Luận văn Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà

M ỤC L ỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM 4

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG. 4

1.1.1 Một số khái niệm. 4

1.1.2 Vai trò của người dân trong quản lý môi trường dựa vào cộng đồng. 7

1.1.3 Các nguyên tắc trong quản lý môi trường dựa vào cộng đồng. 8

1.1.4 Tiến trình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (CBEM). 11

1.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM. 17

1.2.1 Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý môi trường có sự tham gia của cộng đồng ở Việt Nam. 17

1.2.2 Các mô hình quản lý môi trường quản lý môi trường dựa vào cộng đồng hiện có ở Việt Nam. 17

1.2.2.1 Mô hình cam kết bảo vệ môi trường. 17

1.2.2.2 Mô hình tổ chức tự quản xử lý ô nhiễm môi trường. 18

1.2.2.3 Mô hình lồng ghép xoá đói giảm nghèo với BVMT. 19

1.2.2.4 Các phong trào tình nguyện . 19

1.2.2.5 Mô hình BVMT trong sản xuất công nghiệp. 20

1.2.3 Những thuận lợi trong việc áp dụng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam. 21

1.2.4 Những khó khăn trong việc áp dụng mô quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam. 22

1.2.5 Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong lĩnh vực quản lý môi trường dựa vào cộng đồng trong thời gian vừa qua. 23

1.2.6 Những tồn tại trong hoạt động quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam. 27

CHƯƠNG II:NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH QUẢN LÝ BẢO TỒN LOÀI VOỌC ĐẦU TRẮNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VƯỜN QUÔC GIA CÁT BÀ. 29

2.1 GIỚI THIỆU VỀ VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ. 29

2.1.1 Lịch sử hình thành vườn. 29

2.1.2 Điều kiện tự nhiên. 30

2.1.2.1 Vị trí địa lí. 30

2.1.2.2 Địa hình. 31

2.1.2.3 Khí hậu thuỷ văn. 32

2.1.3 Điều kiện kinh tế-xã hội. 33

2.1.3.1 Hiện trạng dân cư. 33

2.1.3.2 Hiện trạng cơ sở hạ tầng . 34

2.1.3.3 Hiện trạng phát triển kinh tế- xã hội. 34

2.1.4 Các giá trị và vai trò của Vườn quốc gia Cát Bà. 37

2.1.4.1 Các giá trị của vườn quốc gia Cát Bà. 37

2.1.4.2 Vai trò của Vườn quốc gia Cát Bà. 38

2.1.5 Giới thiệu về loài voọc đầu trắng tại vườn quốc gia Cát Bà. 38

2.2 THỰC TRẠNG BẢO TỒN TẠI VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ TRƯỚC KHI CÓ DỰ ÁN 39

2.2.1 Thực trạng quản lý tại Vườn quốc gia Cát Bà. 39

2.2.2 Những vấn đề trong việc bảo tồn mà Vườn quốc gia Cát Bà gặp phải trước khi có dự án. 41

2.2.2.1 Tình hình thực tế mà loài Voọc đầu trắng tại vườn đang gặp phải. 41

2.2.2.2 Các hoạt động quy hoạch sử dụng đất. 43

2.2.2.3 Các hoạt động du lịch ở Cát Bà. 44

2.2.2.4 Ý thức của người dân về việc bảo tồn . 45

2.3 GIỚI THIỆU MÔ HÌNH QUẢN LÝ BẢO TỒN LOÀI VOỌC ĐẦU TRẮNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ. 46

2.3.1 Giới thiệu về dự án . 46

2.3.1.1 Bối cảnh của dự án. 46

2.3.1.2 Thành viên chính thức tham gia dự án. 47

2.3.2 Nghiên cứu mô hình quản lý . 48

2.3.2.1 Mục tiêu mô hình hướng tới. 48

2.3.2.2. Các hoạt động được tiến hành để thực hiện các mục tiêu đó. 49

CHƯƠNG III:ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP,KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG. 58

3.1 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH 58

3.1.1 Đánh giá hiệu quả trực tiếp. 58

3.1.2 Hiệu quả gián tiếp của mô hình. 61

3.1.3 Những tồn tại từ mô hình cần giải quyết. 62

3.2 NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN MÀ MÔ HÌNH GẶP PHẢI. 66

3.2.1 Thuận lợi. 66

3.2.2 Khó khăn. 67

3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH. 68

3.3.1 Một số giải pháp. 68

3.3.2. Một số kiến nghị 73

KẾT LUẬN 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75

 

 

 

doc82 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2617 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiến tạo tây bắc – đông nam chạy giữa đảo. - Địa hình bài bốc . Ngoài địa hình cacsto phổ biến trên đảo còn có địa hình bài bốc như Cái vừng, Phù Long. Đặc biệt bài bốc Phù Long được hình thành chủ yếu do bùn cát phù sa vận chuyển từ phía đất liền ra, được lắng lại do tác động của động lực biển. Đặc trưng vật chất bài bốc ở đây chủ yếu là bùn cát phù sa có màu xám nên lẫn vật liệu hữu cơ rất phù hợp cho sự phát triển của các loại thực vật ngập mặn. Về phía tây bắc, đông nam của đảo cũng hình thành một số bài bốc nhỏ quanh chân núi, song ở xa dòng sông nên vật liệu trầm tích ở đây chủ yếu là sản phẩm phá huỷ do phong hoá từ đá vôi, đá silic. 2.1.2.3 Khí hậu thuỷ văn. - Khí hậu. Nằm ở vùng đông bắc nên khí hậu của Hải Phòng, Cát Bà nói chung và của Vườn quốc gia Cát Bà nói riêng mang những đặc điểm chung của khí hậu miền bắc nước ta, đồng thời nằm trên đảo nên Vườn cũng mang đặc điểm của khí hậu của các vùng ven biển. Đặc biệt huyện Cát Hải là một đảo nhỏ riêng biệt với đất liền nên bị chi phối nhiều của khí hậu đại dương. Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới nội chí tuyến, khí hậu miền bắc nước ta nói riêng mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm. Tổng nhiệt độ cả năm dao động từ 80000C-85000C. Nhiệt độ trung bình tháng khu vực Cát Bà dao động từ 160C đến 29,20C, trung bình năm dao động từ 21,50C đến 24,50C. Trung bình nhiều năm là 230C. Tương ứng với nhiệt độ trung bình năm là tổng nhiệt trên khu vực Cát Bà dao động trong khoảng 80000C đến 85000C. Về mùa hè nhiệt độ khá cao vào tháng 6, trung tâm của mùa nóng nhiệt độ trung bình nhiều năm 280C. Nhiệt độ cao tuyệt đối lên đến 38,50C . Về mùa đông nền nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1, tháng trung tâm của mùa lạnh nhiệt độ trung bình tháng xuống 160C. Nhiệt độ thấp tuyệt đối xuống 70C. Biến đổi nhiệt độ trong ngày, đêm thường thấp nhất vào buổi sáng rồi tăng dần đến trưa đạt giá trị cực đại sau đó là giảm cho đến sáng. - Độ ẩm. Độ ẩm không khí trung bình tháng tại khu vực Cát Bà dao động trong khoảng từ 80-92%. Biến trình năm của độ ẩm tương đối đạt lớn nhất vào tháng 3 (>90%) vào tháng 8 (>86%) và đạt cực tiểu vào tháng 11, tháng 12 (76,78%). Độ ẩm tương đối khu vực Cát Bà trung bình năm đạt 85,9%. Về mùa đông độ ẩm phân bố tương đối phù hợp với lượng mưa, nơi mưa nhiều độ ẩm lớn, nơi mưa ít độ ẩm nhỏ. Độ ẩm cao thường xuất hiện vào ban đêm, độ ẩm cao nhất thường vào khoảng 4-6 giờ, ban ngày độ ẩm thấp nhất vào khoảng 12- 13 giờ. - Mưa. Lượng mưa hàng năm ở Cát Bà dao động trong khoảng từ 1500mm-1800mm (số liệu từ 1992-1998). Bình quân nhiều năm đạt 1661mm, mưa tập trung vào mùa hè. Lượng mưa từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm khoảng 70% -90% lượng mưa cả năm. Lượng mưa 6 tháng còn lại chỉ chiếm từ 10-30%. Tháng 12, tháng 1, tháng 2 có lượng mưa nhỏ nhất, dao động từ 10mm-20mm. Lượng mưa bình quân trong 6 tháng mùa mưa dao động từ 200mm-300 mm, lượng mưa tháng 7, tháng 8 lớn nhất đạt trên 300mm. Số ngày mưa trung bình hàng năm tại Cát Bà là 95 ngày. Tháng 7, tháng 8 có số ngày mưa lớn nhất trong năm. 2.1.3 Điều kiện kinh tế-xã hội. Đảo Cát Bà có diện tích trên 29000 ha chủ yếu là đồi núi xen kẽ với các thung sâu. Do điều kiện thiếu nước ngọt khu vực này chỉ trồng được một vụ lúa năng suất thấp và một số lọai cây màu, cây ăn quả và cây công nghiệp. Men theo bờ biển là hệ thống eo, vụng, vịnh, bãi triều rất thuận tiện cho việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, có nhiều bãi tắm đẹp như Cát cò 1,2,3… tạo điều kiện cho phát triển du lịch. 2.1.3.1 Hiện trạng dân cư. Khu vực Đảo Cát Bà cơ bản có thị trấn Cát Bà và 6 xã như: Xã Phù Long, Gia Luận, Hiền Hào, Xuân Đán, Việt Hải, Trân Châu. Trong đó có một xã nằm chọn trong phạm vi vườn quốc gia là xã Việt Hải. Dân số đảo vào năm 1999 là 10631 người trong đó dân số thị trấn Cát Bà là 7510 người. Mật độ dân cư trung bình thị trấn Cát Bà là 88 người/ km2, xã Việt Hải là xã có diện tích tự nhiên lớn thứ nhì trong huyện nhưng dân cư thưa thớt với mật độ chỉ 3 người/ km2. 2.1.3.2 Hiện trạng cơ sở hạ tầng . Trong những năm gần đây tình hình cơ sở hạ tầng của đảo được cải thiện đáng kể. Trong những năm qua cùng với sự phát triển chung của cả nước nói chung và của Hải Phòng nói riêng, đảo Cát Bà cũng được đầu tư các dự án về điện, đường, nước sạch….Những năm qua các dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng kể từ năm 1990 đến nay đã phát huy tốt hiệu quả đầu tư như các dự án: Dự án xây dựng đường điện 35KW ra đảo (11/2002), dự án đường xuyên ra đảo Hải Phòng - Cát Hải - Cát Bà (hoàn thành 4/2002), dự án cấp nước thị trấn Cát Bà (lấy từ khe Sâu, xã trân Châu), dự án đường hồ, trạm xử lý nước thải Tùng Dinh - thị trấn Cát Bà. 2.1.3.3 Hiện trạng phát triển kinh tế- xã hội. Với đặc điểm là một huyện đảo ở Cát Bà cũng phát triển các ngành nghề đặc trưng như nuôi trồng thuỷ sản, khai thác thuỷ sản, chế biến thuỷ sản. Bên cạnh đó được thiên nhiên ban tặng phong cảnh hùng vĩ, nên thơ, đồng thời có các bãi tắm đẹp như cát cò 1, 2, 3.. đặc biệt là có vườn quốc gia Cát Bà với đa dạng sinh học phong phú và nhiều loài động vật quý hiếm là điều kiện phát triển ngành du lịch. - Ngành du lịch. Cát Bà đã tận dụng được ưu thế về vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên cho việc phát triển ngành du lịch. Ngày càng có nhiều khách sạn và nhà hàng được xây dựng để phục vụ du khách đến thăm đảo, đồng thời chất lượng các dịch vụ cũng ngày càng được nâng lên rõ rệt để thu hút du khách. Thực tế chứng minh, trong những năm gần đây lượng khách du lịch đến thăm đảo ngày càng nhiều, Cát Bà cơ bản trở thành một trung tâm du lịch có sức hấp dẫn của thành phố và khu vực. Lượng khách du lịch đến Cát Bà tăng từ 25000 lượt năm 1996 lên 75000 lượt năm 1998 và năm 2003 là 220500 lượt. Riêng với khách du lịch nước ngoài tăng từ 600 vào năm1998 lên 15000 vào năm 2003, đến hết năm 2005 số lượng khách du lịch đến với Cát Bà đạt 435000 lượt trong đó người nước ngoài là 122000 lượt. Qua con số thống kê về lượng khách du lịch đến thăm đảo chúng ta có thể thấy sự phát triển nhanh chóng trong ngành du lịch trên đảo, đặc biệt là khi đường giao thông xuyên ra đảo hoàn thành. Đồng thời cũng thấy được sức phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch trong những năm sắp tới. - Ngành dịch vụ hậu cần nghề cá. Trên đảo Cát Bà có cảng cá Cát Bà (khu Tùng Vụng) đã hoàn thành phần cầu cảng với tổng chiều dài 155m có khả năng tiếp nhận tầu đánh cá 400-500cv, phần cầu cảng cá Cát Bà có số lượng tàu thuyền đánh cá cập bến lớn nhất trong số các cảng cá Hải Phòng và vịnh bắc bộ. Hầu như tất cả các tầu thuyền lớn đều nhận dầu tại vịnh Cát Bà. Trong vịnh luôn thường trực 4-5 xà lan có sức chứa 100-150 tấn dầu. Trên đảo không có kho dầu dự trữ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vịnh cát Bà là một trong những vị trí neo đậu tránh trú gió bão lớn với sức chứa 800 chiếc /600cv. - Khai thác thuỷ sản. Thị trấn Cát Bà và xã Trân Châu nghề nghiệp chủ yếu là rê 3 lớp, nghề câu, nghề đăng đáy và một số tàu chụp mực nhỏ, các tàu đánh cá lớn của thành phố đều lấy vịnh Cát Bà làm căn cứ để ra khơi đánh cá và bán sản phẩm, nhận dầu. Nhìn chung Cát Bà có tiềm năng khai thác thuỷ sản nhưng chưa được đầu tư phù hợp về phương tiện đánh bắt nên quy mô khai thác cũng như hiệu quả hai thác còn hạn chế, đây là cơ hội để Cát Bà phát triển trong tương lai. - Ngành chế biến thuỷ sản. Cùng với ngành khai thác thuỷ sản thì trên đảo phát triển ngành chế biến thuỷ sản. Cũng như ngành khai thác, ngành chế biến chỉ mới phát tiển ở mức độ nhỏ, chỉ là các công ty TNHH, chế biến các mặt hàng đơn giải từ thuỷ sản và số lượng và quy mô còn hạn chế. Bảng2.1.3.3: Danh sách các cơ sở chế biến thuỷ sản tại Cát Bà. STT Tên cơ sở Địa điểm Sản phẩm 1 CT TNHH Nam Hải Cảng cá- TT Cát Bà Sản xuất bột cá và đá lạnh 2 CTTNHH Minh Châu Cảng cá – TT Cát bà Chế biến thuỷ sản 3 CT TNHH Tiên Tiến Thôn Bền- xã Trân Châu Sx bột cá 4 HTX Lập Lễ Cảng cá- TT Cát Bà Chế biến thuỷ sản 5 CTTNHHNguyễnHoàng Thôn phú cường- xã Trân Châu Sx nước mắm và bột cá (Nguồn, UBND huyện Cát Bà, năm 2005) - Nông nghiệp. Do địa hình của đảo chủ yếu là cacsto, đá vôi nên ở Cát Bà không có điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành nông nghiệp. Tổng diện tích lúa cả năm tập trung chủ yếu tại các xã Xuân Đán (48 ha), Trân Châu(15 ha), Việt Hải (15 ha), Hiền Hào (8 ha). Bên cạnh trồng một vụ lúa năng suất không cao, ở Cát Bà còn trồng một số loại hoa màu, cây công nghiệp nhưng nói chung thì sản lượng không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu trên đảo. - Y tế . Trên đảo Cát Bà hiện có một trung tâm y tế huyện đóng tại thị trấn Cát Bà và 7 trạm y tế đóng tại 6 xã, riêng xã Trân Châu có 2 trạm y tế xã. 2.1.4 Các giá trị và vai trò của Vườn quốc gia Cát Bà. 2.1.4.1 Các giá trị của vườn quốc gia Cát Bà. Vườn quốc gia Cát Bà với đặc trưng bao gồm hai phần là Đảo Cát Bà và một phần biển xung quanh nên ở vườn quốc gia Cát Bà có nhiều loại hệ sinh thái tiêu biểu của Việt Nam như rừng ngập mặn, rừng mưa nhiệt đới thường xanh quanh năm, rạn san hô, thảm rong…. Do vậy mà đa dạng sinh học ở đảo Cát Bà nói chung và Vườn quốc Gia Cát Bà nói riêng là rất phong phú. Theo thống kê cho đến nay riêng khu vực Cát Bà có tới 2320 loài động vật và thực vật đang sinh sống bao gồm: Bảng 2.1.4.1: Danh sách các loài động, thực vật ở Cát Bà. STT Tên loài Số lượng 1 Thực vật trên cạn 741 2 Động vật sống trong khu vực rừng 282 3 Rong biển 75 4 Thực vật ngập mặn 23 5 Thực vật phù du 199 6 Động vật phù du 89 7 Động vật đáy 538 8 Cá biển 196 9 San hô 177 (Nguồn:Theo ghi chép của nhóm nghiên cứu thực địa tại Cát Bà, năm 2005) Đặc biệt trong số trên 2000 loài động thực vật tại đảo cơ bản có tới 60 loài được coi là đặc hữu và quý hiếm được đưa vào sách đỏ của Việt Nam và thế giới. Trong đó động vật trên cạn có khoảng 30 loài như: đồi mồi, quản đồng, ác là, quạ khoang, Voọc đầu trắng, Voọc quần đùi trắng, trăn đất, kì đà nước, rắn hổ chúa, khỉ mặt đỏ, khỉ đuôi lợn, sơn dương, hươu sao. Thực vật trên cạn là 27 loài như: Chi đài, kim giao, lát hoa, re hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật, và có thêm 8 loài rong biển cần được bảo vệ như: Rong mơ mền, rong đá cong, rong thun thút, rong thuốc giun, các loài vật đáy có 7 loài như: ốc đục cái, trai ngọc, bàn mai, con sút, vẹm xanh, mực nang vân hổ. 2.1.4.2 Vai trò của Vườn quốc gia Cát Bà. Là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam vừa có đảo vừa có biển, đặc trưng này quy dịnh nên vai trò hết sức quan trọng của Vườn quốc gia Cát Bà. Sự phong phú, đa dạng của các loài động thực vật thêm vào đó là sự tồn tại của nhiều loài động thực vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ đã tạo nên lợi thế cho Vườn so với các khu vực bảo tồn khác của Việt Nam. Vườn quốc gia Cát Bà không chỉ có vai trò quan trọng với Việt Nam và đối với cả thế giới. Tầm quan trọng của vườn quốc gia Cát Bà còn được nâng lên khi ở đây là nơi duy nhất trên thế giới còn tồn tại loài Voọc đầu trắng tuy là với số lượng không lớn lắm, được coi là một trong hai loài linh trưởng quý hiếm nhất thế giới. Vai trò quan trọng của Vườn quốc gia Cát Bà đã được thể hiện rõ trong chiến lược bảo tồn của chính phủ Việt Nam khi chính phủ quyết định coi Vườn là khu vực bảo tồn đa dạng sinh học được ưu tiên nhất của Việt Nam. Tầm quan trọng của vườn quốc gia Cát Bà nói riêng và đảo Cát Bà nói chung càng được khẳng định rõ khi tháng 11 năm 2004 Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là khu vực bảo tồn sinh quyển trên thế giới. Với vị trí quan trọng của mình đối với Việt Nam và thế giới là một lợi thế để thu hút sự quan tâm của các tổ chức, quốc gia.. nhưng đồng thời cũng đặt ra những khó khăn, sức ép trong việc bảo tồn . 2.1.5 Giới thiệu về loài voọc đầu trắng tại vườn quốc gia Cát Bà. Voọc Cát Bà hay còn gọi là Voọc đầu trắng có tên khoa học là (trachypihecus) là loài linh trưởng cỡ lớn, thuộc họ khỉ, bộ linh trưởng. Voọc đầu trắng trưởng thành có trọng lượng cơ thể từ 5-10kg, chiều dài cơ thể từ đầu và thân là 0,41m - 0,95m. Đầu và vai ở con đực lông màu trắng nhạt, ở con cái lông màu thẫm hơn, vùng mông có vệt lông đuôi màu đen. Lúc mới sinh ra chúng có màu vàng vàng lớn len thì chuyển sang đen trắng. Thức ăn chủ yếu của Voọc đầu trắng là chồi non, lá non, và quả cây rừng. Voọc đầu trắng sống thành từng đàn từ 10- 15 con và chúng rất dạn người . Trong đàn Voọc con đi đầu đàn thường là con đực, chúng thường đứng trên vách đá, quan sát vì thế chúng thường bị bọn săn trộm bắn trước. Voọc Cát Bà có những tập quán rất thú vị, có lúc chúng ngồi yên như pho tượng nhưng có lúc lại rất linh hoạt. Hiện nay Voọc đầu trắng chỉ còn khoảng 60 cá thể. Trước đây Voọc còn nhiều 2400-2700 cá thể giảm xuống 200 cá thể vào những năm 80 và đến năm 2000 chi còn 105-135 cá thể. Sự giảm số lượng Voọc nhanh chóng như vậy là do nạn săn bắn Voọc để lấy xương nấu cao, lấy nước giải của Voọc hay làm thức ăn cho khách du lịch. Trong những năm gần đây do có sự quản lý chặt chẽ và các hoạt động bảo tồn Voọc mà số lượng Voọc được ổn định. 2.2 THỰC TRẠNG BẢO TỒN TẠI VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ TRƯỚC KHI CÓ DỰ ÁN 2.2.1 Thực trạng quản lý tại Vườn quốc gia Cát Bà. Vườn quốc gia Cát Bà được thành lập theo quyết định 78-CT ngày 31 tháng 3 năm 1986 của chủ tịch hội đồng Bộ Trưởng. Vườn quốc gia Cát Bà trước đây thuộc Bộ Lâm Nghiệp quản lý, hiện nay chịu sự quản lý trực tiếp của thành phố Hải Phòng. Ban quản lý vườn gồm 1 giám đốc, 1 phó giám đốc, và các nhân viên hành chính khác. Có trách nhiệm trước nhà nước về quản lý, bảo vệ, xây dựng và sử dựng Vườn theo các quy định của pháp luật. Thực hiện các biện pháp nhằm phát triển bền vững tài nguyên sinh vật, tài nguyên đất, tài nguyên nước. Đồng thời phối hợp với cấp chính quyền địa phương để bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khác, thực hiện các biện pháp phòng tránh, chữa cháy, phòng trừ sâu bệnh, ngăn chặn các hành vi gây thiệt hại đến rừng. * Về cơ sở hạ tầng hiện nay tại vườn . Cơ sở hạ tầng của vườn vẫn còn rất sơ sài bao gồm: - Một khu nhà làm việc của ban quản lý vườn kết hợp với nhà nghỉ của khách, có khu nhà của cán bộ công nhân viên quản lý vườn, nhìn chung bây giờ đã xuống cấp. - Một khu nghiên cứu và nuôi chim thú bán tự nhiên rộng khoảng 350m2 nhưng còn thô sơ chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn. - Một số cơ sở trưng bày mẫu động vật, thực vật và phòng thí nghiệm. - Ngoài ra còn có 10 trạm bảo vệ, 3 chòi quan sát, một số máng ăn, sân ăn, máng uống cho chim thú và các chuồng dẫn dụ. - Về đường giao thông chỉ có 2km đường Vườn trung tâm còn khang trang 12500m đường tuần tra bảo vệ rừng đi lại rất khó khăn. - Hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước còn thiếu thốn và chưa đáp ứng được nhu cầu của Vườn. * Về tài chính. Hoạt động của vườn dựa trên nguồn ngân sách nhà nước cấp hàng năm khoảng 500 triệu một năm, ngoài ra từ nguồn thu từ bán vé vào thăm vườn, và các hoạt động viện viện trợ, các hoạt động nghiên cứu được sử dụng từ vốn sự nghiệp khoa học theo kế hoạch hàng năm. 2.2.2 Những vấn đề trong việc bảo tồn mà Vườn quốc gia Cát Bà gặp phải trước khi có dự án. 2.2.2.1 Tình hình thực tế mà loài Voọc đầu trắng tại vườn đang gặp phải. Hiện tại số lượng Voọc trên đảo còn rất ít chỉ con khoảng 60 con. Số lượng Voọc trên đảo hiện tại bị chia nhỏ thành bảy nhóm tách biệt, trong đó có hai nhóm không còn khả năng sinh sản, mà nguyên nhân phân tán đàn Voọc là do: Việc sử dụng đất cho phát triển du lịch đã làm ảnh hưởng tới môi trường sống của Voọc Cát Bà. Các hoạt động du lịch tham quan Vườn, sự xuất hiện của con người cùng với hoạt những thói quen xấu làm cho môi trường của Voọc không còn nguyên vẹn như trước. Sự thay đổi này làm cho những con không thích nghi được sẽ bị loại trừ, những con còn lại thì tập quán sống cũng bị thay đổi. Hiện tượng chặt phá rừng để lấy đất phát triển sản xuất nông nghiệp. Người dân sống quanh rừng để phát triển sản xuất nông nghiệp họ không ngừng lấn chiếm đất rừng, chặt phá cây rừng để lấy đất. Khi mà chưa có một quy hoạch cụ thể về việc sử dụng đất thì hiện tượng trên còn diễn ra. Nạn săn bắt động vật hoang dã và tàn phá rừng, mà nguyên nhân sâu sa là do nghèo đói và thiếu hiểu biết về bảo tồn các loài động vật hoang dã của người dân địa phương. Người dân không có nghề đem lại thu nhập thường xuyên, họ thường vào rừng để khai thác trái phép cây, gỗ, săn bắt để bán. Mặt khác có những người có thu nhập nhưng do nhận thức kém về việc bảo tồn nên vẫn vào rừng khai thác trái phép. Địa phương vẫn chưa có một kế hoạch bảo tồn có tính hiệu lực cao, và việc bảo tồn cũng chưa được đưa vào chiến lược phát triển chung của địa phương. Địa phương do thiếu kinh nghiệm hoặc do thiếu tài chính nên vẫn chưa đưa ra được khung pháp lý về bảo tồn loài Voọc, đặc biệt là chưa đưa việc bảo tồn loài Voọc nói riêng và bảo tồn đa dang sinh học nói chung vào chiến lược chung của địa phương mình Cơ hội tạo thu nhập cho những hộ gia đình nghèo tại địa phương còn hạn chế cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch bảo tồn. Vẫn chưa có một hoạt động cụ thể nào để tạo điều kiện cho người dân nghèo tăng thêm thu nhập, gắn hoạt động tăng thêm thu nhập với bảo tồn thiên nhiên. Theo như bản đánh giá chi tiết của hai chuyên gia Nadler và Long thực hiện cũng như trên cơ sở báo cáo thực địa tiến hành trong 4 năm qua của tiến sĩ R.Stenke thuộc ZSCSP, thì mối đe doạ tiềm ẩn hiện nay đối với loài Voọc Cát Bà là : + Sự phân nhỏ môi trường sống và các cá thể do thiếu quy hoạch sử dụng đất. + Khả năng sinh sản của loài Voọc này thấp mà trước mắt chúng ta chỉ có thể tập chung giải quyết được mối đe doạ thứ nhất, tức là tạo môi trường thuận lợi hơn cho loài Voọc sinh sống. Việc tăng cường khả năng sinh sản của loài Voọc sẽ được thực hiện trong kế hoạch dài hạn của ZSCSP nhằm đưa các nhóm Voọc phân tán nhỏ lẻ trở lại các khu bảo tồn trong phạm vi vườn quốc gia. 2.2.2.2 Các hoạt động quy hoạch sử dụng đất. Hiện nay, chính quyền địa phương đang thực hiện việc giao đất giao rừng cho khoảng 400 hộ gia đình tại địa phương. Điều này đồng nghĩa với việc chia nhỏ khoảng 7000 ha đất gần khu vực vườn quốc gia. Phần đất này là một phần môi trường sống rất quan trọng cho loài Voọc, cùng với 9800 ha diện tích rừng thuộc vườn quốc gia. Việc phân nhỏ các cùng đất này sẽ làm đàn Voọc bị phân tán nhau. Việc sử dụng đất không có quy hoạch, hướng dẫn làm thay đổi tập quán sinh sống, bất kì một thay đổi nhỏ nào cũng có thể dẫn tới sự suy giảm khả năng sóng của đàn Voọc, trong tương lại có thể là sự tuyện chủng. Hợp đồng giao đất và sử dụng đất do Cục Kiểm Lâm thực hiện, sẽ giao quyền và trách nhiệm sử dụng đất cho người dân địa phương và hợp đồng có hiệu lực trong vòng 50 năm. Tuy nhiên một thực tế đặt ra là các hợp đồng này không rõ ràng bởi vậy chúng không khuyến khích người dân sử dụng và quản lý bền vững phần đất mà họ được giao. Hợp đồng không nêu ra được những ràng buộc cũng như hướng dân cụ thể cho người dân thực hiện, ví dụ quy định cụ thể về những loại cây có thể được trồng, thời gian vào rừng... để tạo điều kiện thuận lợi cho đàn Vooc tự do sinh sống mà cũng không ảnh hưởng tới người có rừng. Những quy định này hết sức có ý nghĩa khi thời gian giao rừng lên tới 50 năm, thời gian dài như vậy mà không có những quy hoạch đúng đắn thì ảnh hưởng tới loại Voọc là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy cần có sự hỗ trợ trong việc lập kế hoạch sử dụng đất cho người dân cũng như chính quyền địa phương. 2.2.2.3 Các hoạt động du lịch ở Cát Bà. Ở Cát Bà du lịch đang đựơc coi là một ngành công nghiệp phát triển. Cát Bà được coi là điểm đến lý thú không chỉ của du khách trong nước mà của cả du khách quốc tế. Với cảnh đẹp do thiên nhiên ban tặng hàng năm du lịch của Cát Bà tăng trưởng tới 40%, và dự kiến Cát Bà sẽ đón hàng triệu du khách đến thăm mỗi năm đến năm 2010. Sự phát triển du lịch bên cạnh việc tạo nguồn thu quan trọng cho người dân, chính quyền nó cũng tạo nên mặt trái trong công tác bảo tồn trên đảo. Sự phát triển ồ ạt của ngành du lịch trên đảo Cát Bà đang gây tác động xấu đối với môi trường trên đảo và dần phá huỷ vẻ đẹp tự nhiên của đảo Cát Bà. Phát triển du lịch trên đảo đang ảnh hưởng đến môi trường sống của các loài động vật trên đảo. Sự giảm sút các loài động vật hoang dã trên đảo là hệ quả của quá trình phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch và nhu cầu thưởng thức thịt các loài vật hoang dã của nhiều du khách tới đảo. Bên cạnh đó sự thiếu ý thức của nhiều du khách tới đảo cũng trực tiếp gây ra các vấn đề môi trường nghiêm trọng, ví dụ như việc xả rác bừa bãi, sử dụng quá nhiều nước và điện. Các du khách là mối đe doạ đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học trên đỏ bởi vì họ mua bán trái phép các loài động vật hoang dã để lấy thịt hoặc làm quà lưu niệm. Mối đe doạ đối với loài Voọc Cát Bà ngày càng tăng khi các thợ săn trong vùng đặt càng nhiều bẫy bắt Voọc và đem bán cho khách du lịch. Có thực trạng này là do trên đảo vẫn chưa có những quy định cụ thể về du lịch, ngày càng nhiều du khách muốn khám phá nhiều khu vực hoang dã trên đảo và như vậy vô hình chung đã làm ảnh hưởng đến tính nguyên sơ của đảo. 2.2.2.4 Ý thức của người dân về việc bảo tồn . Cũng như nhiều khu vực bảo tồn khác gặp phải, Vườn quốc gia Cát Bà phải đối mặt với một thực tế là nhận thức của người dân đối với các loài động thực vật hoang dã và ý nghĩa việc bảo tồn các loài động thực vật này còn rất thấp. Ở đây không chỉ là ý thức của người dân sinh sống trên đảo mà là cả ý thức của khách du lịch đến thăm vuờn. Ở Cát Bà vẫn còn có những hiện tượng người dân vào khu vực bảo tồn nghiêm ngặt để bẫy động vật, đốt lửa lấy mật ong, hay vào khu vực biển cấm để đánh bắt cá. Đặc biệt họ vẫn chưa thấy được mức độ quí hiếm của loài Voọc đầu trắng nên vẫn tìm cách bắt chúng để bán cho khách du lịch, vẫn còn các quán ăn từ thịt các loài động thực vật rừng ngay trên khu vực bảo tồn. Điều này cảnh báo cho chúng ta thấy rằng ý thức của người dân đang đe doạ trực tiếp tới hoạt động bảo tồn đang và sẽ tiến hành.Vậy tại sao người dân ở đây vẫn còn có những hành động như vậy? Phần lớn họ phải làm như vậy là do đói nghèo, không có nghề để ổn định cuộc sống buộc họ phải vào rừng để kiếm ăn kể cả các hành động không được phép. Nhưng bên cạnh đó, có một nguyên nhân nữa là do sự thiếu hiểu biết và nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn các loài động thực vật đó còn có giá trị hơn nhiều những gì họ kiếm được. Một dự án bảo tồn muốn thành công trong khi thực hiện cũng như đạt được sự bền vững sau khi kết thúc phải dựa vào cộng đồng địa phương. Vì vậy, nâng cao ý thức, nhận thức của người dân là giải quyết cái gốc rễ của vấn đề. 2.3 GIỚI THIỆU MÔ HÌNH QUẢN LÝ BẢO TỒN LOÀI VOỌC ĐẦU TRẮNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ. 2.3.1 Giới thiệu về dự án . 2.3.1.1 Bối cảnh của dự án. Dự án nhằm bảo vệ loài Voọc đầu trắng trên đảo khỏi nguy cơ tuyệt chủng. Loài Voọc này là loài động vật đặc hữu của đảo Cát Bà nằm ở khu vực đông Bắc Việt Nam. Loài Voọc đã được đưa vào danh sách của IUCN là một trong hai loài linh trưởng quý hiếm nhất trên thế giới hiện nay. Đảo Cát Bà và Vườn quốc gia Cát Bà được công nhận là khu vực ưu tiên bảo tồn của Việt Nam, của khu vực và thế giới bởi vì đây là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật quan trọng của khu vực như những dải san hô, rừng đước và những núi đá vôi nhiệt đới. Khu vực này còn đặc biệt quan trọng vì có những loài động vật đặc trưng của vùng, được công nhận là những động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Tầm quan trọng của khu vực đảo Cát Bà và Vườn quốc gia Cát Bà đã được công nhận trong kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia của chính phủ Việt Nam. Kế hoạch này còn khẳng định Vườn quốc gia Cát Bà là khu vực được ưu tiên bảo tồn lớn nhất. Tiếp theo vào tháng 11 năm 2004 Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là khu vực bảo tồn sinh quyển thế giới càng khẳng định rõ hơn tầm quan trọng của đảo Cát Bà nói chung và của Vườn quốc gia Cát Bà nói riêng. Mặt khác gần đây, uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã được trao quyền quản lý vườn quốc gia và họ đã đề nghị các đối tác của dự án hỗ trợ một chương trình bảo tồn loài Voọc và các loài động thực vật trên đảo trong khuôn khổ Kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia. 2.3.1.2 Thành viên chính thức tham gia dự án. Cơ quan thực hiện: Vườn quốc gia Cát Bà. Cơ quan tài trợ: Chương trình Bảo tồn di sản Thiên nhiên Khu vực (RNHP) Thời gian thực hiện: 6 tháng từ ngày 1/11/2006 đến ngày 30/4/2007. Vốn tài trợ: 175216 AU$ Cơ quan đại diện: Quỹ Ôtraylia vì nhân dân châu á và thái bình dương (AFAP) AFAP là một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Sydney, Australia. Thành lập từ năm 1968, có văn phòng đại diện tại Hà Nội, Việt Nam và hoạt động theo luật pháp Việt Nam. AFAP là một tổ chức hoạt động trên nhiều lĩnh vực cùng hợp tác chặt chẽ với tổ chức AusAID và DIFD của Anh để thực hiện một số các dự án về môi trường, y tế, giáo dục, nông nghiệp và các lĩnh vực nông thôn khác. Hiện nay, AFAP đang quản lý các dự án với tổng giá trị 15 triệu đôla mỹ do AusAID tài trợ. Là một tổ chức quốc tế bao gồm các tổ chức đối tác và các thành viên có mặt tại 30 quốc gia trong khu vực Thái Bình Dương, Nam và Đông Á, Bắc và Nam Châu Phi. Với một mạng lưới hoạt động rộng lớn, AFAP còn hỗ trợ cho những sáng kiến phát triển môi trường bền vững nhằm phục vụ lợi ích củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV7076.DOC