỏe của một số nước trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với pháp

luật hình sự Việt Nam . 101Chƣơng 4: ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

NĂM 1999 VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI

XÂM PHẠM SỨC KHOẺ TỪ THỰC TIỄN CỦA TỈNH HẢI

DƢƠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 109

4.1. Tình hình kinh tế xã hội, trật tự an toàn xã hội tỉnh Hải Dương . 109

4.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các

tội xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Hải Dương . 111

4.3. Những vướng mắc đã được khắc phục trong Bộ luật Hình sự năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). 137

4.4. Một số kiến nghị. 139

KẾT LUẬN . 147

pdf167 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khoẻ của con người từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương - Nguyễn Huy Tài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều....134," [64, tr15]và khoản 2 Điều 14 BLHS quy định " Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều.... 134... của ộ luật này phải chịu TNHS".[ 64, tr 16]. Như vậy do các tội XPSK của con người chủ yếu là tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng nên tùy từng trường hợp quy định tại các khoản, điều luật tương ứng mà người chuẩn bị phạm tội mới phải chịu TNHS ( như tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ); và nếu phạm tội chưa đạt thì vẫn phải chịu TNHS theo quy định. TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các tội XPSK của con người cũng cũng tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, người phạm tội được miễn TNHS theo quy định tại Điều 16 BLHS. 72 2.3.7. Các trường h p loại trừ TNHS Cùng với việc quy định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì BLHS còn quy định những trường hợp hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không bị coi là tội phạm. Đó là những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải chịu trách nhiệm hình sự.Loại trừ TNHS là trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng theo quy định của BLHS thì họ không phải chịu TNHS do có một trong những căn cứ được loại trừ TNHS - chứa đựng yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của hành vi. Việc BLHS quy định về những trường hợp loại trừ TNHS nhằm mục đích: Bảo đảm ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, trường hợp nào phải chịu TNHS, trường hợp nào được loại trừ TNHS. Mặt khác, bảo đảm yêu cầu xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hơn nữa, giúp nâng cao ý thức và trách nhiệm của mỗi công dân trong xã hội để biết những việc làm nào là đúng, việc làm nào là sai, đâu là quyền, nghĩa vụ của mình, đâu là việc nên làm, đâu là việc sai trái.Trong những trường hợp đã nêu, có một số trường hợp có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được loại trừ TNHS là các hành vi có ích, được Nhà nước động viên, khuyến khích và động cơ của người thực hiện là vì bảo vệ lợi ích chung, đó là trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội... Vì vậy, đối tượng được loại trừ TNHS là người không phạm tội, có nghĩa hành vi của họ không cấu thành tội phạm do các điều kiện mà BLHS quy định, nên tương ứng người này không phải chịu TNHS trên cơ sở chung. Loại trừ TNHS hoàn toàn khác với miễn TNHS khi hành vi của người được miễn TNHS đã cấu thành tội phạm. BLHS 2015 quy định ba trường hợp được loại trừ TNHS mới bao gồm: Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ và thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Điều đó có nghĩa không chỉ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử, bảo đảm sự đồng bộ và thống nhất các quy định pháp luật các nước và pháp luật chuyên ngành; mà còn khắc phục “những nhầm lẫn 73 pháp lý” (giáp ranh giữa tội phạm và không phải là tội phạm). Qua đó nâng cao nhận thức và phát huy tinh thần chủ động và tích cực của nhân dân trong công tác phòng ngừa và chống tội phạm; khuyến khích sự sáng tạo, phát triển của mỗi nhà khoa học Như vậy theo quy định của BLHS có 07 trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: Sự kiện bất ngờ (Điều 20); tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 21); phòng vệ chính đáng (Điều 22); tình thế cấp thiết (Điều 23); gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24); rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25); thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26). Kết luận chƣơng 2 Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về TNHS của các tội XPSK của con người, có thể rút ra một số kết luận sau: 1. Quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe là một trong những quyền quan trọng, cơ bản nhất của quyền con người, là nội dung cốt lõi trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Hiến pháp và hệ thống pháp luật đã có những quy định bảo vệ quyền con người ở nhiều mức độ khác nhau. Trong quá trình lập pháp, các BLHS đã giành một chương riêng quy định về TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, trong đó các tội xâm phạm sức khỏe chiếm vị trí rất quan trọng , chỉ sau khách thể là " tính mạng" con người. Khái niệm TNHS về các tội XPSK đã được nhiều tác giả nghiên cứu, làm rõ trong các công trình khoa học, sách, tạp chí pháp lý. Tuy nhiên, những đặc điểm cơ bản về TNHS của các tội XPSK đã được tác giả luận chứng cụ thể, làm rõ hơn. 2. Một trong những nguyên tắc cơ bản của PLHS Việt Nam là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ dấu hiệu của tội phạm được quy định trong BLHS thì phải chịu TNHS. TNHS phát sinh từ khi có hành vi phạm tội và cũng từ thời điểm đó cho đến hết thời hạn đã được quy định, Nhà nước buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình được quy định trong BLHS thì phải chịu TNHS về tội XPSK con người: "TNHS đối với các tội XPSK của con người là hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải gánh chịu do đã thực 74 hiện hành vi bị coi là tội phạm XPSK của con người được thể hiện trong các biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng".TNHS đối với các tội XPSK của con người chính là hậu qủa pháp lý mà người phạm tội phải chịu khi họ có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật hình sự. 3. Nghiên cứu sâu về đặc điểm và hình thức TNHS đối với các tội XPSK con người có thể kết luận, cơ sở pháp lý của TNHS chính là CTTP chứ không phải là tội phạm nói chung được quy định tại Điều 8 BLHS. Nói cách khác, CTTP là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần và đủ của TNHS. CTTP của một tội phạm cụ thể bao gồm: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm. 4. TNHS được ghi nhận và thể hiện thông qua nhiều hình thức mà hình phạt là hình thức chủ yếu nhất, với mục đích trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện có ích cho xã hội. Các tội XPSK của con người ngày càng nghiêm trọng, tinh vi và phức tạp hơn trước, vì vậy, hình phạt đối với các tội này ngày càng phải nghiêm khắc, để đủ sức răn đe đối với người phạm tội. BLHS quy định ba loại hình phạt chính được áp dụng đối với tội XPSK con người, đó là: cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn và một hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Tùy thuộc vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội mà Nhà nước quy định các hình thức TNHS khác nhau để áp dụng đối với người phạm tội, trong đó hình thức chủ yếu được áp dụng là hình phạt đối với người phạm tội. Chỉ áp dụng hình phạt tù như một biện pháp cuối cùng khi xét thấy không còn cách nào khác là phải cách li người phạm tội ra khỏi xã hội thì mới đạt được mục đích cải tạo, giáo dục họ. Người bị truy cứu TNHS về các tội XPSK của con người sẽ phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi do Nhà nước áp dụng, hậu quả đó có thể là về vật chất hoặc tinh thần, là sự hạn chế hoặc tước bỏ các quyền của người phạm tội trong một thời hạn nhất định. Ngoài hình phạt, TNHS còn thể hiện ở hình thức miễn hình phạt, miễn TNHS, án tích. 75 Chƣơng 3 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI 3.1. Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ trƣớc năm 1945 về TNHS đối với các tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời 3.1.1. Thời kỳ Hậu Lý Thời kỳ đất nước giành độc lập từ thế kỷ thứ X, sau Ngô Quyền, Nhà Đinh (968 - 980) đã cai trị đất nước, Vua Đinh Tiên Hoàng đã thấy được sự cần thiết phải ban hành pháp luật và thực thi pháp luật trong thực tế cuộc sống trong đường lối trị nước của mình. Bản kỷ toàn thư quyền I ghi rõ: "Vua muốn lấy uy lực để bó buộc, chế ngự thiên hạ mới đặt vạc dầu lớn ở sân, nuôi hổ dữ trong hầm, ra lệnh rằng "hễ ai trái phép phải chịu tội phanh thây, xé xác", ai nấy đều nép sợ không dám phạm tội"[102] Đến thời Nhà Lý (1010 - 1225), tình hình chính trị - xã hội ổn định, nhà Lý thực hiện chính sách pháp luật gắn liền với đạo đức trong phép trị quốc an dân. Nhà Lý đã chú trọng đúng mức đến việc sử dụng pháp luật, đặt ra các luật lệ để trị nước. Từ năm 1042, Lý Thái Tông, vị vua thứ hai triều Lý đã cho biên soạn và ban hành bộ luật Hình Thư, đó là bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử pháp chế Việt Nam. Dưới triều Trần (1225 - 1400) trong thời kì đầu, do phải củng cố địa vị thống trị của dòng họ Trần, tổ chức và sắp xếp lại bộ máy Nhà nước, cũng như nhằm góp phần củng cố quyền lực nhà nước. Nhà Trần nhanh chóng ban hành nhiều văn bản pháp luật để trị nước. Năm 1230 Vua Trần Thái Tông cho soạn "Quốc triều hình luật", năm 1314, Vua Trần Dụ Tông cho biên soạn Hoàng Triều Đại Điển và bộ Hình thư để ban hành. Đến thời kì nhà Lê (1428 - 1789), xã hội phong kiến Việt Nam đi vào giai đoạn phát triển cực thịnh, đặc biệt là dưới triều vua Lê Thánh Tông, đã dùng đến pháp luật và các biện pháp cai trị cứng rắn khác nhằm biến những chính sách của mình thành hiện thực. Trong thời kì này ông đã ban hành một bộ luật nổi 76 tiếng trong hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam đó là Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật, đánh dấu một bước tiến mạnh mẽ về kỹ thuật lập pháp, trong đó có lập pháp hình sự. Bộ luật Hồng Đức được áp dụng phổ biến và chủ yếu thời Lê sơ và các triều đại sau này đến thế kỷ XVIII, gồm 06 quyển, 13 chương và 722 điều luật. Liên quan đến các tội xâm phạm sức khỏe của con người, Bộ luật Hồng Đức (hay Quốc triều Hình luật) được vua Lê Thánh Tông ban hành được coi là Bộ luật chính thống và thể hiện hoạt động lập pháp thành công nhất của triều đại nhà Lê (1428 - 1789). Chương “ ấu tụng” – một chương riêng trong 13 chương của Bộ luật này có tổng cộng là 50 điều luật (từ Điều 465 đến Điều 499), trong đó có đến 33 điều luật để quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người [103, tr.205-221]. Nội dung các điều luật đã quy định cụ thể các hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác (đánh người) với các quan hệ cụ thể như: cùng đánh nhau (Điều 472), đánh ông bà cha mẹ (Điều 475), đánh chủ nhà (Điều 480), đánh vợ, chồng (Điều 479, Điều 481, Điều 482), đánh thầy, cô (Điều 489), đánh sứ giả của nhà vua (Điều 487), đánh người thi hành công vụ (Điều 493) do lẫm lỡ làm người khác bị thương (Điều 499); v.v ; hình thức cụ thể (bằng tay, bằng gậy gộc ) và các trường hợp đồng phạm(một mình, hay với người xui) với mức độ phân hóaTNHS (cả cố ý và vô ý) và phân biệt cả với trường hợp cố ý đánh chết người (Điều 467), do chơi đùa làm bị thương hoặc chết người (Điều 498) hay do lầm lỡ người khác bị thương hay chết (Điều 499); v.v Điều này đã thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp tiến bộ về pháp luật hình sự của triều đại phong kiến, thời kỳ nhà Lê. 3.1.2. Thời kỳ Gia Long Bộ luật Gia Long đầu thế kỷ XIX (thời Nguyễn) tuy có nhiều hạn chế do mô phỏng luật hình của Triều Mãn Thanh Trung Quốc, nhưng vẫn có ý nghĩa lịch sử nhất định. Về hoạt động lập pháp, vua Gia Long cũng rất quan tâm nên đã cho biên soạn Hoàng Việt luật lệ (hay còn gọi là Bộ luật Gia Long) năm 1812 [104, tr.52]. Chương V và Chương VI quyển XV của Bộ luật với 22 điều luật, quy định cụ thể về TNHS đối với các tội XPSK của con người (đánh người) với các quan hệ cụ thể như: cùng đánh nhau (Điều 1 Chương V quyển XV), đánh người trong hoàng tộc (Điều 3 đến Điều 8), đánh quan lại, đánh ông bà cha mẹ 77 (Điều 6 Chương VI quyển XV), đánh chủ, đánh vợ, chồng (Điều 7), đánh người thi hành công vụ (Điều 9);v.v ; hình thức cụ thể (bằng tay, bằng gậy gộc ) và các trường hợp đồng phạm (một mình hay với người khác) và với mức độ phân hóa cao (cả cố ý và vô ý). Như vậy, từ việc nghiên cứu quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người thể hiện trong hai Bộ luật quan trọng và có giá trị cao (Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ) của nhà Lê và nhà Nguyễn đã nêu có thể rút ra các nhận xét sau đây: Thứ nhất, Nhà nước phong kiến Việt Nam đặc biệt quan tâm đến nhóm tội XPSK của con người, bên cạnh các giá trị cao quý như tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con người. Sự quan tâm đặc biệt này thể hiện ở riêng việc bảo vệ quyền về sức khỏe của người khác, thì số lượng các điều luật cũng như tỷ trọng các điều luật quy định về các tội XPSK của con người trên tổng số các điều luật của hai Bộ luật lớn ban hành vào triều đại nhà Lê và nhà Nguyễn. Tỷ trọng các điều luật quy định về TNHS đối với tội XPSK của con người trên tổng số điều luật của Quốc triều Hình luật là: 33/722 = 4,57%. Còn tỷ trọng các điều luật quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trên tổng số điều luật của Hoàng Việt luật lệ là: 24/398 điều = 6%. Ngoài ra, cũng lưu ý là, Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ không phải là BLHS theo cách hiểu của chúng ta ngày nay mà là hai bộ Tổng luật, thực hiện chức năng điều chỉnh của cả các ngành luật khác với phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật hình sự. Với ý nghĩa như vậy, có thể nhận định rằng các tội XPSK của con người có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật phong kiến. Thứ hai, các nhà lập pháp phong kiến đã thực hiện triệt để nguyên tắc phân hóa tội phạm và cá thể hóa hành vi phạm tội đối với nhóm tội XPSK của con người. Theo đó, sự phân hóa tội phạm thể hiện ở chỗ, luật pháp phong kiến đã phân nhỏ các trường hợp xâm phạm XPSK của con người theo nhiều tiêu chí khác nhau như hậu quả của tội phạm, chủ thể thực hiện tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm, mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng tác động của tội phạm, lỗi và hình thức lỗi Một mặt, việc phân hóa cao đội các tội XPSK của con người trong PLHS phong kiến thể hiện sự phát triển về mặt kỹ thuật lập pháp nhưng mặt khác, chính sự phân hóa này lại phản ánh ít nhiều sự bất bình đẳng của chế độ đẳng cấp, giai cấp 78 trong xã hội phong kiến trước đây. PLHS phong kiến tập trung bảo vệ người của giai cấp, tầng lớp trên theo quan niệm của giai cấp địa chủ phong kiến [93; tr.41] như: Quốc triều Hình luật quy định việc đánh sử giả nhà vua (Điều 487); quan giúp việc đánh quan trưởng (Điều 488); đánh mắng sứ giả nước ngoài (Điều 491); đánh lại quan ngục (Điều 492); đánh lại người thi hành công vụ (Điều 493); Thứ ba, quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người trong PLHS phong kiến được ghi nhận tương đối toàn diện. Các nhà làm luật đã dự liệu hầu hết các trường hợp phạm tội có thể xảy ra và đưa ra các cách xử lý đối với từng trường hợp phạm tội tương ứng (mặc dù có phần máy móc, liệt kê). Các nhà làm luật không chỉ quy định hành vi XPSK của con người trong trường hợp thông thường và còn quy định trường hợp cố ý gây thương tích nặng với từng tỷ lệ thương tật cụ thể khác nhau, trường hợp XPSK của con người do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện, trường hợp cố ý và vô ý XPSK của người khác, trường hợp XPSK của con người có yếu tố đồng phạm Điều này có tác dụng phân hóa cao và bảo đảm khi xét xử, quan lại không thể tự mình tăng nặng hay giảm nhẹ hình phạt, qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, hạn chế tiêu cực và bảo vệ quyền lợi của người bị hại. 3.1.3. Thời kỳ háp thuộc Thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau khi chúng hoàn thành việc xâm lược, Pháp đã ban hành 3 BLHS áp dụng trên ba miền Bắc- Trung- Nam. Ở Bắc Kỳ, chính quyền thuộc địa ban hành Hình luật An Nam, ở Trung Kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt hình luật, ở Nam Kỳ áp dụng Hình luật pháp tu. Thời kỳ dưới sự đô hộ của Pháp, một trong những cái nôi của cách mạng tư sản và có nền công nghiệp phát triển, nền pháp lý tư sản phát triển thì nền pháp lý Việt Nam lúc này lâm vào thế yếu, chịu sự tác động mang tính áp chế của Pháp. Sự trao đổi và tiếp biến văn hoá tư pháp (thực ra là xâm thực văn hóa pháp lý) giữa phương Đông và phương Tâyđã diễn ra. Dưới ảnh hưởng của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa pháp lý Đông-Tây, PLHS nước ta đã có những thay đổi sâu sắc trên cả ba phương diện: tính chất, nội dung và hình thức. 79 3.2. Pháp luật hình sự Viện Nam thời kỳ từ năm 1945 đến nay về TNHS đối với các tội XPSK của con ngƣời 3.2.1. Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ Luật hình sự năm 1985 Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ mới được thành lập phải đối mặt với những khó khăn vật chất. Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp tội phạm bằng các sắc lệnh trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, do tình hình cách mạng lúc đó muôn vàn khó khăn nên không thể một sớm một chiều hình thành được hệ thống pháp luật của Nhà nước dân chủ nhân dân. Với quan điểm lịch sử cụ thể, Nhà nước đã chập nhận sử dụng luật lệ của chế độ cũ. Để có cơ sở pháp lý cho việc xét xử, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày 10-10-1945 với nội dung là cho đến khi ban hành được những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa.Các quy định này được áp dụng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954 để xử lý các hành vi phạm tội XPSK của con người. Trong đó, Bộ "Luật Hình An Nam" ban bố tại Bắc bộ Dụ ngày 25/ 8/1921 và nghị định của nguyên Toàn quyền Đông Dương ngày 2/12 /1921 cùng những Dụ và nghị định sửa đổi bộ luật ấy sẽ thi hành trong toàn cõi Bắc bộ kể cả Hà Nội và Hải Phòng; Bộ "Hoàng Việt Hình Luật" ban bố tại Trung bộ do Dụ ngày 3/7/1933 và nghị định của nguyên Toàn quyền Đông Dương ngày 4/7/1933 cũng những Dụ và nghị định sửa đổi Bộ luật ấy sẽ thi hành trong toàn cõi Trung bộ kể cả Đà Nẵng; Bộ hình luật pháp tu chỉnh do sắc lệnh ngày 31/12/1912 cùng những sắc lệnh sửa đổi sắc lệnh ấy vẫn thi hành ở Nam bộ. Sau khi miền Bắc giải phóng ( năm 1954), PLHS dần dần được bổ sung. Các tội XPSK của con người được quy định tại Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ chính thức quy định tội cố ý gây thương tích . Cụ thể là, tại điểm 3 của thông tư có quy định: “đánh bị thương phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm”; “đánh bị thương có tổ chức hay gây thành cố tật, hay gây chết 80 người có thể phạt đến 20 năm. Quy định trên được áp dụng ở miền Bắc từ năm 1955 đến năm 1976. Thông tư đã đưa ra được ba tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, đó là “có tổ chức”, “gây thành cố tật” hoặc “gây chết người”. Điều này thể hiện bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta. Tuy nhiên, thông tư này chưa đưa ra được khái niệm “đánh bị thương”, cũng như chưa làm rõ được trường hợp đánh bị thương dẫn đến chết người với trường hợp giết người. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, để đảm bảo an ninh trật tự và đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt với 7 loại tội phạm, trong đó có quy định về các tội XPSK của con người. Cũng trong giai đoạn này, thông qua tổng kết công tác hàng năm và tổng kết chuyên đề về các nhóm tội, TAND tối cao đã hướng dẫn pháp luật cho các TAND các cấp trong cả nước như Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá phòng vệ chính đáng. 3.2.2. Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người trong Bộ luật Hình sự năm 1985 Ngày 27/6/1985, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII kỳ họp thứ 9 thông qua BLHS Việt Nam đầu tiên, đặt dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện quy phạm pháp luật về hình sự nói chung và quy phạm pháp luật về các tội XPSK của con người nói riêng. Có thể khẳng định, mang tính hệ thống hóa, pháp điển hóa sau sắc, BLHS 1985 ra đời là một thành tựu lớn của trí tuệ lập pháp hình sự nước ta, đã có tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần tích cực vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.[60,tr6] Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đã được quy định tại Chương II ngay sau chương các tội xâm phạm an 81 ninh quốc gia. Điều này, một lần nữa lại minh chứng cho sự coi trọng của Nhà nước ta đối với quyền được bảo hộ về sức khỏe của công dân. Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người gồm 03 điều, gồm các tội: Tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 103);tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác (Điều 109), tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác (Điều 110 ). Hình phạt và trong mỗi khung thì có mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, trong đó, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là 20 năm tù. Với việc quy định TNHS đối với các tội XPSK của con người tại Chương II của BLHS năm 1985 cho thấy đây là điểm mới trong chính sách hình sự của Nhà nước ta về các tội này. So sánh với các quyền hiến định khác của con người thì quyền được bảo hộ về sức khỏe là một trong những quyền thiết thân của con người nên các những hành vi nguy hiểm xâm phạm đến các quyền này có tính nguy hiểm cao cho xã hội. Chính vì vậy, BLHS năm 1985 đã đặt các tội XPSK ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia và trước các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa. Để thi hành BLHS năm 1985, các cơ quan tư pháp Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn như Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 02/11/1985 của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ nội vụ Hướng dẫn thi hành một số quy định của BLHS. TAND tối cao đã ban hành các nghị quyết hướng dẫn áp dụng, thực hiện một số quy định, điều của BLHS như: Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS, Công văn số 03/TATC ngày 22/10/1987 hướng dẫn Điều 109 BLHS và Nghị quyết số 01/1989/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của BLHS. Tuy nhiên, BLHS 1985 ra đời trong bối cảnh điều kiện đất nước có những đặc trưng là cần bảo vệ nền kinh tế bao cấp, vì thế, từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới đã dần biểu hiện những bất cập, hạn chế và đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần (tháng12/1989, tháng 8/1991, tháng 12/1992 và tháng 5/1997). Tuy nhiên, 82 cả 4 lần sửa đổi đều tập trung vào việc đảm bảo chặt chẽ hơn các quy định về định tội và hình phạt. Các quy định về TNHS đối với tội XPSK của con người được sửa đổi, bổ sung hai lần gồm: Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất ngày 28/12/1989 về tội cố ý gây thương tích (Điều 109), tại khoản 2 Điều 109 quy định ba trường hợp phạm tội là các tình tiết tăng nặng TNHS là: a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; c) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm. Luật bổ sung thêm một trường hợp tăng nặng TNHS là: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người. Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người được sửa đổi, bổ sung lần thứ hai ngày 12/8/1991 đã sửa đổ, bổ sung tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 103 ), cụ thể là tại Khoản 1: Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do sử dụng vũ khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép.... (cụm từ “ sử dụng vũ khí“ được thay thế bằng cụm từ “ dùng vũ lực“). “ Phạm tội làm chết nhiều người “, được sửa đổi, bổ sung là “ Phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp nghiêm trọng khác“. Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm giải quyết các trường hợp xảy ra trong thực tiễn làm chết nhiều người, làm bị thương nhiều người, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước do hành vi phạm tội gây ra. BLHS năm 1985 ra đời là bước ngoặc pháp lý quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm, đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và công tác đấu tranh phòng, chống tội. 3.2.3. Các quy định về TNHS đối với các tội X SK của con người trong Bộ luật Hình sự năm 1999. BLHS năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là BLHS của thời kỳ đổi m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_trach_nhiem_hinh_su_doi_voi_cac_toi_xam_pham_suc_kho.pdf
Tài liệu liên quan