Luận văn Ảnh hưởng của gibberellin đến sinh trưởng phát triển, năng suất và chất lượng của xà lách vụ Xuân - Hè 2008 tại thành Phố Huế

ĐẶT VẤN ĐỀ

Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của mỗi người Việt. Theo (2002) và ICARD (2004) thì hầu hết các hộ gia đình đều tiêu thụ lượng rau tăng hơn so với năm trước đó. Các loại rau được tiêu thụ nhiều nhất là rau muống (95% số hộ), cà chua (88%). Hộ gia đình Việt Nam tiêu thụ trung bình 71kg rau quả/người/năm, trong đó rau chiếm 3/4.

Xà lách (Lactuca sativa L.) là loại rau ăn sống phổ biến, có giá trị dinh dưỡng cao, cung cấp cho cơ thể người các chất khoáng, enzim, hợp chất hữu cơ, đặc biệt nguồn vitamin E và C phong phú và rẻ tiền. Ngoài ra, trong xà lách còn chứa chất lactucarium có hoạt tính sinh học cao, có tác động đến thần kinh, làm giảm đau và gây ngủ. Xà lách còn có tác dụng giải nhiệt, kích thích tiêu hóa, lợi sữa, trị ho, suy nhược tâm thần, táo bón, thấp khớp. Từ cây xà lách có thể chiết ra một loại dịch như nhựa để chế thành xirô hoặc để khô làm thành viên thuốc chữa bệnh. Xà lách là loại rau được làm xa lát quan trọng nhất. Xà lách quyết định chất lượng của hỗn hợp rau tươi và tính ngon miệng, nên được người tiêu dùng ưa chuộng, nhu cầu và khả năng tiêu thụ quanh năm rất lớn.

Xà lách là loại rau ăn lá có đặc điểm sinh trưởng như: cây thấp; rễ ngắn, ăn nông; có thể trồng dày; có khả năng cho năng suất cao; thích ứng rộng trên nhiều vùng sinh thái; ít sâu bệnh; thời gian sinh trưởng ngắn ngày, quay vòng/6 - 7 lần/năm. nên mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nếu được đầu tư thâm canh đúng mức, đẩy mạnh trồng xà lách là điều kiện sử dụng có hiệu quả các loại đất, góp phần cải tạo đất trong chế độ luân canh thích hợp, tận dụng được sức lao động ở địa phương, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thêm nhiều sản phẩm cho xã hội, đáp ứng nhu cầu rau xanh tại chỗ ngày càng cao của nhân dân. Tuy nhiên, xà lách yêu cầu đất tơi xốp, thoáng khí, giàu chất dinh dưỡng, yêu cầu ẩm độ cao trong suốt chu kỳ sinh trưởng. Thêm vào đó việc khó bảo quản khi di chuyển xa đã làm cho xà lách khan hiếm và có giá trị cao trên thị trường miền Trung.

Diện tích sản xuất rau toàn tỉnh Thừa Thiên Huế trên 4.700 ha, song phân bố không đều, manh mún, nhỏ lẻ, mang tính thời vụ, năng suất thấp chỉ có một số vùng trồng tập trung, chuyên canh, ở thành phố Huế và một số xã như: Điền Lộc - huyện Phong Điền; Quảng Thành, Quảng Thọ - Quảng Điền; Hương Xuân, Hương Chữ, Hương An - Hương Trà; Phú Mậu - Phú Vang; Hương Lộc, Hương Phú - Nam Đông.

Trên bờ thành thuộc phường Tây Lộc là vùng sản xuất và cung cấp rau thường xuyên cho thành phố Huế. Tuy nhiên năng suất còn thấp do diện tích ít, đất chủ yếu là đất thịt nhẹ, hàm lượng dinh dưỡng thấp, các chất dinh dưỡng thường xuyên bị rửa trôi do mưa lớn. Mùa khô, chủng loại, năng suất và chất lượng rau thường thấp. Bù lại, giá rau mùa khô thường cao gấp 3 - 7 lần, lợi nhuận cao, đã hấp dẫn người sản xuất.

Trong các chất điều hòa sinh trưởng thực vật, GA3 tăng vận chuyển auxin về vùng sinh trưởng mạnh. Do vậy, gibberellin ảnh hưởng lên sự giãn của tế bào theo chiều dọc, kích thích sự sinh trưởng kéo dài của thân và lóng cây. Gibberellin kích thích sự nảy mầm, chồi của các loại hạt và củ. của chúng. GA3 có tác dụng hoạt hóa sự hình thành các enzim thủy phân trong hạt như -amylaza. Enzim này sẽ xúc tác phản ứng biến đổi tinh bột thành đường, tạo điều kiện cho sự nảy mầm. Việc nghiên cứu, ứng dụng chất điều hòa sinh trưởng cho cây rau ở Thừa Thiên Huế còn ít được quan tâm, hiện chưa xác định được nồng độ xử lý phù hợp trong điều kiện thời tiết vụ Xuân – Hè.

Điều đó thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của gibberellin đến sinh trưởng phát triển, năng suất và chất lượng của xà lách vụ Xuân - Hè 2008 tại thành Phố Huế”

 

doc62 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 8956 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của gibberellin đến sinh trưởng phát triển, năng suất và chất lượng của xà lách vụ Xuân - Hè 2008 tại thành Phố Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT MỞ ĐẦU 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của mỗi người Việt. Theo (2002) và ICARD (2004) thì hầu hết các hộ gia đình đều tiêu thụ lượng rau tăng hơn so với năm trước đó. Các loại rau được tiêu thụ nhiều nhất là rau muống (95% số hộ), cà chua (88%). Hộ gia đình Việt Nam tiêu thụ trung bình 71kg rau quả/người/năm, trong đó rau chiếm 3/4. Xà lách (Lactuca sativa L.) là loại rau ăn sống phổ biến, có giá trị dinh dưỡng cao, cung cấp cho cơ thể người các chất khoáng, enzim, hợp chất hữu cơ, đặc biệt nguồn vitamin E và C phong phú và rẻ tiền. Ngoài ra, trong xà lách còn chứa chất lactucarium có hoạt tính sinh học cao, có tác động đến thần kinh, làm giảm đau và gây ngủ. Xà lách còn có tác dụng giải nhiệt, kích thích tiêu hóa, lợi sữa, trị ho, suy nhược tâm thần, táo bón, thấp khớp. Từ cây xà lách có thể chiết ra một loại dịch như nhựa để chế thành xirô hoặc để khô làm thành viên thuốc chữa bệnh. Xà lách là loại rau được làm xa lát quan trọng nhất. Xà lách quyết định chất lượng của hỗn hợp rau tươi và tính ngon miệng, nên được người tiêu dùng ưa chuộng, nhu cầu và khả năng tiêu thụ quanh năm rất lớn. Xà lách là loại rau ăn lá có đặc điểm sinh trưởng như: cây thấp; rễ ngắn, ăn nông; có thể trồng dày; có khả năng cho năng suất cao; thích ứng rộng trên nhiều vùng sinh thái; ít sâu bệnh; thời gian sinh trưởng ngắn ngày, quay vòng/6 - 7 lần/năm... nên mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nếu được đầu tư thâm canh đúng mức, đẩy mạnh trồng xà lách là điều kiện sử dụng có hiệu quả các loại đất, góp phần cải tạo đất trong chế độ luân canh thích hợp, tận dụng được sức lao động ở địa phương, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thêm nhiều sản phẩm cho xã hội, đáp ứng nhu cầu rau xanh tại chỗ ngày càng cao của nhân dân. Tuy nhiên, xà lách yêu cầu đất tơi xốp, thoáng khí, giàu chất dinh dưỡng, yêu cầu ẩm độ cao trong suốt chu kỳ sinh trưởng. Thêm vào đó việc khó bảo quản khi di chuyển xa đã làm cho xà lách khan hiếm và có giá trị cao trên thị trường miền Trung. Diện tích sản xuất rau toàn tỉnh Thừa Thiên Huế trên 4.700 ha, song phân bố không đều, manh mún, nhỏ lẻ, mang tính thời vụ, năng suất thấp chỉ có một số vùng trồng tập trung, chuyên canh, ở thành phố Huế và một số xã như: Điền Lộc - huyện Phong Điền; Quảng Thành, Quảng Thọ - Quảng Điền; Hương Xuân, Hương Chữ, Hương An - Hương Trà; Phú Mậu - Phú Vang; Hương Lộc, Hương Phú - Nam Đông... Trên bờ thành thuộc phường Tây Lộc là vùng sản xuất và cung cấp rau thường xuyên cho thành phố Huế. Tuy nhiên năng suất còn thấp do diện tích ít, đất chủ yếu là đất thịt nhẹ, hàm lượng dinh dưỡng thấp, các chất dinh dưỡng thường xuyên bị rửa trôi do mưa lớn. Mùa khô, chủng loại, năng suất và chất lượng rau thường thấp. Bù lại, giá rau mùa khô thường cao gấp 3 - 7 lần, lợi nhuận cao, đã hấp dẫn người sản xuất... Trong các chất điều hòa sinh trưởng thực vật, GA3 tăng vận chuyển auxin về vùng sinh trưởng mạnh. Do vậy, gibberellin ảnh hưởng lên sự giãn của tế bào theo chiều dọc, kích thích sự sinh trưởng kéo dài của thân và lóng cây. Gibberellin kích thích sự nảy mầm, chồi của các loại hạt và củ. của chúng. GA3 có tác dụng hoạt hóa sự hình thành các enzim thủy phân trong hạt như -amylaza. Enzim này sẽ xúc tác phản ứng biến đổi tinh bột thành đường, tạo điều kiện cho sự nảy mầm. Việc nghiên cứu, ứng dụng chất điều hòa sinh trưởng cho cây rau ở Thừa Thiên Huế còn ít được quan tâm, hiện chưa xác định được nồng độ xử lý phù hợp trong điều kiện thời tiết vụ Xuân – Hè. Điều đó thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của gibberellin đến sinh trưởng phát triển, năng suất và chất lượng của xà lách vụ Xuân - Hè 2008 tại thành Phố Huế” 1.2. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI - Đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng của cây xà lách trồng trên đất thịt nhẹ dưới ảnh hưởng của GA3. - Xác định được nồng độ GA3 phù hợp cho xà lách khi trồng trên đất thịt nhẹ ở Thành Phố Huế. - Xác định được nồng độ GA3 phù hợp cho sự nảy mầm của hạt và sinh trưởng của cây xà lách con. 1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về khả năng sinh trưởng và năng suất xà lách dưới ảnh hưởng của GA3 trên đất thịt nhẹ và xử lý GA3 đến sự nảy mầm của hạt và sinh trưởng của cây con trên đĩa petri và cốc nhựa. - Thời gian nghiên cứu: + Thí nghiệm 1: từ ngày 23 đến ngày 28 tháng 3/2008 + Thí nghiệm 2: từ ngày 27 đến ngày 2 tháng 4/2008 + Thí nghiệm 3: từ ngày 16/4 đến ngày 6/5/2008 - Địa điểm: + Thí nghiệm 1và 2: tiến hành trong phòng. + Thí nghiệm 3: vùng đất thịt nhẹ tại phường Tây Lộc – Thành phố Huế. 1.4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI - Ý nghĩa khoa học: Cung cấp thêm dữ liệu mới về sinh trưởng, năng suất và chất lượng của xà lách trồng trên đất thịt nhẹ khi được phun GA3. Cung cấp thêm dữ liệu mới về khả năng nảy mầm của hạt xà lách và sinh trưởng của cây con khi được xử lý GA3. - Ý nghĩa thực tiễn: Xác định được nồng độ GA3 phù hợp với điều kiện thời tiết ở Thừa Thiên Huế, góp phần đề xuất hướng tác động giúp vườn rau đạt năng suất cao. Đồng thời có thể tiếp tục nghiên cứu để mở rộng cho các vùng trồng rau khác có điều kiện khí hậu và đất đai tương tự. PHẦN THỨ HAI TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY XÀ LÁCH 2.1.1. Nguồn gốc và phân loại Theo Ryder và Whitaker, xà lách có nguồn gốc từ Địa Trung Hải sau đó được các nhà truyền đạo, thương nhân du nhập ra khắp thế giới. Những dấu hiệu sớm nhất cho thấy sự tồn tại của xà lách khoảng 4.500 năm trước công nguyên qua hình khắc trên mộ cổ Ai Cập mới được tìm thấy. Xà lách đã phát triển lan rộng qua khỏi lòng chảo Địa Trung Hải, đặc biệt đã có mặt trong nền văn minh của La Mã và Hy Lạp cổ đại. Về sau xà lách phát triển đến Tây Âu rồi các địa phương khác. Xà lách là thực vật bậc cao có đơn vị phân loại như sau: Ngành hạt kín: Angiosprematophy Lớp 2 lá mầm: Dicotyledoneae Dưới lớp cúc: Asteridae Bộ cúc: Asterales Họ cúc: Compositae Chi: Lactuca, có số lượng nhiễm sắc thể là 8, 9, 17 cặp. Có rất nhiều loài hoang dại được sử dụng như nguồn chống chịu sâu bệnh. Giống xà lách (Lactuca sativa L.) có khoảng 300 loại, có 7 cấp độ nhiễm sắc thể như 2n = 10, 16, 18, 32, 34, 36, 48, vv...Nhưng chỉ có 4 loại được công nhận từ việc thành lập nhóm nhân giống hữu ích bởi các phương pháp đã có ở giai đoạn 1940 - 1960. Các loài đó là: + Lactuca sativa: là loài thông dụng nhất, có nhiều dạng khác nhau, năng suất cao phẩm chất ngon được người dân ưa thích và được trồng rộng rãi ở nhiều nơi. + Lactuca serriola: loại này có hạt rất nhỏ, mầm hình thành ngay ở thân, lá tương đối nằm ngang có thể có răng cưa ở mép lá hoặc bản lá hình cánh hoa hồng. + Lactuca saligna: bản lá trải ngang và có răng cưa. + Lactuca virosa: có hạt và phẳng, lá có màu xanh lục nhạt có cả dạng hai năm và hàng năm. Mỗi loài có 2n = 18. L. sativa và L. serriola giao phấn tự nhiên với nhau và có thể được xếp cùng một loài. L. saligana và L. virosa khác nhau rõ rệt. L. saligana trông giống L. serriosa nhưng chúng có thể phân biệt bằng nhiều đặc điểm hình thái học. - Các giống xà lách: xà lách không cuốn mùa đông và xà lách cuốn ăn ngon, giòn, năng suất cao, thời gian sinh trưởng dài, được người dân ưa chuộng. Ngoài ra còn có giống xà lách thu hoạch về mùa Hè, loại này được trồng ở vùng Tây Tựu – Hà Nội. - Rau diếp: có 2 loại + Rau diếp xoắn: năng suất cao, ăn ngon, giòn, được người dân ưa thích, trồng nhiều. +Rau diếp thẳng: lá vàng hoặc lá xanh, bản lá mỏng, chịu nóng, gân đắng; có thể thu tỉa hoặc thu cả cây; có thể gieo trồng trong mùa nóng. 2.1.2. Giá trị của cây xà lách - Giá trị dinh dưỡng Xà lách được sử dụng là rau sống quan trọng và phổ biến ở vùng ôn đới trước đây. Tuy nhiên ngày nay nó cũng có vai trò lớn trong hỗn hợp rau ở vùng nhiệt đới. Rau xà lách có giá trị dinh dưỡng cao. Trước hết nó cung cấp chất tươi, chất xơ cho cơ thể để cân bằng và tiêu thụ lượng đạm, mỡ từ thịt cá trong thức ăn. Phần lớn các loại thực phẩm, được nấu chín vì vậy enzim, vitamin không còn nhiều, chỉ duy rau xà lách luôn luôn được dùng tươi sống với số lượng lớn trong mỗi bữa ăn. Vì vậy, xà lách là nguồn vitamin chủ yếu trong bữa ăn. Xà lách chứa nhiều vitamin A, C chất khoáng: kali, canxi, sắt, có vai trò chữa một số bệnh. Theo viện nghiên cứu ung thư ở Mỹ, thực phẩm chứa nhiều vitamin A, C như xà lách có khả năng ngăn chặn một số dạng ung thư. Bảng 2.1: Thành phần dinh dưỡng trong rau xà lách ở một số nước và Việt Nam (trong 100g phần ăn được) Nước T. P dinh dưỡng  Mỹ  Ấn Độ  Việt Nam   Calori (calo)  9  21  15   Dietary (fiber)  1,3  -  -   Protêin (g%)  1  2,1  1,5   Carbohydrate (g)  1,34  2,5  2,2   Chất béo (%)  0,3  -  -   Nước (%)  -  93,4  95,0   Chất khoáng (g)  -  -  1,2   Vitamin A (IU)  1456  -  1650   Caroten (mg)  -  66  2,0   Vitamin C (mg%)  13,44  10,0  15   B1 (mg)  -  -  0,14   B2 (mg)  -  -  0,12   PP (mg)  -  -  0,70   Tro (g%)  -  -  0,8   Xellulose (g%)  -  -  0,5   Ca (mg)  20,16  50,0  77,0   Fe (mg)  0,62  0,7  0,9   P (mg)  -  -  34,0   K (mg)  162,4  -  -   Thiamin (mg)  -  0,09  -   Riboflavin  -  0,13  -   (Nguồn: viện ung thư Mỹ 1998; viện dinh dưỡng quốc gia Ấn Độ 1980; thành phần hoá học thức ăn Việt Nam, 1980) - Giá trị kinh tế Xà lách chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu cây lương thực, thực phẩm nói chung và các loại rau nói riêng. Cây lương thực như: Lúa, ngô, cao lương, khoai, sắn... chủ yếu cung cấp năng lượng cho con người. Cây thực phẩm bao gồm các loại đậu, rau, gia vị... nhằm bổ sung chất dinh dưỡng các loại. Trong các loại rau thì xà lách có diện tích trồng nhiều nhất nên chiếm một vị trí đáng kể trong cơ cấu cây rau các loại. Với khoảng thời gian sinh trưởng đến thu hoạch ngắn, xà lách thường được trồng gối vụ, trồng xen giữa 2 vụ cây lương thực như ngô, khoai, sắn... Nhờ vậy nó góp phần tăng thu nhập cho nông dân, tạo thêm việc làm cho hàng trăm người lao động ở khu vực nông thôn. Xà lách còn giúp đất được luân canh với giai đoạn ngắn để đất có thời gian tiêu huỷ chất hữu cơ và phục hồi dinh dưỡng đất với loại cây trồng chính ở vụ tiếp theo. Xà lách còn là cây ít có sâu bệnh. Do vậy luân canh xà lách sẽ giúp sự gián đoạn vòng đời của sâu bệnh, giảm thiểu được sự tồn tại của sâu bệnh đối với vụ trồng chính tiếp theo sau. Thêm vào đó với bộ lá phát triển nhanh và rộng, che phủ toàn bộ diện tích đất canh tác đã góp phần hạn chế cỏ dại cho vụ sau. Xà lách còn được trồng xen với ngô, đậu, cao lương để tận dụng tối đa diện tích, hạn chế cỏ dại và góp phần tăng thu nhập cho nhà nông. 2.1.3. Đặc điểm thực vật học của cây xà lách - Bộ rễ: Xà lách có rễ cọc phát triển, làm nhiệm vụ chính là giữ cây, bám vào đất được chắc ngoài ra còn làm nhiệm vụ hút nước và dinh dưỡng nuôi cây. Trên rễ cọc có rất nhiều rễ phụ giúp cây bám đất, hút nước và chất khoáng. Nhìn chung xà lách có bộ rễ phát triển mạnh và nhanh. - Thân: Thân xà lách thuộc thân thảo, là nơi kết nối giữa bộ rễ và lá, vận chuyển chất khoáng do bộ rễ hút lên và chất hữu cơ do bộ lá tổng hợp nuôi cây. Thân xà lách giòn, trên thân có dịch trắng sữa. Thời gian đầu thân phát triển chậm nhưng sau khi cây đạt cao nhất về sinh khối, thân vống rất nhanh và ra hoa. - Lá: Xà lách có số lượng lá lớn, lá sắp sếp trên thân theo hình xoắn ốc, lúc đầu mật độ lá, giai đoạn sau mật độ lá thưa dần. Lá ngoài có màu xanh đến xanh đậm, lá trong xanh nhạt đến trắng ngà. Các lá phía trong mềm có chất lượng cao. Bề mặt lá không phẳng mà lồi lõm, gấp khúc do đặc tính di truyền. Lá làm nhiệm vụ chủ yếu là tổng hợp chất hữu cơ nuôi cây. - Hoa: Chùm hoa dạnh đầu, chứa số lượng hoa lớn, các hoa nhỏ duy trì chặt chẽ với nhau trên một đế hoa, với 5 đài hoa, 4 nhị và 2 lá noãn. Độ tự thụ rất cao, hạt phấn và có độ hữu thụ cao. - Quả và hạt: Quả xà lách thuộc loại quả bế đặc trưng. Hạt không có nội nhũ, hạt hơi dài và dẹt, có màu nâu vàng. 2.1.4. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của cây xà lách Đối với xà lách, tuỳ giống mà lá có thể cuốn hay không cuốn, mép lá có răng hay không có răng. Thân xà lách thuộc loại thân thảo và có một loại dịch trắng như sữa dùng làm thuốc. Cây có bộ rễ phát triển nhanh. - Yêu cầu về nhiệt độ: Xà lách có nguồn gốc ôn đới, ưa nhiệt độ thấp. Tuy nhiên trong quá trình trồng trọt, chọn lọc và thuần hoá, ngày nay cây xà lách có thể trồng được trên nhiều vùng khí hậu khác nhau như nhiệt đới, cận nhiệt đới. Để cây sinh trưởng tốt thì nhiệt độ thích hợp là 13 - 160C. Nhiệt độ ngày và đêm rất quan trọng cho sinh trưởng phát triển của xà lách. Nhiệt độ ngày và đêm thích hợp là 20/18. Xà lách cuốn phát triển được trong khoảng 10 - 270C. - Yêu cầu về ẩm độ: Cũng như các loại rau nói chung xà lách rất cần nước để phát triển do cây có bộ lá lớn, tốc độ thoát hơi nước cao. Tuy nhiên nếu mưa kéo dài hay đất úng nước sẽ ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng phát triển xà lách. Để đảm bảo nhu cầu nước cho cây sinh trưởng tốt, ẩm độ thích hợp trong khoảng 70 - 80%. - Yêu cầu về ánh sáng: Ánh sáng là yếu tố quan trọng cho sự sống của thực vật. Đối với xà lách ánh sáng thích hợp là ánh sáng vùng cận nhiệt đới với cường độ khoảng 17000 lux và 16 giờ. Để xà lách sinh trưởng bình thường và cho năng suất cao yêu cầu thời gian chiếu sáng 10 - 12 giờ/ngày. Cường độ chiếu sáng không chỉ ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp chất hữu cơ cho cây, giúp cây tăng nhanh sinh khối mà còn ảnh hưởng đến sự hình thành hoa. - Yêu cầu về dinh dưỡng: Để tạo nên sinh khối cho cây, bên cạnh các yếu tố nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng thì xà lách cần hàm lượng dinh dưỡng trong đất trung bình đến cao. Mặc dù xà lách không kén đất, tuy nhiên cũng như các loại rau khác để cây cho năng suất cao, phẩm chất tốt yêu cầu đất phải tơi xốp, kết cấu viên, thoát nước tốt, hàm lượng dinh dưỡng trong đất trung bình đến cao, độ pH đất thích hợp 5,8 - 6,6. Do xà lách có thời gian sinh trưởng ngắn, sau gieo 40-60 ngày là thu hoạch được, nên cần các loại phân dễ tiêu. Đối với xà lách, bón lót các loại phân hữu cơ (phân chuồng hoai mục; bánh dầu đậu phụng; đậu tương; phân cút) và phân vô cơ NPK 16:16:18 sẽ thích hợp cho cây. 2.2. SẢN XUẤT, TIÊU THỤ VÀ NGHIÊN CỨU RAU XÀ LÁCH 2.2.1. Sản xuất và tiêu thụ rau trên thế giới - Tình hình sản xuất rau: Nhu cầu tiêu thụ rau của người dân ngày càng cao, do đó diện tích cũng như sản lượng rau ngày càng tăng. Qua các năm, sản lượng rau trên thế giới tăng nhanh năm 1980 sản lượng rau chỉ đạt 375,737 triệu tấn nhưng đến năm 1990 sản lượng rau đạt được 451,523 triệu tấn, chỉ sau 10 năm sản lượng rau trên toàn thế giới đã tăng 66 triệu tấn. Không dừng ở đó, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật sản lượng rau, trên thế giới không ngừng tăng nhanh, đến năm 1997 sản lượng rau trên toàn thế giới đạt 595,565 triệu tấn, tăng 144 triệu tấn, so với năm 1990 [12]. Đến năm 2005, sản lượng rau trên thế giới đạt 249,879 triệu tấn, sản lượng rau thế giới giảm không phải do năng suất giảm mà do diện tích trồng rau của một số nước bị giảm xuống đáng kể. Bảng 2.2: Tình hình sản xuất rau ở một số nước trên thế giới năm 2005 Quốc gia  Diện tích (ha)  Năng suất (tạ/ha)  Sản lượng (triệu tấn)   Toàn thế giới  17999009  138,829  249,879   Trung Quốc  8266500  171,790  142,000   Ấn Độ  3400000  102,941  35,000   Việt Nam  525000  133,500  7,008   Philippin  500000  88,000  4,400   Liên Bang Nga  207000  162,802  3,370   Hàn Quốc  195000  318,966  6,219   Brazin  195000  115,385  2,250   Băngladét  150000  62,800  0,942   Thái Lan  145000  162,802  2,361   Italia  144000  180,556  2,600   Nhật Bản  110000  280,412  3,084   Phần Lan  75000  200,000  1,500   Hoa Kỳ  11050  771,801  0,853   (Nguồn: FAO,2006) Từ bảng 2.2 cho thấy: Diện tích trồng rau trên thế giới năm 2005 đạt 17.999.009 ha. Trong đó nước có diện tích trồng rau lớn nhất là Trung Quốc với đến 8.266.500 ha, đứng thứ hai thế giới về diện tích trồng rau là Ấn Độ với là 3.400.000 ha. Việt Nam là một trong những nước có diện tích trồng tương đối lớn, 525.000ha, đứng thứ 3, sau Trung Quốc và Ấn Độ. Bên cạnh các nước có diện tích trồng rau lớn thì cũng có không ít nước có diện tích trồng rau nhỏ như Hoa Kỳ (11.050 ha), Phần Lan(75.000 ha), Nhật Bản là nước có nhu cầu rau lớn nhưng diện tích trồng chỉ 110.000 ha. Trong những năm gần đây cùng với sự thay đổi chủng loại rau và quá trình áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản suất đã làm năng suất rau của nhiều nước trên thế giới tăng đáng kể. Ở một số nước, tuy có diện tích trồng không lớn song lại cho năng suất khá cao như: Hoa Kỳ (778,01tạ/ha), Nhật Bản (280,412tạ/ha), Phần Lan (200,000tạ/ha), ở Việt Nam (133,500tạ/ha) năng suất rau cũng tương đối cao so với các nước trên thế giới. Sản lượng rau Trung Quốc lớn nhất thế giới, tiếp theo là Ấn Độ với sản lượng là 35,000 triệu tấn ( chiếm 14%). Việt Nam cũng là nước có sản lượng rau lớn trên thế giới với 7,008 triệu tấn. - Tình hình tiêu thụ rau: Rau là loại thức ăn, không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình. Nó cung cấp các chất cấn thiết cho cơ thể. Khi mức sống của người dân tăng thì nhu cầu về rau quả tăng lên. Theo tính toán của nhiều nhà khoa học dinh dưỡng, mỗi khu vực trên thế giới có nhu cầu về rau quả khác nhau. Tình hình tiêu thụ rau ở mỗi nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế. Ở khu vực Châu Á và Viễn Đông, theo nghiên cứu dự báo, cứ thu nhập tăng 1,0% thì nhu cầu rau, đậu quả tươi tăng 0,9%; đậu hạt tăng 0,3%;đường tăng 1,3%; sữa tăng 1,8%; dầu, mỡ và bơ tăng 1,2%… [12]. Rau là cây trồng rất được chú trọng trên thế giới, theo thống kê của các tổ chức lương thực thì tổng diện tích trồng rau trên thế giới là 17.730.887 ha với tổng sản lượng là 246.480.485 tấn, đạt năng suất bình quân 139.012 tạ/ha. Trong đó, một số nước có diện tích trồng rau lớn như: Trung Quốc (8,0668 triệu ha), Ấn Độ (3.37 triệu ha), Nigeria (0,67 triệu ha), Philippin (0,5 triệu ha); nhưng cũng có nước chỉ có trồng 700 ha như Quata, 300 ha như Singgapore. Bảng 2.4: Xuất nhập khẩu rau quả trên thế giới (năm 2003) Nước  Rau sản xuất trong nước đáp ứng (1000 tấn)    Sản lượng  Nhập khẩu  Dự trữ  Xuất khẩu  Tổng số   Thế giới  848161  47197  415  49242  846531   Châu Phi  50310  1232  483  1227  50798   Bắc Mỹ  56294  9069  7  9395  55975   Nam Mỹ  20637  819  1  1372  20084   Châu Á  618243  9556  -190  13405  614204   Châu Âu  99357  26102  121  23153  102427   Châu Đại Dương  3321  419  -7  691  3042   (Nguồn: FAO, 2006) Ở một số nước diện tích trồng rau không lớn nhưng năng suất lại đạt rất cao như: Nhật Bản (245,5 tạ/ha), Hoa Kỳ (516,8 tạ/ha). Theo Gansen, năm 1992 nhu cầu rau bình quân cho một người là 200 g/ngày, mức tiêu thụ đầu người là 73 kg/năm (1996) và ngày có xu hướng tăng. Bảng 2.4: Tiêu thụ rau tính theo đầu người trong ngày ở một số nước Nước  Rau (g/người/ngày)  % so thế giới   Thế giới  250  100   Liên Xô(cũ)  564  225   Trung Quốc  280  112   Nhật Bản  197  71   Việt Nam  177  71   Ý  167  66   Ấn Độ  135  54   Pháp  122  49   Srilanca  120  48   Pakistan  69  27   (Nguồn: FAO, 1999) Trước nhu cầu rau ngày càng tăng, một số nước trên thế giới đã có chính sách nhập khẩu rau. Năm 2005, nước nhập khẩu rau nhiều rất thế giới là Pháp (145,224 nghìn tấn); tiếp theo là các nước như: Canada (143,332 nghìn tấn); Anh (140,839 nghìn tấn); Đức (116, 866 nghìn tấn). 5 nước chi tiêu cho nhập khẩu rau lớn trên thế giới là: Đức (149.140 nghìn USD); Trung Quốc (80.325 nghìn USD); Pháp (132.942 nghìn USD); Canada (84.496 nghìn USD); Nhật Bản (75.236 nghìn USD). 2.2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ và nghiên cứu rau ở Việt Nam - Tình hình sản xuất: Kể từ đầu thập kỷ 90, diện tích trồng rau của Việt Nam phát triển nhanh chóng và ngày càng có tính chuyên canh cao. Tính đến năm 2005 diện tích trồng rau cả nước là 525,0 nghìn ha, tăng 59,96% so với năm 1995 (328,2 nghìn ha). Bình quân mỗi năm tăng 19,68 nghìn ha (5,99 %/năm). Đồng Bằng Sông Hồng là vùng sản xuất lớn nhất chiếm khoảng 29% sản lượng rau toàn quốc. Điều này là do đất đai ở vùng ĐBSH tốt hơn, khí hậu mát hơn và gần thị trường Hà Nội. Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng trồng rau lớn thứ 2 của cả nước chiếm 23%, tổng sản lượng rau. Đà Lạt là vùng chuyên canh sản xuất rau cho xuất khẩu và tiêu thụ thành thị, nhất là thị trường thành phố Hồ Chí Minh. Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam giai đoạn 1995 - 2005 Năm Chỉ tiêu  1995  2000  2005   Diện tích (1000 ha)  328,2  377,0  525,0   Năng suất (tạ/ha)  125,5  147,5  133,5   Sản lượng (triệu tấn)  4,1  5,5  6,6   (Nguồn: FAO, 2006) Năng suất rau Việt Nam nói chung còn thấp và bấp bênh, năm 2005 năng suất đạt 133,5 tạ/ha, đạt 96,16% so với mức trung bình của thế giới (138,829 tạ/ha). Trong khi đó sản lượng rau cả nước năm 2005 đạt 6,6 triệu tấn so với năm 1995 (4,1 triệu tấn) tăng 60,97%. Mức sản lượng tăng trung bình hàng năm là 0,25 triệu tấn, chủ yếu là do tăng diện tích gieo trồng. Bảng 2.6: Diện tích, năng suất, sản lượng rau phân theo vùng Vùng  Diện tích (1000 ha)  Năng suất (tạ/ha)  Sản lượng (1000 tấn)    1999  2005  1999  2005  1999  2005   Cả nước  459,6  635,1  126,0  151,8  5792,2  9640,3   Đồng bằng sông Hồng  126,7  158,6  157,0  179,9  1988,9  2852,8   Trung du miền núi Bắc Bộ  60,7  91,1  105,1  110,6  637,8  1008   Bắc Trung Bộ  52,7  68,5  81,2  97,8  427,8  670,2   Duyên hải nam Trung Bộ  30,9  44,0  109,0  140,1  336,7  616,4   Tây Nguyên  25,1  49,0  177,5  201,7  445,6  988,2   Đông Nam Bộ  64,2  59,6  94,2  129,5  604,9  772,1   Đồng bằng sông Cửu Long  99,3  164,3  136  166,3  1350,5  2732,6   (Nguồn: Rau quả nước ta tuy đa dạng, phong phú và có diện tích lớn. Nhưng sự phát triển chưa theo yêu cầu của thị trường, quy trình canh tác chưa đồng đều, nhiều nơi còn lạc hậu. Mặc dù sản xuất rau phân bố đều trong cả nước, nhưng đa số phát triển với diện tích manh mún, nhỏ lẻ. Phần lớn rau không đáp ứng được yêu cầu của thị trường về chất lượng, kích thước, hình dạng, số lượng nên không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. - Tình hình tiêu thụ Một số nghiên cứu về tình hình tiêu thụ các loại rau của Việt Nam trong thời gian qua cho thấy rau là sản phẩm khá phổ biến trong các hộ gia đình. Thành phần tiêu thụ rau thay đổi theo vùng, đậu, su hào và cải bắp là những loại rau được tiêu thụ rộng rãi ở miền Bắc. Rõ nét nhất có thể thấy là trường hợp su hào với trên 96% số hộ nông thôn ở miền núi phía bắc và Đồng Bằng Sông Hồng tiêu thụ nhưng dưới 15% số hộ ở miền Đông Nam bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Theo tính toán của IFPRI, tiêu thụ ở khu vực thành thị có xu hướng tăng mạnh hơn so với các vùng nông thôn. Khi thu nhập cao hơn thì các hộ cũng tiêu thụ rau nhiều hơn, tiêu thụ rau quả theo đầu người giữa hộ giàu nhất gấp 5 lần hộ nghèo nhất, từ 26 kg đến 134 kg. Bảng 2.7: Tỷ lệ tiêu thụ đối với từng sản phẩm theo vùng Vùng Sản phẩm  HN HCM  Tp khác  Thị xã  MNPB  ĐBSH  BTB  NTB  TN  ĐNB  SCL   Rau muống  97  99  96  91  98  98  90  79  94  94   Su hào  42  69  45  91  96  68  19  59  12  3   Bắp cải  94  92  90  90  94  70  47  78  79  78   Cà chua  98  99  95  85  94  78  76  79  89  87   Rau khác  94  93  91  81  84  91  98  97  98  97   (Nguồn: IFPRI, 2002) Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu về thực phẩm và sức khỏe tính bình quân chung là 250 - 300g/người /ngày. Theo tính toán thì tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện tại lao động một ngày hoạt động nặng cần dùng từ 400 - 500g rau. Theo tính toán của Dorolle năm 1942 thì lượng rau cần thiết cho mỗi người Việt Nam khoảng 360g/người/ngày [13] Theo FAO, nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới tăng bình quân 3,6% năm, nhưng mức cung chỉ tăng 2,8% năm. Điều này cho thấy thị trường xuất khẩu rau quả có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua thị trường xuất khẩu rau quả Việt Nam giảm mạnh. Nếu năm 2001 rau quả Việt Nam xuất khẩu đến 42 nước và vùng lãnh thổ thì đến năm 2004 chỉ còn lại 39 nước và năm 2005 còn lại 36 nước. Sự suy giảm này có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu vẫn là do sản xuất manh mún, số lượng không tập trung, giá cao, đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docẢnh hưởng của gibberellin đến sinh trưởng phát triển, năng suất và chất lượng của xà lách vụ Xuân - Hè 2008 tại thành Phố Huế.doc
Tài liệu liên quan