Luận văn Bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam - Một số biện pháp nhằm hoàn thiện và phát triển

LỜI NÓI ĐẦU

Chương I: KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC 1

I. Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục (ASGD) 1

1. Khái niệm 1

2. Lịch sử ra đời 2

2.1. Trên thế giới 2

2.2. Tại Việt Nam 4

3. Sự cần thiết của BHNT 6

4. Vai trò và vị trí của BHNT 8

4.1. Vai trò của BHNT 8

4.2. Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm 11

5. Những đặc điểm cơ bản của BHNT 12

5.1. BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro 12

5.2. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm 12

5.3. Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng 13

5.4. Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp 13

5.5. BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kế toán xã hội nhất định 14

II. Các loại hình BHNT 15

1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm 15

1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong 15

1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ) 17

2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm 18

2.1. Bảo hiểm cá nhân 18

2.2. Bảo hiểm nhón 18

3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng 19

III. Sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục trong hệ thống BHNT 19

1. Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới 19

2. Bảo hiểm cho trẻ em tại Việt Nam (sản phẩm bảo hiểm ASGD hay Phú tích luỹ, Phú tương lai.) 20

3. Nội dung cơ bản của An sinh giáo dục 21

3.1. Một số khái niệm 21

3.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm 26

3.3. Bảo tức 29

3.4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 30

3.5. Thủ tục bảo hiểm

3.6. Thời điểm pháp sinh hiệu lực, thời hạn, huỷ bỏ, thay đổi chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm 35

3.7. Chi trả bảo hiểm 37

3.8. Giải quyết tranh chấp 38

Chương II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BHNT TẠI VIỆT NAM

I. Sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam 39

1. Ý nghĩa của sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục 39

2. So sánh sản phẩm bảo hiểm ASGD của các Công ty bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam 41

a. So sánh ASGD của Bảo Việt với Phú tích luỹ Giáo dục của Prudential. 42

b. So sánh ASGD của Bảo Việt với ASGD của Công ty Bảo hiểm nhân thọ AIA 44

c. So sánh ASGD của Bảo Việt với ASGD của Công ty Bảo hiểm Bảo Minh CMG 46

d. So sánh ASGD của Bảo Việt với Giáo dục hỗn hợp của Công ty Manulife 47

II. Tình hình triển khai sản phẩm bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 49

1. Tình hình phát triển của thị trường BHNT Việt Nam 49

a. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam 49

b. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam 54

2. Tình hình triển khai sản phẩm ASGD tại Việt Nam 63

2.1. Công tác khai thác 63

2.2. Công tác đánh giá rủi ro 66

3. Nhận xét và đánh giá về bảo hiểm ASGD của Việt Nam trong thời gian qua 67

a. Đánh giá chung về nghiệp vụ 67

b. Hiệu quả kinh tế xã hội của bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 68

c. Đánh giá chung về kết quả triển khai sản phẩm bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 71

Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM BẢO HIỂM ASGD 77

I. Định hướng và dự báo về bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 77

II. Kinh nghiệm về bảo hiểm nhân thọ của một số nước trên thế giới 79

1. Châu âu 79

2. Mỹ 85

III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển sản phẩm bảo hiểm ASGD 87

1. Các giải pháp vĩ mô 87

a. Hoàn thiện khung pháp lý cho ngành BHNT 87

b. Xây dựng các biện pháp quản lý cho ngành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ 91

c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 93

d. Đưa ra một số biện pháp khuyến khích 94

2. Các giải pháp về phía các Công ty BHNT 95

a. Tăng cường tuyên truyền quảng cáo 95

b. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác 97

c. Đa dạng hoá các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác 97

d. Xây dựng phương pháp khai thác thích hợp với từng phần thị trường 99

e. Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý cán bộ 101

f. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm 101

3. Các biện pháp khác 102

a. Ứng dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ 102

b. Tăng cường hợp tác 102

c. Mở rộng đầu tư phí 102

KẾT LUẬN

CHÚ THÍCH

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc112 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2552 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam - Một số biện pháp nhằm hoàn thiện và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yền lợi bảo hiểm nếu người được bảo hiểm bị TTTBVV do một trong các nguyên nhân sau: Hành động cố ý của người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm Hành động cố ý vi phạm pháp luật của người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm Người được bảo hiểm tham gia các hoạt động hàng không trừ trường hợp với tư cách là hành khách. Ảnh hưởng của bia, rượu, ma tuý hoặc các chất kích thích khác Động đât, núi lửa, nhiễm phóng xạ Chiến tranh, nội chiến, bạo động, nổi loạn và các sự kiện mang tính chất chiến tranh khác * Phạm vi bảo hiểm đối với chủ hợp đồng Bảo Việt miễn nghĩa vụ nộp phí cho chủ hợp đồng trong trường hợp chủ hợp đồng bị chết hay bị TTTBVV do tai nạn trong phạm vi được bảo hiểm. Còn AIA chỉ miễn cho chủ hợp đồng hưởng quyền lợi này nếu người này mua sản phẩm bảo hiểm bổ sung Quyền lợi người thanh toán. Về rủi ro loại trừ trong trường hợp này Bảo Việt có thêm so vớiAIA các rủi ro loại trừ sau: Ảnh hưởng của bia, rượu, ma tuý hoặc các chất kích thích khác Động đât, núi lửa, nhiễm phóng xạ Chiến tranh, nội chiến, bạo động, nổi loạn và các sự kiện mang tính chất chiến tranh khác Ngoài ra trong sản phẩm An Sinh giáo dục của AIA còn có một đặc điểm khác biệt so với sản phẩm An sinh gíao dục của Bảo Việt là số tiền bảo hiểm gốc sẽ được tăng lên 2% mỗi năm kể từ năm thứ ba trở đi và cho phép một khoảng thời gian gọi là bảo hiểm tạm thời cho trường hợp tử vong do tai nạn tính từ khi nhận phí bảo hiểm đầu tiên cho đến lúc phát hành hợp đồng bảo hiểm chính thức với số tiền là 100 triệu đồng hoặc bắng số tiền bảo hiểm gốc, lấy số nào nhỏ hơn. c.So sánh ASGD của Bảo Việt với công ty Bảo Minh CMG +Về độ tuổi người được bảo hiểm: Bảo Việt: Trẻ em từ 1 - 13 tuổi Bảo Minh CMG: Trẻ em từ 0 – 16 tuổi +Về người chủ hợp đồng: Bảo Việt: Là người từ 18 đến 60 tuổi, là cha mẹ, người đỡ đầu hay giám hộ hợp pháp của đứa trẻ. Nếu là ông bà, Cô, Dì, Chú, Bác, Anh, Chị (ruột) thì phải được sự đồng ý của Cha mẹ hay người giám hộ bằng văn bản. Bảo Minh CMG: Là người từ 18 trở lên, là cha mẹ hoặc những người có trách nhiệm nuôi dưỡng trẻ. Như vậy, quy định về chủ hợp đồng ở Bảo Minh CMG có phần chặt chẽ hơn. +Về thời hạn tham gia bảo hiểm: Do có quy định về độ tuổi tham gia khác nhau cho nên thời hạn tham gia bảo hiểm của hai công ty là khác nhau Bảo Việt: từ 5 - 18 năm Bảo Minh CMG: từ 5 – 21 năm +Về phạm vi bảo hiểm: * Đối với trẻ em: Bảo Việt chỉ bảo hiểm trường hợp sống không bảo hiểm trường hợp chết nhưng Bảo Minh bảo hiểm giống như Bảo Việt nếu đó là sản phẩm chọn cách thanh toán 4 lần, còn Bảo Minh sẽ bảo hiểm cho trường hợp chết nếu mua sản phẩm thanh toán 1 lần và trẻ bị chết đạt trên mười tuổi tính tới thời điểm chêt. Một điểm khác biệt nữa là Bảo Việt Bảo hiểm cả đối với trường hợp trẻ bị TTTBVV do tai nạn còn Bảo Minh thì không bảo hiểm * Đối với chủ hợp đồng: Không giống như Bảo Việt bảo hiểm luôn cả trường hợp chủ hợp đồng chết và bị TTTBVV do tai nạn, Bảo Minh CMG chỉ bảo hiểm nếu người chủ hợp đồng mua thêm sản phẩm Điều khoản Từ Bỏ Thu Phí Bảo Hiểm. Ngoài ra, một khác biẹt nữa là ở Bảo Việt đến khi trẻ trưởng thành, khi hợp đồng đáo hạn thì Bảo Việt sẽ thanh toán toàn bộ số tiền bảo hiểm và cộng với lãi (nếu có và chưa lĩnh) còn Bảo Minh CMG lại cam kết trả số tiền bảo hiểm cùng lãi chia theo 2 cách tương ứng với 2 loại sản phẩm nhỏ: thứ nhất, trả cùng một lúc toàn bộ số tiền bảo hiểm khi hợp đồng đáo hạn; thứ hai, trả thành 4 đợt bằng nhau trong 4 năm tức mỗi đợt là 25% số tiền bảo hiểm. d. So sánh ASGD của Bảo Việt với Gíao dục hỗn hợp của công ty Manulife +Về độ tuổi người được bảo hiểm: Bảo Việt: Trẻ em từ 1 - 13 tuổi Manulife: Trẻ em từ 0 – 10 tuổi +Về người chủ hợp đồng: Bảo Việt: Là người từ 18 đến 60 tuổi, là cha mẹ, người đỡ đầu hay giám hộ hợp pháp của đứa trẻ. Nếu là ông bà, Cô, Dì, Chú, Bác, Anh, Chị (ruột) thì phải được sự đồng ý của Cha mẹ hay người giám hộ bằng văn bản. Manulife: Là người từ 18 đến 65 tuổi, là cha mẹ, người đỡ đầu hay giám hộ hợp pháp của đứa trẻ. Như vậy độ tuổi của bên mua bảo hiểm của Manulife rộng hơn Bảo Việt. +Về thời hạn tham gia bảo hiểm: Do có quy định về độ tuổi tham gia khác nhau cho nên thời hạn tham gia bảo hiểm của hai công ty là khác nhau Bảo Việt: từ 5 - 18 năm Manulife: từ 8 - 18 năm đối với thời hạn đóng phí còn đối với thời hạn hiệu lực hợp đồng là từ khi bắt đầu tham gia cho đến khi trẻ 22 tuổi +Về phạm vi bảo hiểm: * Đối với đứa trẻ: Hai công ty đều chỉ bảo hiểm trong trường hợp trẻ em sống mà không bảo hiểm trong trường hợp chết. Tuy nhiên trong trường họp sống Bảo Việt còn bảo hiểm cả trường hợp trẻ bị TTTBVV do tai nạn. *Đối với chủ hợp đồng: Hai công ty đều bảo hiểm cho trường hợp chủ hợp đồng bị chết hay bị TTTBVV do tai nạn. Quy định về rủi ro loại trừ của hai công ty tương đối giống nhau. Ngoài ra, một điểm khác biệt ở Manulife khi số tiền bảo hiểm được chi trả trong 4 năm, bắt đầu vào ngày kỉ niệm hợp đồng bảo hiểm khi trẻ được 18 tuổi với tỷ lệ chi trả như sau: Tuổi bảo hiểm Số tiền chi trả (tính theo % của số tiền bảo hiểm) 18 20% 19 23% 20 26% 21 31% Và Manulife cũng quy định khi hợp đồng đáo hạn có thể lấy hoặc gửi lại công ty để tích lãi. Ngoài ra, Manulife còn cam kết tặng một “món quà tốt nghiệp” trị gía 20% số tiền bảo hiểm vào ngày kỉ niệm hợp đồng khi trẻ 22 tuổi dù không vào đại học. Một điểm nữa Manulife khác với Bảo Việt đó là Manulife còn quy định trong quy tắc và điều khoản đã được bộ tài chính duyệt kèm công văn số 4720TC/TCNH ngày 20/9/1999 giới hạn tối đa của số tiền bảo hiểm là 700 triệu đồng và Manulife cho phép mua sản phẩm bổ sung Quyền lựa chọn đảm bảo thời gía. Từ những so sánh trên chúng ta thấy sản phẩm của mỗi công ty có điểm mạnh điểm yếu khác nhau nhưng nếu nhìn một cách chung nhất thì sản phẩm của Prudential có phạm vi bảo hiểm rộng hơn cả, điều này giải thích tại sao thị phần của Prudential tăng lên nhanh chóng được đề cập ở phần sau. II.TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI SẢN PHẨM BẢO HIỂM ASGD TẠI VIỆT NAM 1.Tình hình phát triển của thị trường BHNT Việt Nam a.Tình hình phát triển của thị trường BH thương mại VN: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Kinh doanh bảo hiểm được coi như là một tấm lá chắn kinh tế bảo vệ cho các tổ chức, cá nhân, đồng thời huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Trên thị trường VN từ năm 1964- 1993 chỉ có duy nhất Tổng công ty Bảo hiểm VN (Bảo Việt) hoạt động kinh doanh bảo hiểm và đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Suốt thời gian này, Bảo Việt mới chỉ thực hiện một số nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm tai nạn hành khách. Do cơ chế hoạt động độc quyền và mang tính bao cấp, nên quy mô bảo hiểm nhỏ, sản phẩm đơn điệu, và phạm vi rất hạn chế bảo hiểm mới chỉ dừng lại ở chức năng bảo vệ tài sản mà chưa thực hiện được chức năng thu hút tiết kiệm và đầu tư. Chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, cơ chế hoạt động độc quyền đã trở lên không phù hợp, ngăn cản sự phát triển của ngành bảo hiểm nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trước tình hình đó, chính phủ đã ban hành Nghị định 100/CP nhằm tạo môi trường pháp lý thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ngành bảo hiểm VN đã co những bước phát triển nhanh chóng, từ chỗ chỉ có một và duy nhất, đến T5/ 2000 đã phát triển thành một thị trường với sự tham gia của 15 doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi thành phần kinh tế bao gồm 4 doanh nghiệp nhà nước, 3 công ty cổ phần, 4 doanh nghiệp liên doanh, 4 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, ngoài ra còn có 1 liên doanh môi giới bảo hiểm. Kể từ năm 1994 đến T5/2000 tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường bảo hiểm đạt 23%/ năm (1). Doanh thu phí bảo hiểm gốc năm 1995 đạt 1028 tỷ VND, năm 1998 đạt 1751 tỷ VND (2). Doanh thu phí bảo hiểm gốc năm 1999 đạt 2080 tỷ VND, tăng 2,8 lần so với doanh thu ngành bảo hiểm năm 1994 (3). Thị trường bảo hiểm đã đóng góp tích cực vào việc ổn định kinh tế quốc dân và đời sống người dân thông qua công tác bồi thường, năm 1999 số tiền bồi thường đạt gần 800 tỷ VND, gấp 2 lần so với 1994 (4). Đến năm 2000 tổng doanh thu phí khoảng 2950 tỷ VND, chiếm khoảng 0,67% GDP (5). Biểu đồ 1 và 2: (Nguồn: Tài chính số 5/2000, T4, T5) Cơ cấu vốn và các quỹ của các DNBH phân theo thành phần kinh tế 1999 Doanh nghiệp cổ phần 9% Nhà nước 71% Doanh nghiệp liên doanh 7% Doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài 13% Doanh nghiệp cổ phần 100% vốn nước ngoài Nhà nước Doanh nghiệp liên doanh Trong bối cảnh cạnh tranh của cơ chế thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước vẫn duy trì vai trò chủ đạo của mình, thể hiện qua thị phần doanh thu phí bảo hiểm (năm 1999, doanh thu phí bảo hiểm chiếm 89,25% thị phần) và năng lực tài chính (năm 1999 vốn và các quỹ chiếm 70,9% trên tổng số vốn và các quỹ của tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm) Sang năm 2001 , năm đầu của thiên niên kỷ mới cũng là năm đầu tiên có nhiều hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở VN – năm đầu tiên có được một môi trường pháp lý hoàn hảo, đó là Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực chính thức kể từ ngày 1/4/2001. Nhằm giúp cho các tổ chức và cá nhân thực hiện tốt các điều quy định, ngày 1/8 Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 42/2001 / NĐ - CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và số 43/2001 / NĐ- CP quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Hướng dẫn thi hành các Nghị định trên, ngày 28/8 Bộ Tài Chính đã có Thông tư số 71/2001 /thị trường- BTC và số 72 /2001/ T T-BTC. Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành luật bước đầu đã buộc các doanh nghiệp môi gíơi, doanh nghiệp bảo hiểm tại VN rà soát lại điều kiện và khả năng hoạt động của doanh nghiệp mình, đăng ký bổ sung vốn điều lệ, chuẩn hoá lại nội dung chương trình đào tạo và tuyển dụng đại lý ….Các văn bản pháp luật đã được ban hành, các doanh nghiệp bảo hiểm đã bắt đầu thi hành luật, song khâu triển khai và hướng dẫn thi hành luật còn chậm. Tuy bối cảnh trong nước thuận lợi, tình hình kinh tế xã hội VN tương đối ổn định với mức tăng GDP 6,8% (6); thêm nữa, VN được đánh giá là nước có môi trường đầu tư an toàn nhất trong khu vực, song tình hình an ninh quốc tế, đặc biệt là khủng bố vào Trung tâm thương mại thế giới và Lầu năm góc ngày 11/9 đã làm tổn thất nghiêm trọng cho ngành bảo hiểm trên toàn cầu và sự ảnh hưởng đó không ngoại trừ các công ty bảo hiểm VN. Trước những thuận lợi và khó khăn phải đối mặt, các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm VN đều đã có những nỗ lực đáng kể trong cải tiến phương thức hoạt động nâng cao chất lượng phục vụ . Do vậy, hoạt động khai thác trong các doanh nghiệp bảo hiểm đều có sự tăng trưởng so với năm 2001, đặc biệt với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chỉ số tăng trưởng vượt qua con số 100%, đẩy mức tăng trưởng của toàn thị trường trong cả lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ lên 50%, vượt xa chỉ số tăng trưởng bình quân hàng năm mà Bộ Tài Chính đã hoạch định trong chiến lược phát triển thị trường 5 năm 2001- 2005 (7). Năm 2002, tổng phí bảo hiểm trên toàn thị trường VN trong nửa năm đầu là 3488 tỷ VND, tăng 59,8 % so với cùng kỳ 2001 (a). Theo số liệu của Vinare, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ có doanh thu phí ước đạt 1438 tỷ VND, tăng 40% so với 6 tháng đầu năm trước, nhưng do các loại hình nghiệp vụ có tái bảo hiểm ra nước ngoài chịu ảnh hưởng của xu thế tăng phí đồng loạt trên thị trường thế giới do đó đều có mức tăng phí đáng kể (b). Trong bảo hiểm phi nhân thọ, tình trạng cạnh tranh hạ phí có dấu hiệu giảm .Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong nước vẫn chưa vận động theo xu hướng chung của thị trường thế giới và các công ty bảo hiểm phi nhân thọ ngấm ngầm hoặc công khai cạnh tranh giành khách hàng bằng mở rộng điều kiện ở 1 số loại hình bảo hiểm . Trong khi đó tổn thất vẫn diễn ra. Tuy nhiên, năm 2002 vẫn được coi là năm có nhiều bước tiến của bảo hiểm VN. Bảo Việt kết thúc nửa năm với doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ lớn hơn 557 tỷ VND, tăng 31% so với cùng kỳ, trong đó bảo hiểm tài sản tăng mạnh và doanh thu bảo hiểm nhân thọ đạt 975 tỷ VND, bằng 114 % so với cùng kỳ năm trước (8). Còn Bảo Minh nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ tăng mạnh với bảo hiểm hàng hoá đạt gần 26 tỷ (9), Prudential, Manulife cũng đều có sự tăng trưởng trong các nghiệp vụ. Đồ thị 1: (Nguồn : Thời báo kinh tế 2000-2001 VN & thế giới, trang38 (2000, 2001: Thời báo kinh tế số 57,T9,13/5/02) Đơn vị: Tỷ đồng b. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ VN. Từ cuối 1999, do có chính sách mở cửa của nhà nước với sự tham gia của các công ty bảo hiểm nước ngoài như (Manulife: tháng 6/1999; Pudential; Bảo Minh : 10/1999; AIA: 2/2000) tình trạng “một mình một chợ “không còn nữa khiến cho thị trường BHNT VN đã thực sự trở lên sôi động . Khái niệm BHNT đã dần từng bước trở lên phổ biến hơn và được nhiều người quan tâm, do công tác đại lý, tuyên truyền quảng cáo của các công ty và thời lượng dành cho chuyển tải thông tin, phóng sự về BHNT ngày một nhiều nên có thể nói thị trường BHNT VN đang được “hâm nóng” lên. Bước sang năm 2000, hoạt động BHNT đã thực sự diễn ra trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều mặt như: khuyếch trương về danh tiếng và vị thế; cạnh tranh tuyển dụng đại lý; thu hút khách hàng tiềm năng …..Cạnh tranh đã thúc đẩy hoạt động trong mỗi công ty phát triển mạnh hơn ,nhanh hơn.Tính đến 31/12/2000, lực lượng cán bộ làm việc trong các công ty BHNT, đại lý tư vấn và khai thác bảo hiểm là hơn 15000 người, tăng lên gấp 8 lần so với 1999(10). Khách hàng đã nhận thức đầy đủ hơn về lợi ích của các sản phẩm BHNT. Bằng chứng là đã có khoảng 800.000 hợp đồng bảo hiểm được ký kết và đang có hiệu lực, doanh thu phí BHNT tích luỹ đến 31/12/2000 đã vượt qua con số 200 tỷ VND (11) với doanh thu riêng năm 2000 đạt 1285 tỷ VND (12). Với doanh thu phí BHNT như vậy có thể bước đầu khẳng định BHNT là một trong những công cụ tài chính vô cùng quan trọng và có hiệu quả nhằm “hút “ vốn trong dân cư, để “bơm “ trở lại các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội trong nước. Biểu đồ 3 (Nguồn:Tạp chí bảo hiểm số 1/2002, T20) Thị phần bảo hiểm nhân thọ theo doanh thu phí năm 2000 Bảo Việt 71% AIA 1% Manulife 8% Prudential 19% Bảo Minh CMG 1% Đồ thị 3: (Nguồn: - Tạp chí bảo hiểm số 1/2002, T20) - Thời báo kinh tế Việt Nam số 57, T2 (13/5/2002) (Nguồn :- Tạp chí bảo hiểm số 1/2002 - Thời báo kinh tế VN số 57,T2(13/5/2002) Biểu đồ 4: (Nguồn: Tạp chí bảo hiểm số 1/2002, T 20) Đồ thị 4: (Nguồn: - Tạp chí bảo hiểm số 1/2002 Thời báo kinh tế Việt Nam số 57, T2, (13/5/2002) Đồ thị 5: ( Nguồn: - Tài chính số 4/2002, Tài chính số 9/2002) Đồ thị 6: (Nguồn: Tài chính số 4/2002) Đồ thị 7: (Nguồn: Thời báo kinh tế số 57, T2, 13/5/2002 Tốc độ tăng doanh thu phí (so với năm trước) của toàn thị trường 1.742 1.06 142 160 117 0 50 100 150 200 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 % Đồ thị 8: (Nguồn: -Thời báo kinh tế số 57, T2, 13/5/2002 -Tài chính số 4/2002, T42) Nhìn từ đồ thị và biểu đồ ta thấy tốc độ tăng doanh thu của phí BHNT rất nhanh khiến cho BHNT từ một nghiệp vụ còn mới mẻ nay đã có doanh thu đạt và vượt doanh thu phí BHPNT, trở thành bộ phận vô cùng quan trọng của thị trường bảo hiểm. Cũng nhìn từ đồ thị và biểu đồ ta thấy dẫn đầu trên thị trường hiện nay vẫn là Bảo Việt – doanh nghiệp nhà nước và là doanh nghiệp duy nhất không có vốn đầu tư nước ngoài với thị phần 71,5% năm 2000 và giảm còn 54% vào năm 2001, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đạt 64,8% trong năm 2001 và cũng là doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới khai thác phủ khắp các tỉnh thành. Các doanh nghiệp khác cũng đạt được những kết quả rất tốt đặc biệt Prudential đã đạt được kết quả khá ngoạn mục, chỉ trong vòng hơn 2 năm Prudential đã vươn lên vị trí thứ 2 với gần 30% thị phần, trở thành một đối trọng lớn đối với Bảo Việt trên thị trường. AIA ,Manulife ,Bảo Minh CMG trong năm 2001 cũng gia tăng thị phần . Sang năm 2002, tổng doanh thu phí BHNT 6 tháng qua đạt 2050 tỷ VND, tăng 77% so với cùng kỳ năm trước. Còn nhớ đầu năm trước ( năm 2001) tổng doanh thu phí đạt 1158 tỷVND, nửa đầu 1999 là 190 tỷ VND (13). Tính đến ngày 1/7/2002, trên thị trường có tổng số 2346664 hợp đồng BHNT đang có hiệu lực điều đó có nghĩa là nếu như trong 6 tháng đầu năm 2001 có 387468 hợp đồng bảo hiểm được ký kết và duy trì, tăng 70% so với năm 2000 thì trong 6 tháng năm 2002 có 462691 hợp đồng dược ký kết và duy trì, tăng 19,41% (14). Đồ thị 9: (Nguồn:Tài chính số 9/2002,T42) Số lượng hợp đồng khai thác mới 842126 1188697 1567119 2346664 0 500000 1000000 1500000 2000000 2500000 Năm 2000 6T/2001 Năm 2001 6T/2002 Số hợp đồng Đồ thị 10: (Nguồn:Tài chính số 9/2002,T42) Số lượng hợp đồng có hiệu lực 483878 387468 819498 462691 0 200000 400000 600000 800000 1000000 Năm 2000 6T/2001 Năm 2001 6T/2002 Số hợp đồng Theo các chuyên gia bảo hiểm thì việc giảm tốc độ tăng trưởng cho thấy có một bộ phận thị trường bắt đầu bão hoà, việc khai thác BHNT bắt đầu gặp khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp BHNT phải mở rộng địa bàn khai thác ra các tỉnh thành cả nước. Các doanh nghiệp đang cố gắng phát triển mạng lưới, chi nhánh mà điển hình là Bảo Minh CMG, Prudential. Các công ty cũng tăng liên kết với ngân hàng để bán sản phẩm trong đó Prudential, AIA và Bảo Việt là những doanh nghiệp đầu tiên thiết lập quan hệ với ACB, HSBC và Ngân hàng Công thương . Từ những tình hình trên, chúng ta có thể có một cái nhìn tổng quan về thị trường bảo hiểm nhân thọ VN sau 5 năm hoạt động như sau: + Thị trường sôi động vận hành ngày một “trơn tru” cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Xét về mặt tích cực, cạnh tranh thực sự trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy thị trường phát triển. Chính nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của các doanh nghiệp đã giúp dân chúng nhận thức rõ hơn về BHNT, giúp đưa dịch vụ BHNT đến tận nhà khách hàng. Cũng nhờ cạnh tranh, các doanh nghiệp đã nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, chất lượng khai thác đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện điều khoản, quy trình nghiệp vụ, bổ sung các nghiệp vụ gia tăng giá trị (cho vay phí tự động, cho vay theo hợp đồng ,khôi phục hiệu lực hợp đồng …), hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động .Bước đầu đa dạng hoá kênh phân phối, trong đó đáng chú ý là mô hình đại lý, chế độ thù lao cho đại lý theo hướng hiệu quả hơn, phù hợp hơn với đặc điểm kinh doanh BHNT. Cạnh tranh cũng thúc đẩy các doanh nghiệp tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tuy vậy, hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh (như tung tin thất thiệt ), kinh doanh theo kiểu “chộp giật” đã xuất hiện, tác động xấu đến thị trường làm tổn hại đến hình ảnh của ngành mặc dù các doanh nghiệp đã đạt được thoả thuận hợp tác chung tại Bản ghi nhớ chung ngày 10/7/2000 nhằm thiết lập một thị trường cạnh tranh lành mạnh. Sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường BHNT thời gian qua còn tạo ra sự cạnh tranh liên ngành, trong đó rõ rệt nhất là sự cạnh tranh giữa hệ thống ngân hàng, bưu điện với ngành BHNT trong việc thu hút vốn nhàn rỗi từ công chúng. +Mặc dù là lĩnh vực kinh doanh chậm có lãi (đến thời điểm này tất cả các doanh nghiệp BHNT VN đều chưa có lãi) nhưng với tốc độ tăng trưởng “siêu mã “ (nếu tính từ khi mới bắt đầu triển khai, tốc độ tăng doanh thu BHNT bình quân trong những năm qua đạt 250% /năm, còn nếu tính từ 1999- năm bắt đầu có sự gia nhập của các doanh nghiệp BHNT khác ngoài Bảo Việt, tốc độ doanh thu phí bình quân đạt trên 135%/năm, cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng GDP (c) ) có thể nói, hiện nay, BHNT là một lĩnh vực kinh doanh màu mỡ và bền vững, hấp dẫn các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Và việc tăng vốn của Prudential khẳng định điều này. + Sản phẩm đa dạng, dịch vụ phong phú, khách hàng thuộc nhiều tầng lớp. Khi Bảo Việt triển khai thí điểm BHNT chỉ có hai sản phẩm được đưa ra thị trường là BHNT hỗn hợp thời hạn 5 năm, 10 năm và An sinh giáo dục . Cùng với sự phát triển của thị trường, số lưọng sản phẩm đưa ra thị trường đã tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng. Đến nay trên thị trường đã có sự hiện diện của tất cả chủng loại BHNT truyền thống như hỗn hợp sinh kỳ, tử kỳ, trọn đời, các sản phẩm BHNT cách tân, các sản phẩm bảo hiểm hưu trí đồng thời nhiều sản phẩm bổ trợ cũng đã có mặt. Tính đa dạng còn thể hiện ở chỗ, trong số các sản phẩm BHNT đang bán trên thị trường có sản phẩm chia lãi cũng có sản phẩm không chia lãi, có sản phẩm bảo hiểm cá nhân lại có sản phẩm bảo hiểm theo nhóm, có sản phẩm “trọn gói” cũng có sản phẩm đơn lẻ, có sản phẩm có số tiền bảo hiểm cố định lại có sản phẩm có số tiền bảo hiểm tăng dần, có sản phẩm trả tiền bảo hiểm đáo hạn 1 lần lại có sản phẩm trả tiền bảo hiểm nhiều lần, có sản phẩm đóng phí định kỳ lại có cả sản phẩm đóng phí một lần, vừa có sản phẩm ngắn hạn lại có sản phẩm trung và dài hạn. + Với sự đa dạng về chủng loại các sản phẩm BHNT đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng, phong phú và toàn diện của nhân dân về BHNT. Số liệu triển khai cho thấy, sản phẩm hỗn hợp (kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm) đặc biệt là bảo hiểm trẻ em là những sản phẩm “bán chạy” nhất ,các sản phẩm mang tính bảo vệ đơn thuần như bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm chi phí y tế ít được ưa chuộng. Điều này cho thấy thị trường VN vẫn đang ở trong giai đoạn “ưa tiết kiệm” đồng thời cũng phản ánh truyền thống tiết kiệm, hiếu học, đức hy sinh vì con cháu của người VN, tuy nhiên nó cũng cho thấy BHNT chưa thực sự trở thành tập quán ở VN. Thêm vào đó, các sản phẩm bảo hiểm ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn, phản ánh tâm ly lo sợ lạm phát, e ngại đầu tư dài hạn của công chúng. Gần đây các doanh nghiệp lần lượt đưa ra các sản phẩm dài hạn hơn và nhiều sản phẩm bổ trợ mang tính bảo vệ như bảo hiểm bệnh hiểm nghèo ,bảo hiểm chăm sóc phụ nữ toàn diện …cho thấy những tín hiệu ban đầu về sự dịch chuyển sản phẩm. + Ngoài bảo hiểm nhân thọ, các doanh nghiệp còn cung cấp thêm các loại hình dịch vụ cho khách hàng tham gia BHNT như tư vấn du học, cho khách hàng vay tiền theo hợp đồng (policy loan), thẻ giảm giá, phiếu mua hàng … Với những nỗ lực của các doanh nghiệp, chất lượng dịch vụ BHNT ngày càng được nâng cao và mang tính toàn diện. + Kết quả triển khai thời gian qua cho thấy, khách hàng tham gia BHNT rất đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp, nghề nghiệp và thu nhập rất khác nhau .Xét theo yếu tố thu nhập, có khách hàng thuộc tầng lớp có thu nhập cao, thu nhập khá, thu nhập trung bình, do vậy có những hợp đồng có số tiền bảo hiểm chỉ 5 triệu đồng nhưng cũng có những trường hợp có số tiền bảo hiểm tới vài tỷ đồng. Nếu xét theo nghề nghiệp, những người làm công ăn lương ,kinh doanh chiếm phần lớn, khách hàng là nông dân còn chiếm tỷ trọng khá nhỏ. Hiện tượng trục lợi trong BHNT cũng đã xuất hiện . + Trong thời gian qua, môi trường pháp lý cho hoạt động bảo hiểm nhân thọ ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, từng bước thiết lập và duy trì một thị trường cạnh tranh lành mạnh ,nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực này. Trước hết là sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/4/2001, tiếp đó là các nghị định (Nghị định số 42/2001 /NĐ-CP ngày 01/8/2001 quy định chi tiết thêm một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm ,NĐ 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm) và thông tư hưóng dẫn (Thông tư số 71/2001/thị trường-BTC ngày 28/8/2001, Thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 21/8/2001 hướng dẫn thi hành Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 21/8/2001 của Chính phủ). Tuy vây, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh BHNT ở Việt Nam còn chưa đồng bộ, một số quy định chưa rõ ràng, chưa thực sự phù hợp với tập quán BHNT, chưa tạo sự linh động lớn nhất có thể cho các doanh nghiệp hoạt động. Ngoài việc xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, trong thời gian qua Nhà nước còn có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ, thúc đẩy thị trường BHNT như ưu đãi về thuế ( theo Luật thuế gía trị gia tăng, hiện nay BHNT không thuộc đối tượng chịu thuế. + Chất lượng khai thác cũng được tăng lên đáng kể biểu hiện qua số phí bảo hiểm bính quân/ hợp đồng ngày càng cao, công tác đánh gía rủi ro được chú trọng hơn, tỷ lệ huỷ hợp đồng của toàn thị trường dưới 6%/năm (15) thấp hơn rất nhiều so với thị trường khác. 2.Tình hình triển khai sản phẩm ASGD tại Việt Nam Mọi nghiệp vụ bảo hiểm dù nhân thọ hoặc phi nhân thọ cũng đều phải qua các bước: khai thác, đánh gía rủi ro, công tác quản lý, theo dõi và quản lý hợp đồng, công tác đề phòng, hạn chế tổn thất, công tác giám định. Mà nghiệp vụ BHNT thường là rất dài so với phi nhân thọ. Do vậy việc đánh giá kết quả kinh doanh của nghiệp vụ ASGD thuộc BHNT sẽ không được chi tiết bởi lẽ chúng ta mới triển khai ASGD được hơn 5 năm mà thời hạn tối thiểu cho một hợp đồng ASGD cũng là 5 năm. Vì chưa thể đánh giá chi tiết về tính hiệu quả được bài viết này chỉ nêu lên hoạt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB7843o hi7875m An sinh gio d7909c t7841i Vi7879t Nam M7897t s7889 b.DOC
Tài liệu liên quan