Luận văn Ảnh hưởng của điều kiện lao động tới sức khoẻ của công nhân lao động nữ trong ngành chế biến thuỷ sản

MỤC LỤC

Trang

LỜI CẢM ƠN 1

PHẦN I: MỞ ĐẦU 2

I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 2

1. Lý do chọn đề tài 2

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 3

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4

5. Giả thuyết nghiên cứu 5

6 . Khung lý thuyết 5

PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH 7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 7

1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 7

2. Những khái niệm công cụ 9

2.1 Điều kiện lao động 9

2.2. Môi trường lao động 10

2.3. Sức khoẻ 10

2.4.Công nhân 10

2.5. Bệnh nghề nghiệp . 10

2.6. Quan hệ xã hội 11

3. Lý thuyết liên quan . 11

Xã hội học lao động 11

CHƯƠNG 2 : ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG TƠÍ SỨC KHOẺ NỮ

CÔNG NHÂN NGÀNH CHẾ BIẾN THUỶ SẢN 12

1. Vài nét về ngành thuỷ sản 12

2. Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của nhà máy 13

3. Điều kiện lao động sản xuất ngành chế biến thuỷ sản 14

3.1 Môi trường lao động 14

3.2. Kỹ thuật công nghệ máy móc 20

3.3. Bảo hộ lao động 22

3.4. Chính sách xã hội 22

3.4.1. Chính sách tiền lương thu nhập 23

3.4.2. Chế độ bảo hiển xã hội 24

3.4.3. Chính sách bảo hộ lao động 25

3.4.4. Chế độ phụ cấp độc hại 25

3.5. Ảnh hưởng của các yếu tố điều kiện lao động tới sức khoẻ nữ

công nhân 26

3.5.1.Tình hình sức khoẻ người lao động 26

3.5.2 Mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp với sức khoẻ CNLĐ 32

3.5.3. Tính chất công việc tác động trực tiếp đến sức khoẻ

công nhân 36

PHẦN III .KẾT LUẬN 37

1. Kết luận 37

2.Giải pháp 38

3. Kiến nghị 39

3.1 Đối với nhà nước 39

3.2. Đối với Ban giám đốc công ty 40

3.3. Đối với người lao động 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

 

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3509 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của điều kiện lao động tới sức khoẻ của công nhân lao động nữ trong ngành chế biến thuỷ sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n phải làm việc điều khiển các thiết bị công nghệ nhập từ nước ngoài hoặc bàn ghế làm việc không được thiết kế phù hợp vừa gây bất tiện, mỏi mệt, vừa tạo yếu tố nguy hiểm mới tại vị trí làm việc. Bên cạnh những đặc điểm của điều kiện lao động ở tư thế đứng kéo dài thì đặc điểm công việc phải tiếp xúc trực tiếp, liên tục với nước đá, nước lạnh, với sản phẩm được bảo quản ở nghiệt độ thấp hoặc phải làm việc trong các kho đông lạnh từ -18°C đến - 40°C là một điều kiện rất khắc nghiệt, tuy đã được trang bị quần áo lao động và có sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân như mũ, găng tay, ủng, tạp dề chống nước hay quần áo, mũ bông nhưng điều đó không thể giúp họ tránh được những ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ…Người công nhân lao động thường làm việc trong môi trường nhiệt độ thấp, lượng đá cây được sản xuất ra phục vụ chủ yếu cho bảo quản và chế biến sản phẩm thuỷ sản chiếm gần 90% lượng đá cây sản xuất của cả nước. Theo số liệu nghiên cứu của Viện Y học lao động- Viện khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao động- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (năm 1997-2000) (INT/95 M10/DAN) cho thấy việc khảo sát đo đạc tại trên 90% vị trí đo đạc điều kiện lao động không thuận lợi có độ ẩm cao, 92% các điểm đi lại dễ trơn trượt, trên60% vị trí làm việc là môi trường có hoá chất ăn mòn, trên 1/3 nơi làm việc công nhân phải tiếp xúc với môi trường có tác nhân sinh học dễ gây tác hại đối với da và niêm mạc như dị ứng, lở loét nấm ngứa, viêm quanh móng. Điều đó cho thấy người lao động phải làm việc trong môi trường rất không thuận lợi. Thực tế cho thấy, qua việc kiểm tra sức khoẻ định kỳ của công nhân: sức khoẻ của lao động nữ chủ yếu ở loại II chiếm 59.7%, ngoài ra sức khoẻ của nữ công nhân có ở cả loại III và IV chiếm 11.6% thậm chí cả loại V. Theo kết quả nghiên cứu hồ sơ bệnh án tại các xí nghiệp về tình trạng bệnh tật của công nhân cho thấy tỷ lệ mắc một số bệnh ở nữ cao hơn hẳn so với nam giới : tiêu hoá, ngoại khoa, ngoài da, tai mũi họng, răng hàm mặt, thần kinh ,xương khớp đa số ở mức nhỏ hơn 0,01. ở lao động nữ những bệnh có tỷ lệ mắc cao là răng hàm mặt, chiếm 39,3%, tai mũi họng 22,4%, ngoài da 10,1%, Phụ khoa 11,2%, xương khớp 9,52%, như vậy có thể thấy ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đối với người lao động là rất lớn. Ta hãy xét cụ thể các thông số môi trường tự nhiên mà người công nhân chế biến thuỷ sản ở các công ty được khảo sát đang hàng ngày lao động và tiếp xúc với môi trường lao động như vậy. Trước hết là các yếu tố vi khí hậu. Vi khí hậu là trạng thái lý học của không khí trong khoảng không gian thu hẹp gồm các yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ nhiệt và vận tốc chuyển động không khí. Điều kiện vi khí hậu trong sản xuất phụ thuộc vào tính chất của quá trình công nghệ và khí hậu địa phương. Về mặt vệ sinh thì vi khí hậu có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ bệnh tật của công nhân làm việc lâu trong điều kiện khí hậu lạnh và ẩm có thể mắc các bệnh thấp khớp, viêm đường hô hấp, viêm phổi và làm cho bệnh lao nặng thêm. ảnh hưởng của vi khí hậu lạnh làm cho cơ thể mất nhiều, nhịp tim, nhịp thở giảm và tiêu thụ oxy tăng. Lạnh làm cho cơ vân co lại gây hiện tượng nổi da gà, các mạch máu co thắt gây cảm giác tê cóng chân tay, vận động khó khăn. Trong điều kiện khí hậu lạnh dễ xuất hiện một số bệnh viêm thần kinh, khớp, phế quản, hen và một số bệnh mãn tính khác do máu lưu thông kém và sức đề kháng của cơ thể giảm. Bảng 1: Điều kiện vi khí hậu trong các cơ sở chế biến thuỷ sản đông lạnh Vị trí đo Nhiệt độ (o C) Độ ẩm (%) Tốc độ gió (m/s) Phân xưởng cá (Số mẫu đo n=20) Khu phi lê Khu định hình Khu phân cỡ Khu cấp đông 27,5 - 29,0 26,5 - 28,2 25,5 - 27,0 24,5 - 26,0 85,0 – 86,0 80,0 - 81,5 81,0 - 82,0 82,5 - 83,0 0,86 - 0,88 0,27 - 0,42 0,25 - 0,40 0,52 - 0,86 Phân xưởng tôm (Số mẫu đo n = 25) Khu xếp hộp Khu phân cỡ Khu chế biến Khu tiếp nhận - Phòng máy 25,5 - 26,5 25,0 - 27,5 25,0 - 27,5 26,0 - 28,5 28,0 - 29,5 81,0 – 81,5 81,5 - 82,0 85,5 - 86,0 84,5 - 85,0 80,5 - 81,0 0,63 - 0,75 0,25 - 0,40 0,20 - 0,29 0,56 - 0,95 1,36 - 1,43 TCVN < 260C <80 > 0.5 (Nguồn: Theo số liệu điều tra của CĐTS Việt Nam) Nhìn vào kết quả ở bảng 1 cho thấy: Hiện nay người công nhân ngành chế biến thuỷ sản đang phải làm việc trong điều kiện môi trường tự nhiên không thuận lợi, các thông số về môi trường đều không đạt yêu cầu, chưa đảm bảo các điều kiện môi trường do nhà nước quy định. Việc đánh giá mức độ nặng nhọc, độc hại của nghề, công việc được dựa trên cơ sở kết quả khảo sát đo đạc các yếu tố điều kiện lao động tại nơi làm việc của người lao động. Yếu tố được nói đến đầu tiên trong hệ thống các yếu tố là vi khí hậu. Có thể hiểu vi khí hậu là trạng thái vật lý của không khí trong không gian nơi làm việc, nó bao gồm: nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió. Như vậy, các số liệu ở bảng trên chỉ ra rằng công nhân chế biến thuỷ sản phải làm việc trong điều kiện nhiệt độ trung bình là trên 26°C, thậm chí có những khu lên tới 29°C so với mức độ cho phép là 26°C. Về độ ẩm là trên 80% so với mức độ cho phép là 80%. Về tốc độ gió tuy chưa vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhưng có một số khu tốc độ gió lên tới 1- 1,4m/s, điều đó là rất lớn. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, sức khoẻ người lao động các đơn vị cần phải cải tạo lại hệ thống thông gió ở các khu vực xử lý đến định hình, phân cỡ, lắp đặt thêm điều hoà nhiệt độ, độ ẩm để đảm bảo duy trì nhiệt độ phân xưởng chế biến. Bảng 2. Các yếu tố vật lý Vị trí đo Cường độ (Lux) Độ ồn (dBA) Phân xưởng cá (Số mẫu đo) (20) (12) - Khu phi lê - Khu định hình - Khu phân cỡ - Khu cấp đông 131 – 157 111 – 139 293 – 424 96 71 – 78 67 – 77 62 – 74 64 – 66 Phân xưởng tôm (Số mẫu đo) (25) (15) - Khu xếp hộp - Khu phân cỡ - Khu chế biến - Khu tiếp nhận - Phòng máy 327 – 486 284 – 329 161 – 184 168 – 224 67 – 95 58 – 61 57 – 60 64 – 66 65 – 69 91 – 93 TCVN ³ 220 Ê 85 (Nguồn: Theo kết quả điều tra của CĐTS Việt Nam) Từ kết quả bảng 2 cho thấy tại các nhà máy chế biến thuỷ sản được khảo sát, độ ồn trong phân xưởng đạt tiêu chuẩn cho phép, về ánh sáng tại các cơ sở chế biến tôm( khu xếp hộp, phân cỡ) cường độ ánh sáng đạt yêu cầu, nhưng ở khu chế biến tôm cần được tăng cường; ở cơ sở chế biến cá( khu philê, định hình) ánh sáng thiếu với điều kiện như vậy sẽ ảnh hưởng đến thị lực người lao động và ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Bảng 3. Các yếu tố hơi khí độc TT Vị trí đo Số mẫu (n) H2S (mg/m3) NH3 (mg/m3) Cl2 (mg/m3) CO2 (%) 1 Khu sơ chế Nguyên liệu 9 0,065 – 2,05 0,004- 0,001 0,035 - 0,050 2 Khu chế biến 9 0,004 – 0,87 0,22 - 6,58 0,001- 0,018 0,039- 0,047 3 Cấp đông 4 0- 1, 05 0, 20 - 8,5 0,15 - 1,70 0,005 – 0,12 TCVS CP Ê 10 Ê 2 Ê 0,1 Ê 0,1 (Nguồn: Theo kết quả điều tra của CĐTS Việt Nam) Kết quả bảng 3 cho thấy hàm lượng khí H2S đo được ở các cơ sở chế biến rất thấp, không ảnh hưởng đến môi trường lao động. Hàm lượng khí CL2 ,NH3 ) ở khu cấp đông vượt quá mức cho phép , các cơ sở chế biến cần tăng cường việc thông gió, xem xét lại cách sử dụng clorin, kiểm tra độ kín khít của thiết bị cấp đông. Vì việc tạo ra các khí này xuất phát từ việc sử dụng nhiều clorin ở khu vực này, hệ thống dẫn ga đến tủ cấp đông bị rò rỉ. Như vậy có thể thấy môi trường có ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ người lao động. Qua thu thập từ phiếu điều tra cho thấy với câu hỏi : “ Theo chị yếu tố nào ảnh hưởng đến sức khoẻ nhiều nhất”?. Và được kết quả như sau: Bảng 4: Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân. Mức Độ Số lượng (người) Tỷ lệ % Môi trường làm việc 63 63 Thiết bị bảo bộ 10 10 Phương tiện lao động 7 7 Bảo hộ lao động 6 6 Phụ cấp độc hại 14 14 Tổng 100 100 (Nguồn: xử lý từ kết quả bảng hỏi) Trong đó hơn 63% cho rằng yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động là môi trường làm việc, sau đó mới đến các yếu tố khác. Tóm lại, qua những thông số về môi trường lao động ở trên, công nhân ngành chế biến thuỷ sản đặc biệt là công nhân nữ đang phải làm việc trong một diều kiện rất khó khăn. Họ làm việc trong điều kiện phải đứng thường xuyên suốt một ca làm việc dẫn tới tâm trạng mệt mỏi, đau nhức… 3.2. Thiết bị bảo hộ lao động. Trong lao động, cho dù ở bất cứ ngành nào, phương tiện lao động luôn là một yếu tố quan trọng, nó có tính chất quyết định đối với năng suất và sức khoẻ người lao động. Đặc biệt với trình độ phát triển như nước ta hiện nay, tuy rằng có nhiều công ty, xí nghiệp đã đầu tư dây truyền và máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất, song không phải là không còn những ngành nghề công nhân vẫn phải lao động chân tay, thủ công là chính. Ngành thuỷ sản cũng vậy , do nội dung công việc đòi hỏi người công nhân phải thực hiện các thao tác công việc một cách thủ công như nhặt tôm , phân loại tôm, bóc tôm… cho nên vấn đề về bảo hộ lao động có ý nghĩa rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người lao động. Thiết bị bảo hộ lao động luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và bảo vệ sức khoẻ. Các dụng cụ bảo hộ lao động có đầy đủ thì mới nâng cao hiệu quả sản xuất và phần nào giúp công nhân chống lại được các yếu tố độc hại do môi trường lao động gây ra. Bộ Lao động thương binh xã hội đã có Thông tư số 10/1998 TT- BLĐTBXH(ra ngày 28/05/1998) về việc hướng dẫn thực hiện trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân một số ngành lao động trong đó có ngành thuỷ sản. Do đó, việc cấp phát trang bị bảo hộ lao động cho công nhân chê biến thuỷ sản là tương đối đầy đủ. Bảng 5: Sự đánh giá của công nhân về các trang thiết bị bảo hộ lao động Mức độ Trang bị Cấp đủ (%) Cấp không đủ (%) Găng tay 99 1 Mũ bảo hộ 70 30 ủng, giầy 86 14 Khẩu trang 81 21 Quần áo bảo hộ 75 15 (Nguồn:xử lý từ kết quả bảng hỏi) Nhìn chung các trang thiết bị bảo hộ lao động cá nhân tương đối đầy đủ, đặc biệt về găng tay có tới 99%, ủng giầy 86% số người được hỏi cho rằng đầy đủ. Tuy nhiên, các trang thiết bị khác như mũ bảo hộ, quần áo, khẩu trang vẫn còn thiếu. Nguyên nhân của tình trạng này không phải là do họ không được cấp các thiết bị bảo hộ mà do tính chất của công việc nên các loại bảo hộ lao động này không sử dụng được lâu chính vì vậy đẫn đến tìnhtrạng các thiết bị bảo hộ không đủ so với nhu cầu sử dụng của người lao động.Đó cũng là một trong những yếu tố không đảm bảo trong lao động . Với điều kiện làm việc không đảm bảo nhưng khi khảo sát những người công nhân làm việc với câu hỏi: “Chị có thường xuyên dùng các thiết bị bảo hộ lao động được cấp trong công việc hàng ngày không?” Thì vẫn còn rất nhiều người trả lời là không thường xuyên sử dụng các thiết bị bảo hộ lao động khi làm việc. Đó cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, do đó các cấp lãnh đạo Công ty cần phải quan tâm hướng dẫn công nhân dùng đầy đủ các trang bị bảo hộ lao động trong khi làm việc để đảm bảo sức khoẻ cho người lao động khi làm việc. 3.3. Kỹ thuật công nghệ máy móc Kỹ thuật công nghệ máy móc cũng là một ỷếu tố ảnh hưởng đến năng suất chất lượng cũng như hiệu qủa công việc. Tuy nhiên công nghệ chế biến của chúng ta còn nhiều bất cập không tương xứng với mặt bằng của thế giới. Các thiết bị máy móc của chúng ta hầu hết là nhập từ nước ngoài chính vì vậy trong quá trình làm việc người công nhân gặp phải rất nhiều khó khăn khi điều khiển các loại máy móc này bởi nó không được thiết kế theo đặc điểm hình thể người Việt Nam nên đã buộc người công nhân phải kê thêm bục để đứng, kê thêm ghế để ngồi, có những nơi như bàn đóng gói sản phẩm đông lạnh trong các gian chế biến thuỷ sản đông lạnh người công nhân phải liên tục cúi…Vừa gây bất tiện, mệt mỏi vừa tạo yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc. 3.4.Tình hình thực hiện chế độ chính sách đối với lao động nữ ngành chế biến thuỷ sản. Chính sách xã hội là một tác nhân rất lớn để thúc đẩy sản xuất cũng như bảo vệ sức khoẻ và nâng cao tinh thần lao động của công nhân. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách, chế độ tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế- xã hội nâng cao địa vị trong gia đình và xã hội. Hiến pháp, Bộ luật lao động và nhiều văn bản pháp luật khác đã có những quy định có tính chất khuyến nghị các doanh nghiệp sử dụng lao động nữ. Các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ sẽ được Nhà nước xét giảm thuế, sẽ được ưu tiên hỗ trợ vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm khi gặp khó khăn và được ưu tiên sử dụng một phần trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp để chi cho việc cải thiện điều kiện làm việc cho lao động nữ. Nhằm đảm bảo quỳên lợi cho lao động nữ, Nghị định 23/CP của Chính phủ còn có một số quy định khác đối với người sử dụng lao động như: Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận lao động nữ khi có đủ tiêu chuẩn chọn làm công việc phù hợp với cả nam lẫn nữ mà doanh nghiệp đang cần. Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong tuyển dụng, sử dụng, trả công lao động, cấm ban hành những quy định không có lợi hơn những quy định cho lao động nữ, cấm những hành vi hạn chế khả năng tiếp nhận của lao động nữ vào làm việc, cấm mạt sát, đánh đập, xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm của lao động nữ khi làm việc, không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi. ở đây tác giả xin đi vào một số khía cạnh sau: 3.4.1. Chính sách tiền lương thu nhập đối với lao động. Trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Nhà nước đều khẳng định sự bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực tiền lương: Cùng làm một công việc như nhau thì được hưởng mức lương như nhau và lao động nữ được ưu đãi hơn lúc nâng bậc lương. Điều 16 Nghị định 197/CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ quy định “Lúc nâng lương, nếu lao động nữ có điều kiện và tiêu chuẩn như nam giới thì ưu tiên nâng bậc lương trước”. Tuy nhiên, trong thực tế thì ngành chế biến không thực hiện được vì lao động nữ làm việc phần lớn là hưởng theo lương sản phẩm lúc nâng bậc phải thi tay nghề do không khống chế về số lượng nâng bậc nên hầu như không có sự ưu tiên. Theo quan niệm của Mác tiền lương chính là yếu tố của quá trình sản xuất. Vì vậy tiền lương không chỉ phản ánh giá trị lao động tất yếu mà còn bao gồm một phần giá trị thặng dư do người lao động góp phần làm nên. Tiền lương thực sự là đòn bẩy kích thích người lao động sáng tạo cũng như hăng say với công việc, nâng cao tay nghề, tăng hiệu quả sản xuất. Theo kết quả điều tra đời sống việc làm và điều kiện lao động của người lao động ngành thuỷ sản cho thấy mức thu nhập trung bình của lao động nữ thấp hơn mức thu nhập trung bình của lao động nam. Nguyên nhân chủ yếu của sự chênh lệch trong thu nhập giữa lao động nam và lao động nữ là do khả năng làm việc, trình độ tay nghề bậc thợ, sức khoẻ và một phần do xuất phát điểm về mặt bằng kiến thức, chuyên môn của lao động. Thu nhập bình quân của ngành chế biến thuỷ sản là 700.000- 800.000 đồng/ tháng. Việc quan tâm và bảo vệ sức khoẻ của người lao động đó chính là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta cho nên hệ thống khám chữa bệnh tại nhà máy rất được chú ý. Thông qua các đợt khám bệnh định kỳ có thể khám bệnh cho người lao động. Do làm việc trong môi trường lao động như vậy nên tỷ lệ mắc bệnh rất cao và một yêu cầu không thể thiếu được đó là khám chữa bệnh. Thực hiện chính sách của Nhà nước, Ban giám đốc và Công đoàn các công ty thường xuyên tổ chức các đợt khám bệnh định kỳ cho công nhân 6 tháng/1 lần…. Với câu hỏi “khi ốm đau chị thường đi khám ở đâu?” thì có tới 52% trong tổng số bảng hỏi trả lời: khám bệnh do công ty tổ chức khám và 46% trả lời là tự mình đi khám. 3.4.2.Chế độ bảo hiểm xã hội. Đây là vấn đề được người lao động đặc biệt quan tâm bởi nó liên quan trực tiếp tới quyền lợi của họ. Đối với lao động nữ vấn đề quan tâm chủ yếu là chế độ thai sản và nghỉ hưu. Tại các Điều 114, 117, 141, 144 của Bộ luật lao động và các Điều 10, 11, 12, 13, 14 của Nghị định 12/CP quy định thời gian lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con cộng lại từ 4 đến 6 tháng tuỳ thuộc vào mức độ độc hại của điều kiện lao động. Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ đã đóng bảo hiểm xã hội được hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã hội 100% tiền lương hàng tháng và được trợ cấp thêm 1 tháng lương đối với người sinh con thứ nhất, thứ hai. Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ nếu có nhu cầu không ảnh hưởng tới sức khoẻ và nghỉ thai sản ít nhất là 2 tháng có thể đi làm sớm hay có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thoả thuận với người sử dụng lao động mà vẫn giữ được chỗ làm việc. Trong thực tế công nhân ngành thuỷ sản đều đóng Bảo hiểm xã hội rất tốt. 3.4.3. Chính sách bảo hộ lao động. Công tác Bảo hộ lao động được thực hiện tương đối tốt trong các doanh nghiệp. Công nhân lao động nói chung đặc biệt là nữ công nhân đều được trang bị các phương tiện bảo vệ cá nhân so với yêu cầu công việc. Việc trang bị khẩu trang, găng tay, quần áo đạt tỷ lệ 100% và các phương tiện khác như ủng, giầy dép, mũ, khăn được trang bị tương đối đầy đủ. Hầu hết các doanh nghiệp đều đã chú trọng đến việc sửa chữa, nâng cấp nhà xưởng, lắp đặt các hệ thống kỹ thuật vệ sinh như thông gió, chiếu sáng nhằm hạn chế tác hại của môi trường. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng đã chú trọng đến việc cải thiện điều kiện làm việc cho lao động nữ, bố trí lao động nữ ở những cônh việc ít nặng nhọc và về cơ bản đến nay đã không còn lao động nữ phải làm việc trong những điều kiện đặc biệt độc hại. 3.4.4.Chế độ phụ cấp độc hại Về chế độ phụ cấp độc hại thì các nhà máy, xí nghiệp đã có những cải thiện đáng kể . Tuy nhiên, việc thực hiện chưa được đầy đủ.Điều này được thể hiện rõ từ kết quả câu hỏi : “Theo chị việc thực hiện chế phụ cấp độc hại đối với công nhân trong công ty là như thế nào?”và được kết quả như sau: Bảng 6: chế độ phụ cấp độc hại đối với công nhân lao động Mức độ Số lượng(người) Tỷ lệ % Thực hiện đầy đủ 51 51 Thực hiện chưa đây đủ 42 42 Không thực hiện 4 4 Không trả lời 3 3 Tổng 100 100 (Nguồn: Xử lý từ kết qủa bảng hỏi) Số liệu trên chỉ ra rằng: Vẫn còn 4% số lượng công nhân chế biến thuỷ sản khảo sát trong mẫu chưa được hưởng chế độ phụ cấp độc hại. Tại sao lại như vậy? Đó là những người mới vào làm hợp đồng ngắn hạn, cho nên họ chưa được hưởng chế độ này. Số lượng người cho rằng việc thực hiện chế độ độc hại như vậy là đầy đủ 51%, không đầy đủ là 42%. Nếu như ở một số ngành khác với mức lương và tiền phụ cấp như vậy được coi là đảm bảo nhưng đối với những công nhân trong ngành chế biến thuỷ sản thì mức lương cũng như tiền phụ cấp độc hại như trên là chưa thoả đáng bởi không giống như các ngành khác người công nhân làm việc trong ngành chế biến thuỷ sản phải làm việc trong điều kiện rất khắc nghiệt. Vì thế các cấp các ngành có liên quan cần tạo điều kiện để tăng lương và phụ cấp cho người lao động. 3.5. ảnh hưởng của các yếu tố điều kiện lao động tới sức khoẻ nữ công nhân. 3.5.1. Tình hình sức khoẻ người công nhân. “ sức khoẻ là trạng thái thoải mái đầy đủ về thể chất, tâm hồn và xã hội chứ không chỉ bó hẹp vào nghĩa là không có bệnh hay thương tật, đây là một quyền cơ bản của con người. Khả năng vươn lên đến một sức khoẻ cao nhất có thể đạt được là mục tiêu xã hội quan trọng liên quan đến toàn thế giới và đòi hỏi sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội khác nhau chứ không đơn thuần là lực của ngành y tế”. (Nguồn chiến lược bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1990-2000 Bộ y tế) Trong Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1989-Tại điều 9, 10, 14 đã đề cập đến vấn đề vệ sinh trong sản xuất, bảo quản, vận chuyển và sử dụng hoá chất, vệ sinh các chất thải công nghiệp và trong sinh hoạt, vệ sinh lao động. Các yếu tối này có thể gây mất an toàn vệ sinh và ô nhiễm môi trường cần xử lý nhằm bảo vệ sức khoẻ người lao động và mọi người xung quanh. Vấn đề sức khoẻ của con người nói chung và của nữ công nhân lao động nói riêng luôn là vấn đề quan tâm chung của xã hội . Đối với công nhân trong ngành .thuỷ sản cũng vậy bởi nếu có sức khoẻ tốt người công nhân mới hoàn thành tốt công việc được giao và nâng cao hiệu quả lao động. Không chỉ thế nếu có sức khoẻ tốt người công nhân có thể tránh được bệnh tật do môi trường làm việc gây ra. Để làm rõ vấn đề này chúng ta lần lượt xem xét các chỉ báo sau: Theo kết quả nghiên cứu phỏng vấn bao gồm 100 nữ công nhân tại công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hạ Long cho thấy: Lứa tuổi trung bình của công nhân chế biến thuỷ sản từ 18-25 tuổi chiếm 17%, lứa tuổi 26- 45 tuổi chiếm 78%. Các đối tượng nghiên cứu đều thuộc khu vực chế biến đông lạnh thuỷ sản. Trong số 100 nữ công nhân có 81 nữ công nhân trực tiếp lao động ở công đoạn chế biến thuỷ sản chiếm tới 81%, 19 nữ công nhân chiếm 19% lao động ở các công đoạn khác như cân thành phẩm, hành chính, kế toán, kỹ thuật, lao động tiền lương, nấu ăn, phục vụ, quản lý, thống kê, thủ kho, thu mua và vệ sinh công nghiệp. Tuổi trung bình của công nhân ở nhóm trực tiếp chế biến thuỷ sản thấp hơn so với những công nhân lao động ở các công đoạn khác, nhưng sự khác biệt này không lớn. Đặc biệt tuổi nghề của nữ công nhân trực tiếp chế biến thuỷ sản thấp hơn hẳn so với tuổi nghề của công nhân lao động ở các công đoạn khác, vì hầu như công nhân trực tiếp chế biến trẻ tuổi hơn công nhân lao động ở các công đoạn khác. Các chỉ tiêu về thể lực như chiều cao, cân nặng ở cả hai nhóm công nhân này tương tự như nhau và hầu hết đảm bảo tiêu chuẩn về phát triển thể lực của người Việt Nam ở lứa tuổi lao động. Tại các công ty chế biến thuỷ sản , công nhân đều nằm trong lứa tuổi lao động, không có hiện tượng lao động vị thành niên. Trình độ văn hoá của công nhân chủ yếu là tốt nghiệp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Mặc dù đời sống của công nhân ngành chế biến thuỷ sản cũng có phần phụ thuộc vào thời tiết song tình trạng làm việc của họ là khá ổn định, số giờ làm việc trong ngày của nữ công nhân là 8.55, số ngày làm việc bình quân trong tháng là 27.78 ngày (ngày công 8 giờ). Ngành chế biến thuỷ sản phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và số lượng đánh bắt, vì vậy cũng có thời điểm làm việc cao điểm từ 3-4 tháng trong năm. Vào giai đoạn thời vụ lao động nữ cũng phải làm việc trong tình trạng căng thẳng, kéo dài để đảm bảo cho thực phẩm đúng quy cách. Thời gian làm việc thêm trong vụ từ 2,5-3 giờ trong ngày. Nếu tính số giờ làm thêm bình quân trong năm xấp xỉ 200 giờ điều này không vượt so với luật quy định. Song thời điểm mùa vụ thì cường độ và thời gian lao động đều quá cao. Đối với ngành thuỷ sản trong giai đoạn thời vụ, nữ công nhân đi làm liên tục không có ngày nghỉ trong tuần. Nếu tính bình quân năm thì số ngày nghỉ trong tuần là 0,79 ngày- thấp hơn so với luật quy định. Bình quân một năm nữ công nhân nghỉ đến 18 ngày, các khoản khác nghỉ bình quân là 18.59 ngày, thời gian nghỉ phép năm là 13.33 ngày. tính chất lao động này chính là một vấn đề bất hợp lý, vi phạm luật lao động và ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ người lao động bởi nếu làm trong môi trường như vậy liên tục và kéo dài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ người lao động . Thực tế có rất nhièu công nhân sau giờ làm việc cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng, đau đầu, chóng mặt. Đây là hệ quả tất yếu của điều kiện làm việc gây ra. Qua khảo sát thực tế và nghiên cứu kết quả khám lâm sàng cho công nhân , tác giả thấy công nhân phàn nàn về một số bệnh nghề nghiệp như: nhức mỏi xương khớp, đau khớp có kèm theo sưng, nóng, đỏ và đau v.v… Với câu hỏi về “Tình trạng đau, tiền sử bệnh nhân được khám và diều trị bệnh khớp”Ta có kết quả sau: Bảng 7: Kết quả hỏi và khám lâm sàng cho công nhân chế biến thuỷ sản tại công ty xnk đồ hộp thuỷ sản Hạ Long cho thấy: Số khám Tình trạng Nhức mỏi đau sưng Đã chẩn đoán và điều trị bệnh khớp Khám thực thể Giãn tĩnh mạch 170 33 19,4% 47 27,6% 3 1,76% 0 0% 50 29,4% (Nguồn : xử lý từ kết quả bảng hỏi) Nhìn vào bảng ta thấy: Số phàn nàn nhức mỏi các khớp gồm 33 người chiếm tỷ lệ 19,4%. Số có tiền sử đau các khớp kèm sưng, nóng gồm có 47 người chiếm tỷ lệ27,6%. Có 50 trường hợp giãn tĩnh mạch ở mức độ nhẹ và vừa chiếm tỷ lệ 29,4%. Như vậy tỷ lệ công nhân phàn nàn nhức mỏi về xương khớp là khá cao, số được chẩn đoán và điều trị ở bệnh viện về viêm khớp chiếm 1,76%, số phát hiện được qua khám lâm sàng là 0-đó là một tỷ lệ rất thấp. Các bệnh tật chủ yếu của công nhân chế biến thuỷ sản được phát hiện qua các đợt khám sức khoẻ định kỳ là các bệnh nội khoa như:Viêm phế quản , viêm dạ dầy tá tràng. các bệnh về mắt như mắt hột, viêm kết mạc, các bệnh về tai mũi họng thường chiếm tỷ lệ cao như viêm họng hạt, viêm amydal, viêm mũi. Các bệnh da liễu phổ biến như loét da, viêm quanh móng, chàm tiếp xúc. Các bệnh phụ khoa như: viêm cổ tử cung, nhiễm tạp trùng, nấm sinh dục cũng là những vấn đề cần quan tâm đối với nữ công nhân ngành chế biến thuỷ sản. Các bệnh răng hàm mặt thường gặp là sâu răng, viêm lợi, các bệnh đau xương khớp cũng thường xuyên gặp phải ở nữ công nhân chế biến thuỷ sản. Nghiên cứu khảo sát điều tra các triệu chứng thường gặp ở công nhân chế biến thuỷ sản được kết quả sau: Bảng 8: Kết quả điều tra các triệu chứng hay gặp ở công nhân chế biến thuỷ sản TT Các triệu chứng Nhóm I (n = 233) Nhóm II ( n = 109) P1,2 Có (1) Không Có (2) Không SL % SL % SL % SL % 1 Viêm họng 188 80,7

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25200.DOC
Tài liệu liên quan