Luận văn Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU 6

1. Lý do lựa chọn đề tài 6

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 8

2.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên thế giới 8

2.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài tại Việt Nam 10

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 12

3.1. Mục đích nghiên cứu 12

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 12

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 13

4.1. Đối tượng nghiên cứu 13

4.2. Phạm vi nghiên cứu 13

5. Phương pháp nghiên cứu 14

5.1. Cơ sở lý luận 14

Luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận: 14

5.2. Phương pháp cụ thể 14

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 16

6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài 16

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 17

7. Kết cấu của luận văn 17

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 18

1.1. Một số khái niệm công cụ liên quan đến luận văn 18

1.1.1. Khái niệm báo điện tử 18

1.1.2. Khái niệm giới trẻ 19

1.1.3. Khái niệm lối sống 22

pdf32 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 2626 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nhà nghiên cứu, các phóng viên, BTV Trước hết, về mặt lý luận và những vấn đề cơ bản của báo điện tử như: sự ra đời và phát triển của báo điện tử, khái niệm và đặc trưng của báo điện tử, phương thức sáng tạo tác phẩm báo điện tử phải kể đến các cuốn sách tiêu biểu như:“Báo mạng điện tử những vấn đề cơ bản” – TS. Nguyễn Thị Trường Giang chủ biên (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội – 2011); “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo” – TS. Nguyễn Thị Trường Giang chủ biên (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội – 2011); “Báo mạng điện tử - Đặc trưng và phương pháp sáng tạo” – TS. Nguyễn Trí Nhiệm, TS. Nguyễn Thị Trường Giang đồng chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2014); “Các thủ thuật làm báo điện tử” do Vũ Kim Hải, Đinh Thuận biên soạn. Trong cuốn sách “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện đại” – TS Nguyễn Thành Lợi, Nxb Thông tin và Truyền thông, tháng 06/2014 đã giới thiệu những nét khái quát nhất về các vấn đề khá mới mẻ đang được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới nhiều năm – nhiều thập kỷ qua như: truyền thông xã hội, các lý thuyết về truyền thông, hội tụ truyền thông, xu hướng tòa soạn báo hội tụ và những kỹ năng cần thiết trong viết báo đa phương tiện. Cuốn sách đã khẳng định tầm quan trọng của internet và các thiết bị truyền thông hiện đại đối với báo chí. Trong cuốn “Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa xã hội ở Việt Nam” – Bùi Hoài Sơn, Nxb Khoa học Xã hội năm 2008 đã khẳng định: “Dù biết rằng, công nghệ luôn luôn là công nghệ, nó không hoàn toàn tốt cũng không hoàn toàn xấu, mà chỉ giúp con người trở nên thuận tiện hơn trong cuộc sống hàng ngày, tuy nhiên, các phương tiện truyền thông mới đã khiến nhân loại lo lắng về một khả năng con người trở thành nạn nhân của máy móc”. Hay trong cuốn “Ảnh hưởng của internet đối với hành vi của thanh niên Hà Nội”, Nxb Khoa học Xã hội (2006), tác giả trên có viết: “Trên thực tế, đối với bất kỳ một công nghệ mới nào, bản chất của công nghệ đều mang tính trung tính. Việc con người sử dụng nó trong những hoàn cảnh cụ thể và vì những mục đích cụ thể sẽ quyết định nó có lợi hay có hại đối với bản thân người sử dụng hay lợi ích của toàn bộ xã hội”. Tuy nhiên, cả hai tài liệu nghiên cứu này mới chỉ đề cập tới sự ảnh hưởng của mạng internet mà vẫn chưa nói tới báo điện tử hay báo chí đối với lối sống của giới trẻ. Trong các đề tài nghiên cứu khóa luận, luận văn và luận án tiến sĩ tại Khoa Báo chí và Truyền thông – Đại học KHXH&NV cũng đã đề cập tới sự ảnh hưởng của báo chí đối với giới trẻ ở Việt Nam. Cụ thể: “Báo chí với quá trình hình thành nhân cách của học sinh - sinh viên” (Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Lại Thị Hải Bình, năm 2006) có chỉ ra rằng, báo chí với chức năng và vai trò định hướng dư luận xã hội đã có sự tác động tới quá trình hình thành nhân cách của học sinh – sinh viên, nhất là đối với các loại hình báo chí hiện đại. “Báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên” (Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Trương Thị Tuyên, năm 2008) đã trình bày cơ sở lý luận của báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên, mối quan hệ giữa báo chí và sinh viên. Tìm hiểu thực trạng báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên qua hệ thống báo chí cho sinh viên; nội dung chuyển tải và hình thức thể hiện của của hệ thống báo chí cho sinh viên. “Công chúng thế hệ Net với các phương tiện truyền thông đại chúng” (Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Hoàng Thị Thu Hà, năm 2011) đã chỉ ra được sự ảnh hưởng của các PTTT hiện đại đối với thế hệ trẻ, những người có khả năng tiếp thu công nghệ nhanh chóng. Tuy nhiên, trong các đề tài trên, báo điện tử đóng vai trò như một trong những PTTT nên luận văn không chỉ ra chi tiết, cũng không có những thông tin mang tính chất nghiên cứu chuyên về loại hình này đối với giới trẻ hiện nay. Tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng, trong đó cũng có nói tới sự ảnh hưởng của chúng đối với người trẻ. Đơn cử: “Thực trạng tiếp nhận báo mạng điện tử của học sinh phổ thông trung học ở nội thành Hà Nội hiện nay” – Luận văn Thạc sĩ của Phạm Duy Đức, năm 2013; “Báo mạng điện tử đối với việc phát triển hỗ trợ kỹ năng mềm cho sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh” – Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Minh Châu, năm 2014; “Tương tác giữa tòa soạn và công chúng báo mạng điện tử (Khảo sát báo Vietnamnet.vn, VnExpress.net và Tuoitre.com.vn từ 01/2006 đến 01/2011) – Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Hoàng Quỳnh Hương Tuy có đề cập tới các vấn đề cơ bản nhất của báo điện tử và giới trẻ nhưng những luận văn này chưa tập trung đề cập tới sự ảnh hưởng của loại hình này tới lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Trong khả năng giới hạn của mình, tác giả luận văn đã cố gắng đọc và tìm hiểu về các tài liệu nghiên cứu trên, coi đó là những kiến thức bổ sung để làm sáng tỏ những ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu của luận văn hướng tới làm sáng tỏ các lý thuyết về báo điện tử, nêu bật lên mối quan hệ của loại hình báo chí này đối với lối sống của giới trẻ đặt dưới góc độ báo chí. Trên cơ sở khảo sát các tờ báo điện tử: (để ngắn gọn, tác giả sẽ gọi tên các báo điện tử trên lần lượt là: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online) trong thời gian 6 tháng, luận văn sẽ chỉ ra thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay; đánh giá về vai trò và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ảnh hưởng của báo điện tử đối với giới trẻ. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn đã thực hiện những nhiệm vụ như sau: - Làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận liên quan đến đề tài như: khái niệm về báo điện tử, khái niệm về ảnh hưởng, khái niệm về giới trẻ, khái niệm về lối sống; nội dung về sự ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ; đồng thời phân tích những ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện nay. - Khảo sát thực trạng sử dụng và ảnh hưởng của thông tin trên các tờ báo điện tử: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online. Từ đó đưa ra những nhận xét, phân tích, đánh giá về ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. - Thông qua kết quả khảo sát thực tế và những nghiên cứu chuyên sâu, luận văn sẽ đề xuất những giải pháp cho tòa soạn báo điện tử nhằm nâng cao chất lượng thông tin, nâng cao mức ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện nay, góp phần vào việc định hướng lối sống tích cực cho giới trẻ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu chính là những tác động tích cực và tiêu cực của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt không gian: Tác giả tiến hành khảo sát nội dung tin, bài và phản hồi trên các tờ báo điện tử: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online. Lý do tác giả luận văn lựa chọn các báo này là bởi: Đối với ba trang báo VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet đều là những báo điện tử lớn, chính thống, có lượng độc giả đông đảo bao gồm cả độc giả trẻ ở cả trong nước và nước ngoài. Đây cũng là những báo có hàm lượng thông tin cao, thông tin có tính xác thực, uy tín và đáng tin cậy. Đối với các báo Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online, luận văn tiến hành khảo sát là bởi đây là hai phiên bản điện tử hoàn hảo, tin cậy của báo in Tuổi Trẻ và Thanh Niên. Cả hai báo đều có cơ quan chủ quản lần lượt là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, cơ quan có liên quan trực tiếp đến người trẻ. Như vậy, với sự lựa chọn gồm cả báo điện tử chính thống, phiên bản điện tử hoàn hảo của báo in, luận văn đã có sự đa dạng trong việc lựa chọn đối tượng khảo sát. - Về mặt thời gian: Luận văn tiến hành khảo sát trên các báo điện tử VnExpress, Vietnamnet, Dân Trí, Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online từ 01/01/2016 – 30/06/2016. Dù thời gian khảo sát không dài nhưng với số lượng tin bài thường xuyên cập nhật lớn cũng giúp cho người thực hiện luận văn có cái nhìn toàn diện về sự tác động của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Tác giả cũng tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi với những bạn trẻ có độ tuổi từ 15 – 28 tuổi, làm việc ở các lĩnh vực khác nhau như: học sinh – sinh viên, kinh doanh – buôn bán, nhân viên văn phòng, để làm rõ sự khác biệt trong sở thích tiếp cận thông tin, nhận thức, hành vi của họ sau khi tiếp nhận thông tin. Từ đó đi sâu vào nghiên cứu sự tác động của báo điện tử đối với giới trẻ. Trong khả năng giới hạn của mình, cũng như điều kiện thời gian và kinh phí không cho phép, tác giả tập trung khảo sát giới trẻ sinh sống chủ yếu ở thành phố lớn là Hà Nội. Sở dĩ như vậy là bởi, đây là thành phố hiện đại và phát triển bậc nhất cả nước, tập trung đông đảo lực lượng lao động đến từ nhiều tỉnh thành. Đây cũng được coi là cái nôi của văn hóa, có nhịp sống sôi động, trẻ trung và thường xuyên đổi mới. Mặc dù công nghệ và internet giờ đã trở nên phổ biến, cập nhật đến từng ngõ nhỏ nhưng để tiếp cận được với báo điện tử thường xuyên, liên tục thì đòi hỏi độc giả phải có trình độ nhất định và biết về công nghệ thông tin. Do đó, những người trẻ tuổi sinh sống và làm việc tại các thành phố lớn sẽ đáp ứng được tiêu chí này nhiều hơn so với những người trẻ ở khu vực khác. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận: - Nền tảng lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí, truyền thông. - Lý luận báo chí, lý luận truyền thông. 5.2. Phương pháp cụ thể - Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phân tích thông tin từ nguồn tài liệu sẵn có (bao gồm các cuốn sách, tài liệu tham khảo; sử dụng các nguồn tài liệu do tòa soạn báo cung cấp. Vận dụng để khái quát hóa và lý thuyết hóa các vấn đề đơn lẻ khảo sát được. - Phương pháp phân tích nội dung văn bản trong nghiên cứu báo chí – truyền thông: Luận văn xem xét có hệ thống các tài liệu dưới dạng văn bản viết như: các quy định, Nghị định, Thông tư, kế hoạch, báo cáo để lấy thông tin và số liệu cho quá trình viết luận văn. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích nội dung tin, bài trên các báo điện tử khảo sát: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online. Dựa vào kết quả thu được, tác giả đã tiến hành phân tích, đánh giá, tổng kết những kết quả nghiên cứu, từ đó đưa ra những luận cứ, luận điểm giúp hoàn thiện vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo tòa soạn, phóng viên chuyên phụ trách chuyên mục dành cho giới trẻ của một số báo điện tử, chuyên gia văn hóa, học sinh THPT về thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. - Phương pháp định lượng: Thông qua việc lập bảng hỏi và khảo sát đối tượng là giới trẻ về việc đọc báo điện tử hàng ngày, về cách thức tiếp cận và xử lý thông tin của giới trẻ trên báo điện tử. Từ đó, đề tài xác định được phương hướng giải quyết các vấn đề nghiên cứu. 5.3. Khung phân tích luận văn Từ những phương pháp nghiên cứu như trên, tác giả luận văn đã tự xây dựng cho mình một khung phân tích luận văn theo mô hình như sau: Theo khung phân tích này, báo điện tử đóng vai trò là nơi tạo ra thông tin (nguồn) về các lĩnh vực trong cuộc sống. Những thông tin này tiếp cận với giới trẻ thông qua các PTTT đại chúng, giới trẻ cũng tiếp cận thông tin trên báo điện tử dưới nhiều hình thức khác nhau và cũng xử lý thông tin theo cách riêng của mình. Những thông tin trên báo điện tử, gián tiếp hoặc trực tiếp tác động đến nhận thức của giới trẻ. Chính những nhận thức này là yếu tố tạo nên lối sống cho giới trẻ, được thể hiện qua: Cách thức tiếp nhận thông tin, cách thức thể hiện bản thân, cách thức học tập và làm việc, cách thức giải trí và thói quen sinh hoạt hàng ngày. Khung phân tích luận văn là cái nhìn tổng quan nhất về sự ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ. Khung phân tích này sẽ được diễn giải chi tiết trong các chương của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài Đề tài làm rõ những khái niệm và vấn đề lý luận liên quan đến việc sự ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đề tài cũng góp phần đưa ra những giải pháp, cách thức cụ thể nhằm nâng cao sự ảnh hưởng tích cực của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Về măṭ thưc̣ tiêñ , luận văn đem đến cái nhìn sơ lươc̣ về th ực trạng ảnh hưởng của báo điện tử bao gồm cả ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Từ đó, những người làm báo điện tử, đặc biệt là những phóng viên, BTV chuyên về những chuyên mục dành cho giới trẻ sẽ thấy được ưu và nhược điểm của những thông tin khi đưa lên báo. Luận văn cũng đưa ra những giải pháp cụ thể trong việc truyền tải, tiếp nhận và quản lý thông tin trên báo điện tử nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau. Ngoài ra, luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ cho sinh viên báo chí, đặc biệt là sinh viên chuyên ngành báo điện tử; phóng viên, BTV báo điện tử và những người quan tâm tới lĩnh vực này. Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ hữu ích đối với những cơ quan báo điện tử muốn tham khảo về sự ảnh hưởng của thông tin trên báo điện tử tới công chúng của mình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục thì luận văn gồm có 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về báo điện tử ở Việt Nam Chƣơng 2: Thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay Chƣơng 3: Xu hướng phát triển và giải pháp phát huy vai trò tích cực của báo điện tử trong việc xây dựng lối sống của giới trẻ hiện nay CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 1.1. Một số khái niệm công cụ liên quan đến luận văn 1.1.1. Khái niệm báo điện tử Báo điện tử là một loại hình báo chí ra đời muộn hơn báo in, phát thanh và truyền hình. Trước đây, khi một sự kiện xảy ra thì “phát thanh đưa tin, truyền hình minh họa, báo in phân tích và giải thích”. Nhưng giờ đây, báo điện tử có thể đảm đương nhiệm vụ của cả phát thanh, truyền hình lẫn báo in một cách dễ dàng. Bản thân nó mang trong mình sức mạnh của PTTT đại chúng truyền thống, cùng kết hợp với mạng internet nên có nhiều ưu điểm vượt trội, trở thành kênh truyền thông vô cùng hiệu quả, đặt các PTTT đại chúng vào cuộc đua quyết liệt. Báo điện tử có ưu thế ở khả năng tương tác qua lại giữa tờ báo và công chúng, giữa công chúng với công chúng, tạo điều kiện thuận lợi thiết lập các diễn đàn báo chí; báo điện tử còn có ưu thế về khả năng đa phương tiện, tính thời sự, khả năng lưu giữ, tìm kiếm và truy xuất thông tin nhanh chóng, dễ dàng. Sự ra đời và phát triển của internet đã tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của báo điện tử. Được ra đời vào những năm 90 của thế kỷ XX, từ tờ điện tử đầu tiên là Chicago Tribune ra đời vào tháng 5/1992 báo điện tử đã có sự phát triển một cách chóng mặt khi chỉ 8 năm sau đó (đầu năm 2000) trên thế giới đã thống kê được con số lên tới 8.474 tờ báo điện tử. Bắt đầu từ năm 2000 trở đi, các hãng thông tấn lớn trên thế giới như: AFP, Reuter các đài truyền hình như: CNN, NBC các tờ báo như New York Times, Washington Post... đều có tờ báo điện tử của mình và coi đó là phương tiện để phát triển thêm công chúng báo chí. Tại Việt Nam, chỉ một tháng sau khi Việt Nam nối mạng internet, ngày 31/12/1997, tạp chí Quê hương có địa chỉ: đã trở thành tờ báo điện tử đầu tiên ở nước ta. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đánh dấu sự ra đời của báo điện tử tại Việt Nam, từ đó đến nay, số lượng báo điện tử tại nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ. Trên thế giới và ở Việt Nam đang tồn tại rất nhiều cách gọi khác nhau đối với loại hình báo chí này: Báo điện tử (Electronic Journal), báo trực tuyến (Online Newspaper), báo mạng (Cyber Newspaper), báo chí internet (Internet Newspaper) và báo mạng điện tử. Báo điện tử là khái niệm thông dụng nhất hiện nay, nó gắn liền với tên gọi của nhiều tờ báo điện tử thuộc cơ quan báo in như: Quê Hương điện tử, Nhân Dân điện tử, Lao Động điện tử... Ngay trong các văn bản pháp quy của Nhà nước cũng sử dụng thuật ngữ “báo điện tử”. Trong nghị định 55/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001 của Chính phủ về Quản lý và cung cấp dịch vụ internet, ở Điều 12 có ghi: Dịch vụ thông tin trên internet là một loại hình dịch vụ ứng dụng internet, bao gồm dịch vụ phát hành báo chí (báo in, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên internet và dịch vụ cung cấp các loại hình điện tử khác trên internet. Trong Điều 3, Chương 1 của Luật số 12/1999/QH10 ngày 12/06/1999 về Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/12/1989 cũng có ghi thuật ngữ “báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài” để chỉ loại hình báo chí này. Báo điện tử là loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức một trang web và phát hành dựa trên nền tảng internet. Báo điện tử được xuất bản bởi tòa soạn điện tử, còn người đọc báo dựa trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng... có kết nối internet. Khác với báo in, tin tức trên báo điện tử được cập nhật thường xuyên, tin ngắn và thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Nó cũng khác so với trang thông tin điện tử về tần suất cập nhật. Báo điện tử cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh chóng không phụ thuộc vào không gian và thời gian, sự phát triển của báo điện tử đã làm thay đổi thói quen đọc tin và ít nhiều có ảnh hưởng đến việc phát triển báo giấy truyền thống. Trong phạm vi giới hạn của đề tài cũng như khả năng của tác giả, luận văn sử dụng khái niệm báo điện tử được dẫn theo khái niệm của TS. Nguyễn Thị Trường Giang (Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản): “Báo điện tử là một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức của một trang web và phát hành trên mạng internet” [7, tr. 53]. 1.1.2. Khái niệm giới trẻ Giới trẻ Việt Nam hiện nay đã và đang nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Họ là những người sẽ kế cận và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, ở bất cứ thời đại nào, giới trẻ - thanh niên cũng là lực lượng “đứng mũi chịu sào” trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do có những nét đặc thù về tâm sinh lý nên giới trẻ được coi là lực lượng nhạy cảm và năng động trong xã hội hiện đại. Tuổi trẻ chính là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời với mong muốn được cống hiến, sáng tạo nhưng cũng là lúc dễ bị lôi kéo và cám dỗ nhất. “Giới trẻ” là cụm từ không hề mới mẻ và xa lạ. Tùy thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu mà có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau về giới trẻ. Về phương diện sinh học: Người trẻ là người nằm trong lứa độ trẻ, từ thiếu niên (dưới 15 tuổi) đến tuổi bầu cử (trên 18 tuổi). Giới trẻ là một cộng đồng gồm những người trẻ. Về phương diện văn hóa, xã hội: Giới trẻ là những người mà nhận thức không còn ấu trĩ con trẻ nữa nhưng cũng chưa đủ chín muồi của một người trưởng thành, chín muồi về mọi phương diện. Người trẻ là người đang trong phát triển, hoàn thiện để có một nhận thức viên mãn và tương thích với đại đa số trong cộng đồng. Trong Từ điển Di sản Hoa Kỳ và Bách khoa toàn thư Britannica cũng đã đưa ra định nghĩa, người trẻ là người nằm trong độ tuổi chuyển giao phát triển sinh lý và tâm lý, thể chất và tinh thần, tiến trình diễn ra giữa thời kỳ thiếu niên và người trưởng thành (người lớn). Quá trình chuyển giao này liên quan đến thay đổi về phương diện sinh học (ví dụ như dậy thì), xã hội và tâm lý, trong đó những thay đổi về sinh lý và tâm lý thường dễ nhận thấy hơn. Từ điển Oxford lại giải thích, thời điểm kết thúc độ tuổi “trẻ” và bắt đầu trở thành “người lớn” được quy ước ở mỗi nước một khác thậm chí khác nhau ở ngay trong một quốc gia, căn cứ vào các quyền công dân và quyền con người. Cách xác định một người còn “trẻ” hay “trưởng thành” thông qua việc xác định đủ tuổi cho một quyền gì đó cụ thể chẳng hạn như có chứng minh thư nhân dân, có bằng lái xe, có quyền quan hệ tình dục, nhập ngũ, bầu cử, hay lập gia đình. Theo UNESCO (phương diện văn hoá - xã hội), “người trẻ” nên được hiểu là những người thuộc giai đoạn chuyển giao từ sự phụ thuộc của trẻ em đến sự độc lập của người lớn và nhận thức về sự tương thuộc (phụ thuộc lẫn nhau) giữa các thành viên trong một cộng đồng. Người trẻ hay tuổi trẻ là một phạm trù tương đối, linh hoạt hơn là chiếu theo độ tuổi cố định. UNESCO không có một độ tuổi cố định để xác định “giới trẻ” mà tuỳ vào bối cảnh, lĩnh vực và phạm vi. Trong khi Hiến chương Thanh niên châu Phi (AYC) cho rằng “người trẻ” là những người thuộc độ tuổi từ 15 đến 35 thì Liên Hợp Quốc (UN) xác định “giới trẻ” là những người thuộc độ tuổi từ 15 - 24. Tất cả các báo cáo, thống kê của Liên Hợp Quốc đều căn cứ vào định nghĩa này, chẳng hạn như sách trắng của Liên Hợp Quốc về dân số, giáo dục, việc làm và y tế. Theo điều I, Luật Thanh niên quy định: Thanh niên là công dân Việt Nam đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi [32, tr. 1]. Theo từ điển tiếng Việt “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành” [29, tr. 1029]. Khái niệm này bao hàm: Thanh niên là người có độ tuổi còn trẻ và độ tuổi đó đang trưởng thành. Khái niệm này hoàn toàn được hiểu theo lứa tuổi. Trong cuốn sách Quản lý Nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ mới, đồng chí Vũ Trọng Kim đã đưa ra khái niệm thanh niên như sau: “Thanh niên là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù bao gồm những người trong một độ tuổi nhất định, có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, có vai trò lớn trong hiện tại và giữ vai trò quyết định sự phát triển trong tương lai của xã hội” [30, tr. 14]. Từ những khái niệm trên, trong phạm vi khả năng của mình, tác giả luận văn đưa ra khái niệm về giới trẻ như sau: Giới trẻ là những người ở độ tuổi từ 16 – 30 tuổi, có những đặc điểm tâm sinh lý khác biệt, có tâm tư, nguyện vọng và hoài bão theo lứa tuổi và theo giới tính. Giới trẻ Việt Nam có mặt trên khắp đất nước, trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, thuộc các ngành nghề khác nhau như: học sinh – sinh viên, lực lượng vũ trang, công nhân, nông dân, văn nghệ sĩ Giới trẻ Việt Nam là những người có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội và đất nước. Với đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay”, trong khả năng giới hạn của mình, tác giả luận văn muốn đề cập tới “giới trẻ” là những bạn trẻ công dân Việt Nam, có độ tuổi từ 16 – 28 tuổi. Vậy giới trẻ có đặc điểm tâm sinh lý và thể chất nhƣ thế nào? Trong cuốn “PR – công cụ phát triển của báo chí” (Nxb Trẻ), PGS. TS Đỗ Thị Thu Hằng đã nhận định: “Ở độ tuổi này cho phép thanh niên có thể đảm nhận được mọi công việc trong hoạt động học tập, lao động và giao tiếp xã hội... Tuy nhiên, với độ tuổi trên dưới 20, do sự hưng phấn cường độ cao của hệ thần kinh cộng với sức mạnh thể chất đang trên đà phát triển nên thanh niên độ tuổi này còn có biểu hiện hưng phấn nhiều hơn ức chế, dẫn đến đặc điểm tâm lý sôi nổi, nhiệt tình nhưng có pha chút bồng bột, dễ bắt chước, dễ kích động và dễ ngộ nhận... Nhân cách của thanh niên đang trong giai đoạn hoàn thiện và định hình, rõ nét nhất là hệ thống thái độ và định hướng giá trị, từ đó hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, niềm tin và lý tưởng. Tình cảm, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của thanh niên có bước chuyển biến mới. So với tuổi thiếu niên, nhận thức chính trị - xã hội của thanh niên, sự định hình và hoàn thiện các thuộc tính nhân cách diễn ra với tốc độ nhanh, cường độ mạnh, cùng với sự tác động của cảm xúc có phân cực rõ ràng. Khả năng chịu sự tác động của bên ngoài một cách nhanh nhạy, có thẩm định và tự điều chỉnh, khả năng thích ứng xã hội cao, nếu có hướng dẫn đúng” [14, tr. 209]. Với những đặc điểm tâm sinh lý đang trong giai đoạn hình và phát triển, giới trẻ đang đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức. Bởi vậy, việc chăm lo giáo dục đạo đức, tư tưởng và lối sống cho giới trẻ là vô cùng cấp thiết, cần được chú trọng quan tâm. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004677_6486_2003232.pdf
Tài liệu liên quan