Luận văn Bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam trong truyện cười nhìn từ phương diện nội dung

Mục lục

Mở đầu 1

1. Mục đích, ý nghĩa chọn đề tài 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

3.1. Đối tượng 3

4. Phương pháp nghiên cứu 3

5. Kết cấu của đề tài 3

B. NỘI DUNG 4

Chương 1 Khái quát chung về truyện cười dân gian Việt Nam 4

1.1. Khái niệm truyện cười 4

1.1.1. Vị trí của truyện cười trong nền văn học dân gian 5

1.1.2. Phân loại truyện cười 6

1.2 Hiện thực lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam 7

Chương 2. Bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam trong truyện cười nhìn từ phương diện nội dung 9

2.1. Bộ máy cai trị thối nát 9

2.1.1 Sự bạc nhược của các bậc “phụ mẫu” 12

2.1.2 Sự lên ngôi của “ đồng tiền” trong luật pháp 14

2.2. Bộ mặt thật của các tầng lớp trên trong xã hội 16

2.2.2 Sự xuống cấp của đạo đức và các giá trị truyền thống 23

2.3 Những thói hư tật xấu trong đời sống quần chúng nhân dân 28

Chương 3. Giá trị của truyện cười trong việc phản ánh hiện thực xã hội 32

3.1. Sự nhận thức của nhân dân về thực trạng xã hội 32

3.2. Thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân 33

3.3. Truyện cười – màng lọc “ cải tạo” xã hội 34

Kết luận 37

TÀI LIỆU THAM KHẢO 39

 

 

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2583 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam trong truyện cười nhìn từ phương diện nội dung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy ta không chỉ thấy trong hệ thống truyện cười xuất hiện những truyện mà khi chúng ta đọc xong phải bật cười, đó là việc làm hành động của nhân dân trước bộ máy quan lại thối nát, như Toàn gạo với muối, một ông quan huyện ăn tiền rát lắm, xử với dân rất tàn nhẫn. Do đó mà khi quan bị đổi đi nơi khác, chẳng ai đến tiễn quan cả, quan mới trách, khi có người thưa, cả hàng huyện đã sắp đỗ lễ tiền quan rồi, đã làm cho quan bà mừng rỡ, vì sắp được nhận một món hời nào đó, nhưng rồi phải thất vọng khi chỉ toàn gạo và muối, đó là những thứ khi nhân dân dùng để tống khứ những quan ôn, có lẽ đó là một sự đáp lễ rất xứng đáng cho những kẻ làm quan “phụ mẫu” nhưng lại tham lam và dốt nát. Bên cạnh quan lại, thì hào trưởng, địa chủ, phú ông cũng là những đối tượng quen thuộc của truyện cười dân gian., những truyện như : Sang cả mình con, Anh cả lắc, Tại ông không hỏi, Gỉả nợ tiền kiếp...đã cho chúng ta thấy rõ được vẻ bên trong của những kẻ trực tiếp hút máu nhân dân, nhưng bề ngoài vẫn ra vẻ ân nghĩa, thương xót, như trong Trả nợ tiền kiếp là nhữg trong những truyện tiêu biểu nhất. Truyện kể rằng có một người chết, xuống âm phủ, Diêm Vương tra sổ thấy công nợ chưa trả hết, mới bắt hóa xuông làm kiếp trâu kéo cày trả nợ cho bọn địa chủ. Anh ta liền kêu rằng: “làm kiếp trâu không xong, trừ phi làm bố chúng nó mới giả hết nợ chúng nó được”. Diêm Vương hỏi tại sao, anh ta giải thích thế này: “làm kiếp trâu cũng làm có hạn thôi, làm bố chúng nó thời lo lắng cho chúng nó tất cả thì mới trả xong nợ chúng nó được. Lại còn một nỗi khi chúng bóp hầu nặn họng người ta ra quá đáng thì người ta lại gọi bố chúng nó ra người ta chửi”. Nghe đến đây mọi người đều khâm phục trí thông minh của người kể chuyện đã đặt ra một nghịch lí :“làm trâu chưa khổ, chưa nhục bằng làm bố bọn trọc phú’’. Rõ ràng đây là một câu chửi thâm độc mà khéo léo. Đó là một câu trả lời rất thông minh, nhưng đằng sau lại mang ý nghĩa sâu sắc, nó cho ta thấy được thực trạng của nhân dân trong xã hội lúc bấy giờ, đó là người dân có làm cho đến chết vẫn chưa trả hết nợ cho bọn địa chủ. Truyện cười đã giáng một đòn mạnh vào giai cấp thống trị, để thấy được bản chất bên trong của chúng. Ngoài mặt thì chúng nói đạo đức, bắt mọi người phải theo cái đạo đức mà chúng bày đặt ra, nhưng bản thân chúng lại làm điều ác, bất lương, không tuân theo những đạo đức đó, thì người ta chỉ căm ghét, khing bỉ chúng. Tiêu biểu Rắm của con đấy ạ!, có một nội dung phản phong sâu xắc, nó là một nhát búa bổ vào bộ mặt giả tạo của bà huyện ngu xuẩn kia. Ta hãy phu nhân của một bậc phụ mẫu, có cách ứng sử văn minh đối với người đầy tớ một cách trơ trẽn như thế nào, khi mà bà ta thấy xấu hổ với cái rắm của mình, nhưng anh đầy tớ hiền lành, đã không biết nhận thay cho chủ “Đồ ngu, đồ ngu, đồ không ra gì! Mày như người ta thì mày nhận là của mày có được không?”[17;183]. Khi người ta cái câu vô nghĩa lí, trái tự nhiên của bà huyện, là ta nhận thức rõ một trường hợp thất bại về sự ngu xuẩn, của một kẻ vì quá nặng đầu óc sĩ diện mà đã làm một việc không bình thường. Chúng ta phê phán hành động trái tự nhiên đó nên chúng ta cười, đồng thời chúng ta phê phán động cơ của hành động đó mà chúng ta ghét con người ấy. Hơn nữa qua câu truyện, chúng ta đã vạch trần được sự giả tạo của luận điệu “Những người ở giai cấp thống trị thì thanh cao, những người ở trong hàng ngũ nhân dân thì thô bỉ”[13;134]. Hoặc khi tố cáo một cách sâu xắc sự bóc lột của giai cấp thống trị, sự sung sướng của chúng, được xây dựng trên sự đau khổ của người khác, trong Sang cả mình con là một thí dụ, một lão đi chơi về, mùa hè nóng nực, mồ hôi hắn ra ướt như tắm, hắn bắt một chú nhỏ con quạt, chú nhỏ cắm đầu quạt cho chủ. Được một lúc, chú bé đã làm khô mồ hôi của chủ, nhưng mồ hôi chú bé lại chảy ra đầm đìa. Lão chủ nhà khoái quá hỏi rằng : “Ồ! mồ hôi của tao đi đằng nào ấy nhỉ?”. Chú nhỏ bèn thưa rằng: “Dạ! thưa ông nó sang cả mình con rồi ạ!”. Ở đây cái “bi” và cái “hài” đã kết hợp với nhau, khiến cho chúng ta phải cười, nhưng sau đó là tiếng cười rơi lệ, đối với chú bé, trong thực trạng xã hội lúc bấy giờ. Người ta còn có thể thấy được sự dốt nát của một lão trọc phú, nhưng lại luôn tỏ ra là người hay chữ Chốc nữa tao sang nên đã hiểu lầm ý bức thư của một người bạn gửi cho, để mượn ngựa chứ không phải mời lão sang chơi. Đó là bộ mặt thật của một kẻ giàu có, nhưng bên trong thì trống rỗng, luôn cố che dấu sự dốt nát của mình, vì sợ người ta biết. Những truyện cười trên đây đã tạo nên những nét chấm phá, làm phong phú cho bức chân dung về bộ máy cai trị của một thời kì xã hội phong kiến ở Việt Nam, đang biến thành trò hề trên sân khấu chính trị, chúng không còn giữ được vai trò quyền lực của mình như trước nữa, ngược lại chúng bị nhân dân ta đả kích, châm biếm mạnh mẽ. 2.1.2 Sự lên ngôi của “đồng tiền” trong luật pháp Đằng sau thế lực của chốn quan trường, không bao giờ có thể thiếu sự hiện diện của thế lực đồng tiền, đồng tiền đã len lỏi vào khắp mọi nơi, nó chi phối tâm lí một bộ phận lớn những người trong xã hội. Đặc biệt trong chốn quan trường lúc bấy giờ, nó ra sức làm mưa làm gió, thao túng cả pháp luật, người ta vẫn thường nói, pháp luật sinh ra là bảo vệ công lí, cho lẽ phải, và những người dân vô tội, vậy mà nó vẫn bị đồng tiền chuyển lay, cũng như có thể thay đen đổi trắng. Ở trong chốn quan trường, nó là món ăn tráng miệng không thể thiếu được của những ông quan chuyên ăn đút lót, để sử kiện, bên nguyên có thể bỏ ra một ít tiền, thì đối với quan mọi chuyện đều không có gì là không thể giải quyết được. Vì vậy mà trong dân gian có câu lưu truyền là “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ” hay “Tiền vào cửa quan như gang vào lò”. Trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, không chỉ là sự tha hóa, xuống cấp của bộ máy cai trị mà đó còn là sự lũng đoạn, tham nhũng của những bậc quan lại ở địa phương, ở đâu cần “pháp luật” thì ắt sẽ không thể thiếu người bạn đồng hành là “đồng tiền” đi cùng. Quyền lực của pháp luật thì thể hiện ở đằng trước công đường, còn đồng tiền thì đi bằng cửa sau, để sắp xếp mọi việc. Ta có thể bắt gặp điều đó trong truyện Nhưng nó lại phải bằng hai mày [17;179]. Đó là việc “cải với ngô” đánh nhau, rồi mang nhau ra kiện, cải vì sợ kém thế, nên lót trước tiền cho quan năm đồng, nhưng khi sử vẫn bị phạt đánh một chục roi, chỉ vì “ngô” kia cũng không vừa cũng đã đút sẵn tiền cho quan trước nữa, hơn cả số tiền của chàng cải kia. Vì vậy mà có chuyện “cải” kiện lại “xin xét lại. Lẽ phải về con mà” nhưng thật trớ trêu, khi quan lại nói ra một sự thật chẳng mấy chút vui vẻ gì “Tao biết mày phải nhưng nó phải bằng hai mày!”. Qua truyện trên ta thấy rằng ba con người kia đang thực hiện hành động mua bán pháp luật, thông qua dao dịch bằng tiền, hai kẻ kiện nhau, nhưng không dám chắc là mình đúng, nên đút lót cho quan, còn quan thì không cần biết phải trái, đúng sai là gì, chỉ cần tiền đi trước một bước là có thể xử xong tất cả, tùy theo túi tiền của từng người. Không chỉ có vậy, pháp luật luôn được bọn quan lại lợi dụng vào việc làm giàu, họ dùng cái quyền lực của mình để sai khiến pháp luật, ra sức làm những điều không phải, chỉ nhằm mục đích moi được tiền của người khác, do đó mà những kẻ biết thời thế “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” luôn là những kẻ được pháp luật bảo vệ, ngược lại những kẻ không biết xuôi theo đồng tiền thì sẽ bị đánh oan, vì vậy mà có chuyện, quan chưa biết đầu đuôi ra sao, đã cho lôi người ta ra đánh tàn tệ, đến lúc nào xì tiền ra mới thôi Dân giần quan. Đâu chỉ có thế, đồng tiền còn có một khả năng khác, là nó có thể làm cho người ta sao nhẵng cả chức trách, nhiệm vụ được giao, mà làm ngược với pháp luật, đó là chuyện Lục đinh và Lục giáp hai kẻ được thiên đình giao cho việc, bắt thầy Lại bỏ vào vạc dầu, vì đã làm sai ý của thiên đình, nhưng chỉ vì ham số tiền, cũng như ý định có một bữa nhậu xỉn, nên hai người đã không ngại lấy bớt đi số tiền được giao cho, nên mới có chuyện thầy Lại lên thiên đình kiện Trời, khi trời ra xem, thì chỉ có năm trăm quan, thì giận lắm “ở thiên đình còn có kẻ làm bậy, huống chi là ở dương thế”. Ở đây câu truyện còn có ngụ ý, ở trên trời còn có kẻ vì tiền mà làm sai pháp luật, thì ở dưới trần thế thì sẽ vẫn luôn có những kẻ vì tiền mà thay đổi cả pháp luật, đó sẽ là một xã hội “kim tiền”, nơi mà đồng tiền có thể lên ngôi. Chế độ phong kiến muốn tồn tại phải nhờ vào hệ thống tay say của chúng như : quan lại cường hào, địa chủ....với quyền lực của mình chúng ra sức bóc lột nhân dân ta, bằng các thứ thuế, và với chế độ chiếm hữu ruộng đất, làm cho nhân ta không có lấy một tấc đất để mưu sinh, mà suốt đời phải làm thuê, làm mướn, không công cho chúng, bề ngoài chúng luôn tỏ ra là những người mẫu mực, đáng kính, là bậc “phụ mẫu” của nhân dân, nhưng bên trong thì chẳng tốt đẹp gì, chỉ là bọn giả đạo đức mà thôi. Dẫu vậy thì “cái kim lâu ngày trong bọc còn phải lòi ra”, thì bộ mặt thật của chúng cũng có một lúc bị phơi bày ra bên ngoài, chúng không thể che giấu mãi được. Ta có thể thấy được bức chân dung của một ông quan huyện trong Quan huyện thanh liêm bề ngoài luôn tỏ ra là thanh liêm, xưa nay không hề nhận của đút lót bao giờ, xứng đáng là “quan phụ mẫu” của nhân dân nhưng đáng buồn lại không phải như vậy. Một lần nhờ quan giúp cho mà được kiện, dân làng mang lễ vật đến mấy lần đều bị quan gạt đi. Dân làng không biết phải làm như thế nào, bèn đến đút lót cho quan bà. Quan bà cũng nhất định từ chối, và cho biết rằng nhận của đút lót sẽ bị quan ông rầy la, dân làng năn nỉ mãi, quan bà mới nể lòng mà bảo rằng : “Quan huyện tôi tuổi Tí. Vậy dân làng hãy về đúc một con chuột bằng vàng, gọi là để làm vật kỉ niệm. Tôi sẽ cố trình cho quan giúp, may là lọt chăng...” Dân làng làm đúng như cách bà quan huyện bày cho, bà huyện nhận con chuột vàng, nhưng không dám nói với chồng, sợ bị trách, về sau quan huyện về hưu. Nhân lúc cần tiền tiêu bà huyện mang con chuột vàng ra chợ bán “Một hôm quan huyện bắt gặp bà huyện đem con chuột vàng ra, bèn hỏi nguồn gốc. Bà huyện cứ thực tình kể lại việc cũ, nghe xong, quan huyện đùng đùng nổi giận và mắng rằng : “Sao bà ngốc thế, ai lại bảo tuổi “Tí”! giá cứ bảo là tôi tuổi “Sửu” để họ đúc lấy một con trâu có phải hay biết mấy không nào!”[17;191]. Thì ra sự thanh liêm của quan chỉ là giả tạo, cũng có thể vì trong khi làm quan “ngài” đã vì những lí do nào đó, mà phải làm ra vẻ thanh liêm, nhưng lòng tham của “ngài” lại nhiều gấp mấy lần lòng tham của quan bà, cũng như con trâu to gấp mấy nghìn lần con chuột vậy.. Truyện Quan huyện thanh liêm đã soi rọi đúng tim đen của những quan lại khôn ngoan nhất, nhưng cũng giả đạo đức nhất. Qua truyện này người ta thấy được bộ mặt thật của các bậc quan lại, đồng thời sẽ không thêt tin vào sự trong sạch của bất cứ một viên quan nào được. Truyện đã khẳng định một chân lí phổ biến : “Đã là quạ thì con nào cũng đen, đã là quan thì tên nào cũng tham nhũng”. Nếu có lúc nào đó ông quan tỏ ra thanh liêm thì chỉ là sự giả dối để vòi vĩnh một món lợi to lớn hơn cho mình mà thôi. 2.2. Bộ mặt thật của các tầng lớp trên trong xã hội 2.2.1. Bức chân dung của các loại “thầy” Chế độ phong kiến tồn tại được không phải chỉ nhờ vào bạo lực của chính quyền, sự bốc lột tô thuế và chiếm hữu ruộng đất của bọn địa chủ mà còn phải nhờ vào một đội ngũ rộng rãi, những kẻ tuyên truyền và bảo vệ ý thức chính thống, đó là đội ngũ của các loại thầy bao gồm : thầy đồ, thầy lang, thầy bói, các sư sãi, thầy phù thuỷ.... Tất cả những hạng người vô ích cho xã hội ấy vẫn muốn bám lấy một địa vị cao, vẫn muốn đóng một vị trí quan trọng, họ luôn làm ra vẻ mình có một giá trị to lớn hơn là mình có trong thực tế. Đáng chú ý là bọn họ thường mang nhiều tính chất hài hước hơn là quan lại và địa chủ. Truyện dân gian kể về bọn chúng thường mang nhiều nội dung căm thù hơn là nội dung hài hước Phải thừa nhận rằng trong một giai đoạn lịch sử nào đó, các vị thầy này đã đóng những vai trò nhất định đối với lịch sử, và được nhân dân kính trọng, nhưng vào thời mạt kì của chế độ phong kiến các “thầy” đã bộc lộ tất cả những cái xấu xa, đê tiện của mình. Đó là sự dốt nát, tham ăn của thầy đồ: Thơ cái tháp chuông, Vẫn chỉ hai quan, Bất là cây bất, Thầy đồ liếm mật..... Những truyện về thầy đồ đã vạch trần thực chất của tầng lớp nho sĩ áo vải mộng công hầu, sống bám vào nông dân dưới hình thức của các nghề gõ đầu trẻ, đáng lẽ họ phải là những con người đáng kính trọng, đạo mạo, và gương mẫu về đạo đức, thì họ lại là những người dại gái trong Nam mô boong thù vặt cả học trò trong Bánh tao đâu. Sự bất lực của chế độ phong kiến trong việc đào tạo tri thức vào thời kỳ suy tàn của chế độ còn để lại trong kí ức của mọi người, ấn tượng về giá trị của những anh “anh đồ ba quan”. Sự thối nát của chế độ còn thể hiện trong thực chất của những ông đồ, những thói hư tật xấu của họ, xung quanh hai vấn đề, tri thức và tư cách. Về tri thức họ là những người dốt nát, nhưng lại luôn giấu sự dốt nát của mình, ngoài ra còn là những kẻ chuyên nguỵ biện ch sự dốt nát của mình, khoác lác, hay khoe chữ, chúng luôn thất bại, nhưng lại không bao giờ lấy đó là bài học để mà sửa chữa, khắc phục như Thầy đồ dốt, Sao văn tế, Tức cảnh sinh tình, Về đi cày, Tam đại con gà, Không phải nuôi chó... thí dụ tiêu biểu như trong truyện Sao văn tế là một thầy đồ vốn ít chữ, vì vậy mà khi người ta nhờ thầy viết cho một bài văn tế, và khi đọc xong đã làm cho mọi người phải bật cười, do sự dốt nát của mình mà thầy đã chép nguyên cả bài văn tế của cha mình cho nhà chủ, và giữ nguyên cái tên “Nguyễn Văn Mít” mà không thèm sửa lại, thầy đã không nhận thấy cái sai của mình để sửa chữa, mà còn cố cãi để biện hộ cho chính cái ngu xuẩn của mình “Văn tế sao nhầm được, họa là nhà ông chết lầm thì có”. Đó là những thầy nói khoác gặp thời nhận liều là “thánh thiên tử” về khoa “đỡ đẻ” Ăn chả ăn nem, là thầy đồ đọc nhầm “y hi” ra “ô hô” mà không biết thân, mà vẫn nói chữ để đến nỗi vẫn chỉ được hai quan của nhà chủ Vẫn chỉ hai quan, đó còn là loại thầy dạy học trò, không biết chữ gì, khiếp quá nói liều “Dủ dỉ là con dù dì” trong Tam đại con gà do không biết chữ “kê” là “gà”, do đó mà có chuyện thầy lí sự cùn “Tôi vẫn biết chữ “kê” mà “kê” có nghĩa là “gà”, nhưng tôi dạy cháu thế là dạy cho cháu nó biết tường tận tam đại con gà kia.”, là thầy đồ hỏi đường lên trời với chủ nhà, khi đang lục nồi ăn vụng trong bếp Thầy đồ nói liều. Trong hệ thống truyện cười, thì cũng không thể không nhắc đến hình ảnh của những thầy lang, được coi là “lương y như từ mẫu” từ trước đến nay luôn cứu người có bệnh, chữa trị cho họ được hồi phục, họ phải là những người có học thức sâu rộng, để có thể kê đơn, chữa bệnh cho người bệnh, chữa trị cho họ được khỏi bệnh, ấy vậy mà ngược lại, họ lại là những thầy lang rởm, với lối chữa bệnh gà mờ theo sách Kê thuốc theo đơn, uy lý chưa tinh thông, tác phong luộm thuộm, phản vệ sinh Phúc thống phục nhân sâm, Con mắt đọc, Chỉ có một con cua...thí dụ như trong Kê thuốc theo đơn kể về một thầy lang dốt, cứ động ai hỏi bệnh gì là y như rằng phải giở sách ra xem, vì vậy mà có chuyện bốc nhầm thuốc làm chết bệnh nhân, khi bị quan hỏi thì thầy đã trả lời một cách ngây thơ, đến thật thà cho sự rởm của mình “Bẩm tôi bốc thuốc theo sách, chứ có phải bốc bậy đâu ạ. Thánh dạy thế nào tôi làm thế ấy. Quan hỏi sách. Thầy liền đưa sách ra, giở đến trang có bài thuốc nhân sâm, thì thấy trang cuối có ghi “Phúc thống phục nhân sâm”(đau bụng uống nhân sâm), nhưng thầy chưa chấm câu, giở sang trang bên kia thì thấy hai chữ “tắc tử”(chết)[17;116]. Thầy lang ở đây đã không có trình độ chuyên môn, nhưng lại dám đứng ra tự nhận mình là thầy thuốc để rồi làm cho nhiều người bệnh bị thiệt mạng trong tay thầy, với cách chữa bệnh gà mờ của thầy, thật là đáng trách, họ còn là những thầy lang giết người Chỉ có một con ma, Lại còn trách tôi, Sao đã vội chết... Xã hội phong kiến lúc bấy giờ, thì việc mê tín dị đoan là một việc phổ biến, vì thế mà việc người ta đi xem tướng số, vận hạn của mình là một lẽ đương nhiên không có gì là sai trái cả. Do đó mà không ít người trở thành những nạn nhân, là miếng hời béo bở, của những kẻ lừa gạt, sống nhờ vào những ai lòng dạ cả tin, để chiếm chút đỉnh. Tiêu biểu như Nhà có động, Hỏi khách qua đường, Thầy lang và thầy bói... trong Hỏi khách qua đường [17;157] đã cho chúng ta thấy được trò lừa bịp của những người cho rằng mình biết tất cả những chuyện trong thiên hạ, có thể thấy được quá khứ cũng như tương lai, vậy mà đến việc nhỏ là tìm đường đi, thầy cũng không thể gieo quẻ, thử xem mình nên đi đường nào, lại bị lạc đường, phải hỏi khách qua đường, để rồi cuối cùng thầy đành chữa ngượng bằng cách trả lời: “Tôi đã bói rồi! Trong quẻ dạy, cứ hỏi khách qua đường thì biết!” vậy thì việc thầy, thầy cũng không biết, thì chuyện người khác thì làm sao thầy có thể biết được chứ? Đó chính là một sự cỗ hủ, mê tín dị đoan. Còn như sư sãi, họ tự xưng là người có nhiệm vụ giáo dục đạo đức, cứu nhân độ thế, và làm gương mẫu cho toàn thể xã hội. Cái xấu xa đáng ghét tìm thấy ở bọn người này càng nổi bật vì nó mâu thuẫn sâu xắc với cái tốt đẹp giả tạo mà họ phô trương để lòe bịp quần chúng. Cho nên không lấy làm lạ rằng số truyện trào phúng đả kích vào bọn họ là lớn hơn số truyện đả kích vào quan lại và địa chủ. Khi chế độ phong kiến suy vong thì các tầng lớp này ngày càng bộc lộ rõ những xấu xa của chúng, đó là những nhà sư phá giới . Thí dụ điển hình như trong Lá húng, lá húng, Đậu phụ, Sao đắt thế, Đẻ ra sư... ở Đẻ ra sư kể về một chị đàn bà lội xuống ao mò cua, chẳng may cua cắp phải bẹn đau quá, kêu váng lên. Một ông sư nhân đức đi qua bèn lại để cứu, sợ uế tạp, ông không dám mò tay bèn ghé miệng lấy răng cắn con cua ra. Chẳng ngờ và chẳng may con cua có một cái càng nữa, quắp ngay vào mồm sư. Hành động của nhà sư thật đáng cười, vì nhà sư thường là phải xa phụ nữ, mà ở đây con cua đã cắp bẹn của chị đàn bà với môi sư, không gỡ ra được. Củ chỉ sợ uế tạp, không dám dùng tay mà lại dùng răng cũng là một cử chỉ vô lí, qua đó chúng ta thấy được một phần nào bản chất của nhà sư, luôn nói là uế tạp, nhưng thực ra còn nhơ nhuốc hơn. Những truyện này biểu hiện óc nhận xét tinh vi và óc tưởng tượng phong phú của nhân dân. Nhưng dẫu có vạch trần những xấu xa của bọn người ăn bám ở bất cứ khía cạnh nào đi nữa rút cuộc thì nội dung cơ bản của những truyện này là: Bọn họ không biết một chút gì về nghề nghiệp mà họ làm, không xứng đáng được giữ cái địa vị mà họ muốn bám lấy. Truyện trào phúng đã chứng minh rằng có họ thì xã hội chỉ thêm phiền, không có họ thì xã hội đỡ rối loạn. Có lẽ hệ thống tiếng cười về đề tài này phong phú và làm nổ ra những tiếng cười giòn giã, sảng khoái hơn tiếng cười đả kích bọn thống trị về chính quyền. Cho đến những nhà sư xưa nay tôn kính là vậy, tự xưng là người của đức Phật, luôn có trách nhiệm giáo dục đạo đức, cứu nhân độ thế, và phải làm gương mẫu cho toàn thể xã hội. Nhưng bên trong chẳng thua gì kẻ phàm trần, trong :Lá húng, lá húng; Sao đắt thế; Giấu đầu hở đuôi... có thể thấy được sự tha hoá, biến chất không chỉ diễn ra trong hàng ngũ quan lại, trong nhân dân mà còn xuất hiện ở những kẻ tu hành Đậu phụ là chuyện sư cụ phá giới, ngồi xơi thịt cầy vụng ở trong phòng, chú tiểu biết mới hỏi, thì sư cụ lại bảo là :“Tao đang ăn đậu phụ” do đó mà có việc chú tiểu gọi “thịt chó” là “đậu phụ” khi sư cụ hỏi “Bạch cụ! Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa đấy ạ!”[17;162] thì ta mới thấy được bản chất thật của nhà sư, được che dấu cẩn thận, bởi bề ngoài hiền từ, nhân hậu là thế. Trong hệ thống truyện cười còn nổi bật lên một hiện tượng đặc trưng, là có một câu truyện gói tất cả các loại quan, loại thầy vào một để mà đánh, để mà lột mặt nạ giả tạo của chúng Nam mô boong, ba con người đại diện cho ba chức vị cao nhất trong xã hội, tiêu biểu cho đạo đức, lễ giáo, chính quyền phong kiến ở nông thôn lúc bấy giờ. Thầy đồ xưa nay đạo mạo, lẽ ra cái khăn rơi xuống đất thì thôi không them đội lên đầu, cái chiếu trên giường trải lệch thì không thèm ngồi mà nay lại phải chui vào hòm váy áo kêu “chích chích” như chuột. Thầy lí vốn xưa nay thét ra lửa, miệng có gang có thép, ngồi ngất ngưỡng chốn đình trung, mà nay phải chui gầm giường và kêu “gâu gâu” như chó. Còn nhà sư xưa nay trang nghiêm mà nay phải treo lên như cái chuông và kêu “boong! Boong!”. Có thể nói là “anh hùng tương ngộ” nhưng gặp nhau trong hoàn cảnh không “anh hùng” một chút nào. Đây chính là ba anh dại gái mà ngẫu nhiên lại là ba người tiêu biểu cho thế lực phong kiến, bề ngoài đạo mạo oai vệ, nay đã lộ nguyên hình. Truyện Nam mô boong. Có ý nghĩa đấu tranh xã hội rất mạnh mẽ. Tác giả dân gian đã khéo đẩy nhân vật tiêu cực, các con người đại biểu cho giai cấp phong kiến vào địa vị của những tên hề, của những kẻ tội phạm, của những kẻ chiến bại – địa vị rất thích đáng với họ. 2.2.2 Sự xuống cấp của đạo đức và các giá trị truyền thống Đến với truyện cười dân gian Việt Nam, có nghĩa là chúng ta đến với hàng loạt tiếng cười, mang nhiều giá trị khác nhau, đó không chỉ là tiếng cười về những thói hư tật xấu của con người, trái với công lí của cuộc sống, trái với luân lí xã hội, mà chúng ta còn đến với những quan niệm đạo đức làm người, trong xã hội cũ, lễ giáo phong kiến muốn trang trí cho trật tự phong kiến một vẻ nghiêm trang bên ngoài, muốn tô vẻ cho nhân vật phong kiến một nét mặt, một tư thế đạo mạo giả tạo, nhưng ẩn chứa đằng sau là một sự lộn xộn, sáo rộng. Đó là một xã hội mà đạo đức ngày càng xuống cấp, kéo theo những giá trị truyền thống lâu đời, nó đem lại cho chúng ta những tiếng cười sâu cay ra nước mắt. Trước hết đó là tiếng cười phê phán, nhưng còn bao hàm thái độ khinh bỉ, khi người ta đả kích những thói xấu, không chỉ có cái lố lăng, mà còn qua đó tố cáo một sự sa sút kém trong nhân cách Truyện con vịt hai chân, Thơm rồi lại thối... Truyện Con vịt hai chân kể rằng có một anh lính hay nịnh quan, hễ có việc gì hơi khác thường là lại tán tỉnh. Một hôm đang đứng hầu quan, trông ra sân thấy con vịt đang ngủ, co một chân lên, anh liền bẩm với quan rằng : “Bẩm quan lớn, con vịt…”, đang nói thì con vịt thức dậy, buông chân xuống quan hỏi: “Con vịt làm sao ?” Anh ta luống cuống đáp: “Bẩm… con vịt hai chân ạ !” Quan tưởng anh ta trêu, liền mắng rằng : “Vịt chẳng hai chân thì mấy chân”[17;87], rồi sai lính đè cổ anh nịnh ra, đét cho ba chục roi. Đã thể hiện sự khinh bỉ cao độ đối với những kẻ mất cả nhân phẩm, bán đứng nhân cách để xu nịnh bọn quan lại, không xứng đáng đứng trong hàng ngũ nhân dân, tác giả dân gian đã để cho anh nịnh hót kia bị chính kẻ mà anh ta muốn nịnh đánh cho một trận. Và trận đòn này thật là nhục nhã. Truyện vừa có ý nghĩa châm biếm sâu sắc, vừa có ý nghĩa giáo dục thấm thía. Hay tâm lí của những kẻ thực chất không hơn gì ai, mà lại bắt đầu muốn ngoi lên học đòi theo bọn thống trị, hoặc xu nịnh chúng như:Anh kẻ noi học làm thơ huê tình, Mời bác xơi ngọc, Có con giun đất..., người ta cười một anh lính trong Có con giun đất, không biết gì nhưng cũng muốn học đòi nịnh chủ giống anh lính của quan tuần, để làm vui lòng chủ, nhưng thật là trớ trêu cho anh ta trong việc so sánh sợi bún dính ở mép quan huyện lại là con giun “Bẩm cụ lớn, trên mép cụ lớn có con giun đất ạ!”[17;199] ở đây người ta cười sự ngu ngốc của anh lính, đồng thời qua đó còn muốn phê phán sự mất nhân cách của anh lính kia, đã không biết căm ghét kẻ bốc lột, áp bức nhân dân, mà còn đi làm trò hề cho chúng, nịnh hót chúng. Cười mấy anh thi sĩ giả cầy Vịnh cái chuông vừa bằng cái trõ theo trò lò, hay trong Vịnh cái đền, Thơ cái chuông. Không chỉ vậy chúng ta còn cười một anh keo kiệt, vì thể mà có cái chết thảm hại, đó là một nụ cười bi hài kịch. Bởi vì trong chúng ta, ai cũng biết rằng tính mạng là thứ quan trọng nhất, không gì có thể thay thế được, vì thế mà có câu “Người làm ra của, chứ của không làm ra người” là thế. Nhưng ở Ba quan thôi lại ngược lại, trong hoàn cảnh sự sống mong manh nhất, mà anh ta vẫn cố ngoi lên mặt nước, nói được một câu để hạ mức tiền thưởng từ năm quan xuống ba quan cho ai vớt được mình “Ba quan thôi! Năm quan đắt quá” thì điều đó thật đáng buồn cười. Chết đến nơi mà còn tính toán hơn thiệt như vậy, thì con người này không còn là con người nữa, ý nghĩa trung tâm và tích luỹ tiền đã chi phối anh ta đến nỗi, anh ta mất cả cảm giác về hiện thực, mất cả óc sáng suốt, mất cả khả năng thích nghi với hoàn cẩnh, mất cả khả năng tự bảo tồn. Anh ta thậm chí là mất cả tính chất sinh đọng , chủ động của con người, và đã trở thành con rối dưới sự điều khiển của thói keo kiệt đến bủn xỉn của mình, hoặc với anh hà tiện trong Thà chết còn hơn đã coi sinh mạng của mình còn rẻ hơn cả đồng tiền, ở trong hoàn cảnh anh ta đáng lẽ phải tính đến việc sống cái đã hãy hay. Nhưng anh ta đã biến thành cái máy giữ tiền, bảo vệ tiền, từ chỗ làm chủ tài sản của mình, anh ta trở thành nô lệ tài sản. anh ta không còn lương tri của một con người bình thường, biết tuỳ hoàn cảnh mà hành động cho hợp lẽ tự nhiên, anh ta có phần nào giống anh hề xiếc đang đi bỗng cuộn tròn lại, như bóng để mà lăn, chúng ta cười vì thấy anh hề xiếc vừa là người nhưng lại vừa không phải là người, thì chúng ta cười vì thấy gã hà tiện vùa là người, nhưng khhong phải là người, bởi vì người ta cười anh hề xiếc là người nhưng mà lại mất hình thể người, cũng như cười gã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBAI CUA GA.doc