Luận văn Các dạng lỗi điển hình về phát âm phụ âm tiếng Đức

Mục lục

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Phạm vi và nội dung của đề tài

2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.2. Nội dung của luận văn

2.3. Giới hạn của đề tài

3. Phương pháp nghiên cứu

4. Những đóng góp của luận văn

5. Bố cục của luận văn

CHƯƠNG 1: Những khái niệm liên quan

1. Các tiêu chí phân loại và miêu tả phụ âm

2. Cấu trúc âm tiết và hệ thống phụ âm tiếng Đức.

2.1. Cấu trúc âm tiết tiếng Đức.

2.2. Hệ thống phụ âm tiếng Đức

2.3. Miêu tả các nét khu việt của phụ âm tiếng Đức.

2.3.1. Các phụ âm tắc.

2.3.2. Các phụ âm xát

2.3.3. Các âm mũi

2.3.4. Các bán âm

2.4. Mối tương quan giữa âm và chữ ở các phụ âm

3. Âm tiết và hệ thống phụ âm tiếng Việt

3.1. Âm tiết tiếng Việt

3.2. Hệ thống phụ âm tiếng Việt

3.2.1. Hệ thống phụ âm đầu

3.2.2. Hệ thống phụ âm cuối 2

3.2.3. Mối quan hệ giữa âm và chữ của hệ thống phụ âm tiếng Việt

4. Những nét tương đồng và dị biệt của hệ thống phụ âm tiếng Đức và tiếng Việt.

4.1. Sự tương đồng và khác biệt của cấu trúc âm tiết

4.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thống phụ âm.

4.2.1. Các phụ âm đơn.

4.2.2. Tổ chức các phụ âm.

5. Khái niệm giao thoa và lỗi phát âm

5.1. Khái niệm giao thoa 5

5.2. Khái niệm lỗi và phân tích lõi 5

CHƯƠNG 2: Các dạng lỗi điển hình về phát âm phụ âm tiếng Đức

1. Phương pháp xác định lỗi phát âm phụ âm tiếng Đức

1.1. Xây dựng bảng từ khảo sát lỗi

1.1.1. Nguyên tắc xây dùng bảng từ khảo sát lỗi

1.1.2. Bảng từ khảo sát lỗi

1.2. Chọn đối tượng để khảo sát lỗi phát âm

1.3. Các bước thu thập tư liệu

1.4. Phân loại và đánh giá các dạng lỗi

1.4.1. Quan niệm về lỗi phát âm

1.4.2. Cách xác định lỗi cụ thể

1.4.3. Phân loại, thống kê và miêu tả các dạng lỗi phát âm phụ tiếng Đức.

2. Kết quả phân tích các lỗi phát âm phụ âm tiếng Đức

2.1. Các phụ âm đơn

2.1.1. Phụ âm đơn đứng trước nguyên âm

2.1.2. Phụ âm đơn đứng giữa nguyên âm.

2.1.3. Phụ âm đứng sau nguyên âm

2.2. Các cụm phụ âm

2.2.1. Cum phụ âm đứng trước nguyên âm

2.2.2. Cum phụ âm đứng sau nguyên âm

CHƯƠNG 3: Bước đầu giải thích nguyên nhân gây lỗi và một số biện pháp khác phục hồi lỗi phát âm

1. Các nguyên nhân gây lỗi

1.1. Giao thoa ngôn ngữ

1.2. Giáo trình tiếng Đức.

1.3. Phương pháp dạy ngoại ngữ.

1.4. Môi trường học

1.5. Ý thức về việc rèn luyện phát âm

1.6. Đặc điểm tâm lý người Việt khi học ngoại ngữ

2. Giài pháp đề nghị đối với việc khắc phục các lỗi phát âm phụ âm tiếng Đức

2.1. Truyền đạt kiến thức ngữ âm cơ bản đồng thời với việc luyện tập phát âm

2.2. Bài tập luyện phát âm phụ âm tiếng Đức

2.3. Tạo một môi trường học ngoại ngữ thuận lợi

2.4. Thái độ đối với lỗi phát âm

2.5. Sử dụng phương pháp dạy học mới

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC 1 2

PHỤ LỤC 2

 

 

 

 

doc170 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3206 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các dạng lỗi điển hình về phát âm phụ âm tiếng Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t; [Nt«] 7 folgt 4 3 40% 30% [lkt] > [-gt«] > [-kt] 8 die Wurst 3 3 30% 30% [rst] > [- -t] > [-st«] 9 der Arzt 3 3 30% 30% [tst] > [a - st] > [a-ts«] 10 der Markt 3 30% 30% [fkt] > [-k-] > [-kt«] Nhận xét: Tỉ lệ lỗi của kiểu loại này chia thành 2 nhóm. Nhóm thứ nhất là tổ hợp 3 phụ âm với các phụ âm đầu tiên là [m, n, N]. Tỉ lệ lỗi của nhóm này không cao (trung bình là 30%). Nguyên nhân là các phụ âm [m, n, N] có thể kết hợp với các nguyên âm để trở thành âm tiết. Nhóm 2 phụ âm còn lại thì phụ âm cuối bị âm tiết hoá. Nhóm thứ hai là tổ hợp 3 phụ âm với phụ âm đầu tiên là [l, r]. Nhóm này có tỉ lệ lỗi cao hơn nhiều (từ 50% trở lên). Hình thức mắc lỗi tiêu biểu là các phụ âm [r, l] không được phát âm (nuốt âm) và phụ âm cuối bị âm tiết hóa. + Mẫu 4: VC1C2C3, Kiểu 14: [ l, m, n, b] + [st] Các lỗi phát âm của cụm 3 phụ âm đứng sau nguyên âm chính âm Kiểu 14: [ l, m, n, p ] + [st] được trình như Bảng 17 dưới đây: Bảng 17 STT Từ thử Lỗi Các dạng lỗi phát âm Số lượng Tỉ lệ % 1 Holst 2 2 20% 20% [lst] > [-st] > [-st«] 2 kommst 1 1 10% 10% [mst] > [m-t] > [mst«] 3 kannst 1 1 10% 10% [nst] > [n-t] > [nst«] 4 schreibst 2 2 20% 20% [bst] > [- st«] > [p«st] Nhận xét: Kiểu loại này có tỉ lệ lỗi không cao (khoảng 30%). Các tổ hợp 3 phụ âm [mst, nst] không khó vì các phụ âm [m, n] có thể kết thúc âm tiết; còn nhóm [st] thường phụ âm [t] được âm tiết hoá. Riêng các tổ hợp [lst, rst] thì lỗi điển hình là các âm [l, r] bị nuốt và phụ âm cuối [t] bị âm tiết hóa thành [t«]. Cụm 4 phụ âm + Mẫu 5: VC1C2C3C4, Kiểu 15: [lbst, rbst, rnst, lfst, mpft] Các lỗi phát âm của cụm 4 phụ âm đứng sau nguyên âm chính âm Kiểu 15: [lbst, rbst, rnst, lfst, mpft] được trình như Bảng 18 dưới đây: Bảng 18 STT Từ thử Lỗi Các dạng lỗi phát âm Số lượng Tỉ lệ % 1 selbst 2 1 1 1 20% 10% 10% 10% [lbst] > [-p«st] > [-pst«] > [-pt«] > [-ps«] 2 der Herbst 2 2 3 1 20% 20% 30% 10% [rbst] > [-p«st] > [-ps] > [-bst] > [-pst«] 3 ernst 4 2 5 40% 20% 50% [rnst] > [-n«st] > [-nt] > [-nst«ª] 4 hilfst 4 2 3 40% 20% 30% [lfst] > [-f«st] > [-fs] > [-fst«] 5 kọmpft 2 2 1 20% 20% 10% [mpft] > [m-f«t] > [m-ft«] > [m- -t«] Nhận xét: Kiểu loại này có kiểu lỗi rất cao như các thống kê ở bảng trên. Nguyên nhân gây ra lỗi được giải thích như sau: Tổ hợp 4 phụ âm sau nguyên âm của âm tiết là kết cấu phức tạp và quá xa lạ đối với các phát âm các âm tiết trong loại hình đơn âm tiết như tiếng Việt. Do vậy, việc mắc lỗi phát âm được xem như là tất yếu. Tổ hợp 4 phụ âm đứng sau nguyên âm tuân theo một mô hình chung giảm dần về độ vang: các phụ âm có độ vang lớn như [r, l, m, n, N] đứng cạnh nguyên âm; sau đó đến các phụ âm hữu thanh tắc hoặc xát [b, f, pf] và cuối cùng là là cụm phụ âm vô thanh xát – tắc [st]. Các kiểu lỗi phát âm trong trường hợp này là: nếu là phụ âm [m, n, N] đi liền các nguyên âm thì cùng kết hợp với nguyên âm để tạo thành âm tiết; nếu là các phụ âm [r, l] thì các âm này không được phát âm (nuốt âm) bởi trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt không có cấu trúc này. Do vậy, việc nuốt âm gây ra lỗi. Tổ hợp 3 phụ âm cuối còn lại sẽ có 1 phụ âm bị âm tiết hoá: [bst] được phát âm là [b«st] hoặc [bst«] [fst] được phát âm là [f«st] hoặc [fst«] [pft] âm [p] bị nuốt và chỉ được phát âm là [ft«] Tiểu kết Chúng tôi đã trình bày kết quả khảo sát 5 Kiểu (Kiểu 7 đến Kiểu 12) của Mẫu cụm 2 phụ âm; 2 Kiểu (Kiểu 13, 14) của mẫu cụm 3 phụ âm và 1 Kiểu (Kiểu 15) của cụm 4 phụ âm đứng sau nguyên âm chính âm. + Đối với các kiểu có tổ hợp 2 phụ âm sau nguyên âm - Kết quả cho thấy có 3 kiểu kết cấu gây ra nhiều lỗi phát âm nhất, đó là: Kiểu 9: [t, b, n, r, l] + [∫] Kiểu 11: [l] + [p, t, k, f, m, n, ch, s] Kiểu 12: [r] + [p, t, g, m, f, C, n ]. Tỉ lệ mắc lỗi cao nhất là Kiểu 9 (50% đến 60%). Hai kiểu sau có tỉ lệ lỗi trung bình là 30% đến 40%. Cấu trúc tổ hợp 2 và 3 phụ âm vốn không tồn tại trong cấu trúc âm tiết Việt. Nguyên nhân gây ra lỗi phát âm cao ở Kiểu 9 chính là trong tổ hợp 2 phụ âm có [S] đứng cuối âm tiết. Còn ở Kiểu 11 và 12 thì nguyên nhân lại là các phụ âm [l] và [r] trong cấu trúc tổ hợp hai phụ âm. - Hình thức lỗi chủ yếu vẫn tuân theo qui tắc giao thoa: dùng một âm tiếng Việt có cấu âm gần với phụ âm tiếng Đức để thay thế nó: [S] được thay bằng [s]. - Tổ hợp 2 phụ âm cuối âm tiết có phụ âm [l] thường được chuyển thành phụ âm [n]; phụ âm cuối được âm tiết hóa (Kiểu 11) . - Tổ hợp 2 phụ âm cuối âm tiết có phụ âm [r] thì âm này bị nuốt (Kiểu 12). + Đối với các kiểu có tổ hợp 3 phụ âm sau nguyên âm Tổ hợp 3 phụ âm với các phụ âm đầu đi liền với nguyên âm của âm tiết là các phụ âm [m, n, N] thì tỉ lệ lỗi của nhóm này không cao. Nguyên nhân là các phụ âm [m, n, N] có thể kết hợp với các nguyên âm để trở thành âm tiết. Nhưng nếu tổ hợp 3 phụ âm với phụ âm đầu đi liền với nguyên âm là các phụ âm [p, l, r] thì nhóm này có tỉ lệ lỗi cao hơn. Hình thức mắc lỗi tiêu biểu là các phụ âm [p, r, l] không được phát âm (nuốt âm) và phụ âm cuối bị âm tiết hóa. Qui luật này cũng chi phối các tổ hợp 4 phụ âm đứng sau nguyên âm. + Đối với các kiểu có tổ hợp 4 phụ âm sau nguyên âm Có thể đưa ra một mô hình chung về lỗi phát âm ở tổ hợp 4 phụ âm sau nguyên âm như sau: Nếu các phụ âm liền với nguyên âm của âm tiết là [m, n, N] thì chúng sẽ kết hợp với nguyên âm thành âm tiết; nếu các phụ âm liền với nguyên âm của âm tiết là các âm [r, l] các âm này thì không được phát âm (nuốt âm) bởi cấu trúc âm tiết tiếng Việt không có mô hình này. Đó chính là nguyên nhân gây ra lỗi (lỗi nuốt âm). Nhìn chung, người Việt gặp khó khăn khi phải phát âm một tổ hợp 3 phụ âm.Tổ hợp 3 phụ âm còn lại sẽ có một phụ âm bị âm tiết hoá. Thông thường phụ âm cuối là [t] chuyển thành một âm tiết là [t«]. Cũng có khi phụ âm đầu của tổ hợp này bị âm tiết hoá kiểu như: [b«st, [f«st]. Tuy nhiên, qui tắc thông thường là phụ âm cuối có độ vang yếu nhất sẽ bị âm tiết hoá. CHƯƠNG III. BƯỚC ĐẦU GIẢI THÍCH NGUYÊN NHÂN GÂY LỖI VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI PHÁT ÂM Những lỗi phát âm của sinh viên học tiếng Đức tại trường ĐHDL Phương đông đã được chúng tôi thống kê, miêu tả cụ thể ở Chương II. Trong chương này, chúng tôi thử tìm cách lí giải các nguyên nhân gây ra lỗi phát âm để từ đó tìm những giải pháp khắc phục các lỗi đó. 1. Các nguyên nhân gây lỗi Nguyên nhân gây lỗi trong việc học tiếng Đức nói chung và lỗi phát âm nói riêng của sinh viên Việt Nam do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, phân định một cách rạch ròi, minh bạch từng nguyên nhân thuộc về phía nào lại là một vấn đề không đơn giản. Điển hình nhất của nguyên nhân khách quan gây ra lỗi là sự khác biệt về mặt loại hình giữa hai ngôn ngữ Việt và Đức (đơn lập và biến hình). Sự khác biệt có tính cấu trúc bên trong này tất yếu tạo nên sự giao thoa tiêu cực và là nguyên nhân chính gây ra lỗi. Điển hình của nguyên nhân chủ quan là tính e dè, ngại giao tiếp của sinh viên theo những cung bậc rất khác nhau. Điều này gián tiếp gây ra lỗi phát âm. Tuy nhiên, bản thân sự e dè, hướng nội cũng lại là đặc điểm tâm lí mang tính dân tộc. Có những nguyên nhân không hoàn toàn là chủ quan hay khách quan, ví dụ như môi trường học tiếng Đức. Hiện nay, tại Hà Nội có nhiều môi trường giao tiếp tiếng Đức như Viện Goethe hay DAAD nằm trong khuôn viên Trường Đại học Bách khoa… Không có môi trường học tiếng khi học trên lớp là nguyên nhân mang tính khách quan của nhiều trường dạy ngoại ngữ. Nhưng sự năng động của cá nhân mỗi sinh viên tìm đến những môi trường như vừa nói trên lại mang tính chủ quan của mỗi học viên. Dưới đây, là những nguyên nhân chính mà theo chúng tôi gây ra lỗi phát âm. 1.1. Giao thoa ngôn ngữ Những kết quả về lỗi phát âm được chúng tôi trình bày trong Chương II, trước hết được giải thích bằng nguyên nhân trực tiếp là giao thoa ngôn ngữ. Sâu sa hơn là sự khác biệt mang tính loại hình giữa hai ngôn ngữ dẫn tới sự giao thoa ngôn ngữ. Đó có thể coi là nguyên nhân cơ bản nhất, mang tính tất yếu. Khi học phát âm tiếng Đức, sinh viên Việt Nam sẽ sử dụng những yếu tố, những cấu trúc của ngữ âm tiếng Việt áp đặt vào hệ thống ngữ âm tiếng Đức. Những yếu tố, cấu trúc tương đồng giữa hai ngôn ngữ tạo nên điều kiện thuận lợi, không gây ra lỗi. Những yếu tố không tương đồng giữa hai ngôn ngữ là nguyên nhân gây ra lỗi. Điều này có thể thấy rõ cả về phương diện lí thuyết cũng như thực tiễn dạy và học. Chúng tôi đề cập tới ba nội dung dưới đây: 1.1.1. Sự khác biệt giữa hai hệ thống phụ âm Như đã trình bày ở Chương I, nếu chỉ xét hệ thống phụ âm đơn thì về cơ bản giữa tiếng Đức và tiếng Việt khá giống nhau. Có tới 17 phụ âm đơn tiếng Đức tương ứng với các phụ âm tiếng Việt (xét một cách tương đối) gồm: [p, b, d, t, g, k, s, z, v, f, x, r, l, h, m, n, N]. Chỉ có 4 phụ âm có trong tiếng Đức không có trong hệ thống phụ âm tiếng Việt, đó là: [S, Z, C, j ]. Điều này dẫn tới hậu quả là: ở vị trí đầu âm tiết, các sinh viên Việt Nam không phạm lỗi phát âm đáng kể đối với 17 phụ âm giống nhau (xem Nhận xét Bảng 1 và 2 – Chương II). Nhưng đối với 4 phụ âm chỉ có trong tiếng Đức, học sinh thường mắc lỗi (xem Nhận xét Bảng 1 và 2 – Chương II). Một sự khác biệt nữa là, tiếng Việt chỉ có 6 phụ âm đứng cuối âm tiết [m, n, N, p, t, k] trong khi đó tiếng Đức 15 phụ âm đứng cuối âm tiết bao gồm cả 3 phụ âm vốn quá khác biệt với tiếng Việt [S, Z, C ] đã nêu. Do vậy, lỗi phát âm các phụ âm đơn tiếng Đức có thể dự đoán và thực tế cho thấy tỉ lệ mắc lỗi cao (xem Nhận xét Bảng 3 – Chương II). Hình thức lỗi điển hình của mẫu này là phát âm lệch chuẩn (biến âm) tức là chọn một phụ âm tiếng Việt có cấu âm gần giống để phát âm phụ âm khác lạ của tiếng Đức. Cụ thể là: [ S ] phát âm thành [s] [ Z ] phát âm thành [z] [ C ] phát âm thành [s / c] [ j ] phát âm thành [z] 1.1.2. Sự khác biệt của các tổ hợp phụ âm trong cấu tạo âm tiết Như đã trình bày trong Chương I, cấu trúc âm tiết tiếng Đức phức tạp hơn nhiều so với cấu trúc âm tiết tiếng Việt đặc biệt là các cụm phụ âm đôi, ba và cả bốn trước và sau nguyên âm làm hạt nhân của âm tiết. Đây được xem là nguyên nhân chính, cơ bản gây ra lỗi phát âm của người Việt. Tuy nhiên, ở từng vị trí, mức độ sai phạm lỗi lại khác nhau: a) Các cụm phụ âm đứng trước nguyên âm chính âm Kết quả thống kê các lỗi (xem Nhận xét các Mẫu 1, 2, 3- Kiểu 1 đến 6 – Chương II) cho thấy các Kiểu từ 1 đến 5 không có nhiều lỗi. Điều đó cho thấy, việc phát âm các tổ hợp 2 phụ âm đầu âm tiết đối với người Việt không khó khăn. Kiểu thứ 6 là tổ hợp 3 phụ âm đứng đầu âm tiết. Học sinh mắc lỗi ở kiểu này nhiều hơn các kiểu trước (%). Điều này được dự đoán là tất yếu bởi phát âm một cụm trên hai phụ âm vốn xa lạ với người Việt. Lỗi phổ biến là hình thức âm tiết hóa phụ âm đầu trong cụm 3 phụ âm.Thói quen phát âm đơn tiết dẫn đến “giải pháp” âm tiết hóa phụ âm đầu tiên của tổ hợp 3 phụ âm này. Tuy nhiên, nếu so với lỗi phát âm của các cụm từ đứng trước và dứng sau nguyên âm chính âm thì số lượng lỗi của cụm từ đứng sau nguyên âm cao hơn và phức tạp hơn nhiều. Điều này, theo chúng tôi có thể cắt nghĩa về mối quan hệ lỏng lẻo giữa phụ âm đầu và phần vần trong âm tiết Việt. Đây là cơ sở mang đặc điểm cơ chế phát âm giúp người Việt có khả năng phát âm dễ dàng các cụm phụ âm đứng trước nguyên âm chính âm của tiếng Đức. b) Các cụm phụ âm đứng sau nguyên âm chính âm Ở vị trí sau nguyên âm chính âm, sự khác biệt rất nhiều trong cấu trúc âm tiết giữa tiếng Việt và tiếng Đức là nguyên nhân gây lỗi phát âm. Trong khi trong tiếng Việt chỉ có 6 phụ âm đứng ở vị trí này, không có các cụm phụ âm thì trong tiếng Đức có tới 15 phụ âm đơn và các cụm từ 2 đến 4 phụ âm có thể đảm nhiệm vị trí này (xem Chương I). Thói quen phát âm đơn giản âm tiết tiếng Việt không cho phép người Việt dễ dàng phát âm các cụm phụ âm. Ngoài ra còn một đặc điểm là âm cuối của âm tiết tiếng Việt là một âm tiết đóng (ngậm), không bật ra trong khi các âm cuối tiếng Đức đều có hình thức mở tức là bật ra. Do những sự khác biệt đã trình bày, sinh viên học tiếng Đức thường mắc 3 loại lỗi tiêu biểu sau đối với việc phát âm các cụm phụ âm cuối âm tiết: Biến âm tức biến một phụ âm tiếng Đức thành một âm có cấu âm gần với phụ âm tiếng Việt hoặc không thể hiện trọn vẹn đặc điểm cấu âm của phụ âm tiếng Đức. Đây là kết quả của sự hạn chế số lượng ở vị trí cuối âm tiết Việt và cách kết thúc đóng vốn mang bản chất cố hữu của ngôn ngữ đơn lập . Nuốt âm tức bỏ bớt một hoặc hai phụ âm trong cụm phụ âm đứng cuối âm tiết tiếng Đức. Âm tiết hóa tức một phụ âm trong cụm phụ âm chuyển thành một âm tiết với nguyên âm [«] cho việc phát âm được dễ dàng. Hai lỗi sau cùng do thói quen chỉ phát âm các phụ âm đơn trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt, chưa có thói quen phát âm các cụm phụ âm cuối âm tiết. 1.1.3. Các qui tắc ngoại lệ về chữ viết tiếng Đức Hệ thống chữ viết tiếng Việt và tiếng Đức đều là hệ chữ cái La tinh. Những con chữ giống nhau, có cách phát âm tương tự như nhau là điểm thuận lợi cho việc phát âm. Ngược lại, sự không tương đồng giữa âm và chữ trong bản thân tiếng Đức cũng như giữa tiếng Đức và tiếng Việt lại là cản trở gây ra lỗi phát âm. Thực tế khảo sát đã chứng minh điều này: - Chữ viết theo hệ Latinh nhưng lại phát âm khác như chữ (v) ở đầu âm tiết được phát âm thành [f]; chữ viết (s) ở đầu âm tiết được phát âm thành [z] gây lỗi. - Cùng một chữ viết nhưng đứng trước nguyên âm và sau nguyên âm lại phát âm khác nhau: các phụ âm hữu thanh [b, d, g] khi đứng ở cuối âm tiết bị vô thanh hoá trở thành các phụ âm [p, t, k] gây lỗi. Các âm [C] và [x] trong tiếng Đức được thể hiện bằng chữ viết ch vốn là hai biến thể vị trí của một âm vị: sẽ được phát âm là [x] nếu trước chữ viết ch là các nguyên âm a, o và u; trong các trường hợp còn lại, được phát âm là [C] đã gây lỗi. - Một chữ cái nhưng lại là hai âm: chữ viết là x nhưng âm là [ks], ví dụ: Max [maks]; chữ viết là z nhưng âm lại là [ts], ví dụ: Zehn [tsen] đều gây lỗi. - Một tổ hợp chữ cái nhưng chỉ là một âm như tổ hợp chữ cái sch tương ứng với âm [S], ví dụ: Schule [Sul«] gây ra nhiều lỗi phát âm nhất. 1.2. Giáo trình tiếng Đức Các giáo trình hiện đang dạy năm thứ nhất trong ĐHDL Phương Đông: Themen aktuell Band I, II III và EM- Brỹckenkurs, EM-Hauptkurs, EM-Abschlus-kurs là những bộ sách tiếng Đức được biên soạn để dạy theo phương pháp mới: phương pháp giao tiếp (kommunikative Fremdsprachen-unterricht) với mục đích lấy mục đích giao tiếp là quan trọng nhất. Các giáo trình này có điểm mạnh là: tập trung vào nội dung giao tiếp. Do vậy các bài tập ngữ pháp, từ vựng và ngữ âm đều tập trung cho nội dung này. Ngoài ra, phục vụ cho nội dung giao tiếp còn có các băng, đĩa kèm theo giúp cho kĩ năng nghe – hiểu. Theo chúng tôi, các giáo trình này sẽ phát huy tác dụng nếu: Sinh viên là những em có năng khiếu ngoại ngữ, tiếp thu nhanh Giáo viên dạy biết kết hợp trong giờ học bổ sung thêm các kiến thức về phát âm. Tuy nhiên, các giáo trình này có những điểm yếu: không có các bài học dạy phát âm chi tiết ban đầu; trong các bài tiếp theo không có một chiến lược dạy phát âm một cách tổng thể. Theo chúng tôi, đây là điểm yếu của hệ thống giáo trình dạy tiếng Đức hiện đại (nếu chúng ta so sánh với các giáo trình dạy tiếng Anh thịnh hành như: Headway, Oxfprd University Press; English File Stundent’book, Oxfprd University Press ). Trước đây, đã có những giáo trình tiếng Đức chú trọng nhiều đến việc luyện tập phát âm và đưa lại hiệu quả giảng dạy rất cao như cuốn: Deutsch – ein Lehrbuch fỹr Auslọnder, Herder – Institut, VEB Verlag Enzunklopọdie Leipzig, 1972. Giáo trình này dành 10 bài đầu tiên chuyên luyện tập phát âm. Các bài tiếp theo vẫn có phần luyện tập phát âm để củng cố kiến thức. Rõ ràng là các giáo trình tiếng Đức đang được sử dụng tại Việt Nam hiện nay chưa giúp nhiều cho việc luyện tập phát âm. 1.3. Phương pháp dạy ngoại ngữ Phương pháp dạy ngoại ngữ thực sự đưa lại hiệu quả hoặc hạn chế hiệu quả của giờ học. Thực tế là trong điều kiện Việt Nam hiện nay, phần lớn các thầy, cô giáo chúng tôi vẫn thường chỉ sử dụng được các phương pháp dạy học truyền thống theo chủ nghĩa hành vi (Behaviorismus), trú trọng nhiều đến cấu trúc, bảng biểu và cách lặp lại các bài tập trong đó có bài tập luyện âm, ít chú ý đến các hoạt động thực hành và kỹ năng nghe - nói. Sinh viên hiếm khi được nghe được một giọng nói thực của người bản ngữ. Việc thường xuyên chỉ nghe giọng nói của thầy cô dạy mình đã hạn chế rất lớn đến khả năng giao tiếp của sinh viên. Hệ thống các bài tập để luyện tập chưa phù hợp và quá trình luyện tập chưa đủ để hình thành kỹ năng, nhất là kỹ năng nghe, nói. Ngoài ra, cách thức kiểm tra đánh giá cũng có ảnh hưởng rất lớn đến cách giảng dạy và học tập của giáo viên và sinh viên. Hình thức kiểm tra được sử dụng quá thiên về viết, ít chú ý đến thực hành miệng của sinh viên. Hậu quả là, sinh viên trong nhiều trường hợp làm đúng ngữ pháp nhưng lại không hoàn thiện kĩ năng phát âm. 1.4. Môi trường học Sinh viên Việt Nam học tiếng Đức ở Trường ĐHDL Phương Đông, chủ yếu do các giáo viên người Việt Nam giảng dạy. Có thể nói đây là một nguyên nhân quan trọng góp phần gây lỗi phát âm trong quá trình học tiếng Đức. Sự tiếp xúc ngay từ buổi đầu với giáo viên nước ngoài; được nghe cách phát âm chuẩn cả về mặt thực tế và tâm lí như một động lực làm giảm các lỗi phát âm. Thực tế là các giờ học hiện nay có sự trợ giúp rất nhiều của các phương tiện kĩ thuật như băng, đĩa… Tuy nhiên, kỹ năng nghe (cụ thể là nghe băng do người bản ngữ thực hiện) thường ít được triển khai trong quá trình dạy; sinh viên phụ thuộc nhiều vào giáo viên. Tỷ lệ sinh viên có thái độ độc lập, coi bài giảng của giáo viên chỉ là một phần kiến thức cần có, chỉ là định hướng, rất ít. Thói quen này làm cho giáo viên thường phát huy hết khả năng của mình để chiếm lĩnh thời gian trên lớp, còn sinh viên thì thu mình lại một cách quá khiêm tốn. Lối học “tự nhiên” thường thấy trong giờ học như ở nước ngoài ít có điều kiện thực hiện ở Việt Nam. Một thực tế khác là số lượng sinh viên trong mỗi lớp hiện nay thường khá đông (30 đến 40 sinh viên/lớp). Đây là một bất lợi đối với một lớp học ngoại ngữ, đặc biệt đối với lớp học ngoại ngữ theo phương pháp giao tiếp. Với số lượng lớn sinh viên như vậy giáo viên rất khó bao quát lớp trong các hoạt động theo cặp, nhóm và càng không đủ thời gian để luyện tập cho từng cá nhân. Bên cạnh đó, cách tổ chức lớp học vẫn hết sức truyền thống. Các sinh viên ngồi theo các dãy bàn kê dọc theo lớp và nhìn lên bảng nghe thầy cô giảng bài và ghi chép. Không có giờ học nào học sinh tự làm việc với nhau trong nhóm vòng tròn (Gruppenarbeit) để giúp nhau học, hoặc lớp học ngoài trời có tính chất dã ngoại để học sinh tự tìm hiểu, khám phá. Sinh viên chưa có môi trường rộng rãi để sử dụng kiến thức ngoại ngữ đã học. 1.5. Ý thức về việc rèn luyện phát âm Thông thường, trong dạy và học ngoại ngữ, người học quan tâm nhiều đến các qui tắc ngữ pháp như: các phạm trù ngữ pháp; các qui tắc hình thái và phép đặt câu… Điều này dẫn đến tâm lí cả người dạy và người học ít quan tâm, coi trọng việc luyện tập phát âm. Một thực tế khác là các qui tắc ngữ pháp quá nhiều, người học luôn phải lo học các qui tắc này để “đối phó” với các bài tập phải làm trong mỗi giờ học hoặc bài tập về nhà. Do vậy, họ ít có thời gian “quan tâm” đến vấn đề phát âm. Cả hai nguyên nhân trên dẫn tới hậu quả việc phát âm của người học Việt Nam vốn nói ngôn ngữ đơn lập, có thanh điệu khi học các ngôn ngữ biến hình như tiếng Anh, Pháp, Đức… nhìn chung là kém, rất đáng “báo động”. 1.6. Đặc điểm tâm lý người Việt khi học ngoại ngữ Lý do cuối cùng, theo chúng tôi là đặc điểm đáng chú ý thuộc về tính cách của người Việt nói chung và của sinh viên học ngoại ngữ nói riêng: sự rụt rè, không tự tin và không cởi mở. Mặc dù, khi hỏi nhiều sinh viên đều thấy rằng học ngoại ngữ trong đó có tiếng Đức là việc làm cần thiết. Nhiều em có động cơ học tập đúng đắn nhưng do tính rụt rè, e ngại nên các em không dám giao tiếp bằng ngoại ngữ trước các bạn, đặc biệt là trước thầy cô. Chính do đặc điểm tâm lí này dẫn đến thái độ thụ động của sinh viên trong học tập. Các em không có thói quen tranh luận trong lớp, nêu ý kiến của mình dù đúng hay sai. Tập thể lớp học cũng chưa có thói quen ủng hộ một bạn nào đó mạnh dạn phát biểu trên lớp. Nếu một bạn đứng lên nói sai, nhiều học sinh thường cười nhạo… Điều này càng làm cho các học sinh e ngại giao tiếp bằng ngoại ngữ trong giờ học. Quá trình học ngoại ngữ là quá trình hình thành thói quen mới. Sẽ là thành công cho những người học Việt Nam nếu họ khắc phục được những đặc điểm tâm lí mang tính tiêu cực là rụt rè mà mạnh dạn sử dụng ngoại ngữ mình đang học như một quá trình phát triển tự nhiên và sẽ được chỉnh dần qua giao tiếp thì chắc chắn việc học ngoại ngữ nói chung và phát âm nói riêng đạt hiệu quả cao. 2. Giải pháp đề nghị đối với việc khắc phục các lỗi phát âm phụ âm tiếng Đức Muốn khắc phục lỗi phát âm của sinh viên, chúng ta phải xuất phát từ các nguyên nhân gây ra lỗi đã được phân tích ở phần trên để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa lỗi phát âm. Trong số các nguyên nhân đã đề cập đến, theo chúng tôi, nguyên nhân đầu tiên (giao thoa ngôn ngữ) được coi là nguyên nhân quan trọng nhất. Một cách tổng quan hơn, có thể nêu ra các giải pháp cụ thể sau đây. 2.1. Truyền đạt kiến thức ngữ âm cơ bản đồng thời với việc luyện tập phát âm Theo chúng tôi, trước hết giáo viên dạy phát âm tiếng Đức phải đạt được các yêu cầu sau: - Có kiến thức đầy đủ và chắc chắn trước hết về ngữ âm đại cương ví dụ: kiến thức tối thiểu về hệ thống phiên âm quốc tế IPA. Sau đó là các kiến thức về hệ thống ngữ âm tiếng Đức và tiếng Việt. Những tri thức này cho phép họ phân tích được các tiêu chí phân loại hệ thống nguyên âm, hệ thống phụ âm của mỗi ngôn ngữ. Từ đó họ có thể chỉ ra cho học sinh sự giống nhau và khác nhau giữa tiếng Đức và tiếng Việt cũng như những cái chung và những cái đặc thù của cả hai ngôn ngữ. Ví dụ như, đối với hệ thống phụ âm tiếng Đức, giáo viên phải giải thích được: Có bao nhiêu phụ âm tiếng Đức giống với tiếng Việt 4 phụ âm khác biệt [S, Z, C, j ] có đặc điểm cấu âm như thế nào. Đối với các tổ hợp phụ âm, giáo viên phải biết: Cấu trúc âm tiết tiếng Việt đơn giản, không có các tổ hợp phụ âm ở trước và sau chính âm. Cấu trúc ấy chỉ là CVC (xem Chương I). Cấu trúc âm tiết tiếng Đức phức tạp hơn nhiều: có thể có đến 3 phụ âm đứng trước nguyên âm và 5 phụ âm đứng sau nguyên âm (xem Chương I)… Trên một cái nền chung về tri thức của giáo viên như vậy, sinh viên có đủ điều kiện để tiếp nhận những tri thức ngữ âm tiếng Đức vừa theo kiểu bắt chước mô phỏng (cảm tính), nhưng luôn luôn có sự kiểm soát của lý tính, qua sự hiểu biết chắc chắn và rõ ràng. Khi có nguy cơ mắc, bản thân sinh viên vẫn đủ tự tin xem xét cẩn thận lại được tính hệ thống của tri thức ngữ âm tiếng Đức và định vị được vùng lỗi của mình. Qua đó tìm ra được biện pháp phù hợp để khắc phục lỗi và tự hoàn thiện kĩ năng phát âm của mình. - Giáo viên phải tự hoàn thiện việc luyện phát âm để làm “chuẩn” phát âm cho sinh viên. Những phân tích về thực tế lỗi phát âm và nguyên nhân đều chỉ rõ: phát âm các âm vị độc lập là rất quan trọng bởi các tổ hợp nguyên âm hay phụ âm cũng chỉ là sự kết hợp của các âm vị độc lập lại với nhau. Nếu âm vị độc lập không được phát âm chuẩn ngay từ đầu thì các tổ hợp âm cũng bị lỗi. Chuẩn phát âm của giáo viên là nền tảng để luyện tập phát âm các âm vị độc lập. - Giáo viên cần sử dụng và phát huy tối đa hiệu quả của thiết bị băng tiếng, băng hình ngoại ngữ trong giai đoạn đầu học tiếng Đức (thực hiện trong các tình huống cụ thể của bài học). Nên cho sinh viên tiếp xúc càng nhiều càng tốt với việc phát âm chuẩn của người bản ngữ trong mọi tình huống giao tiếp. Ngữ liệu lời nói cung cấp cho sinh viên cần được xuất hiện trong ngữ lưu với tốc độ bình thường, tự nhiên và chính xác. Cách làm này có tác dụng giúp cho sinh viên tri giác trực tiếp và chính xác ngữ liệu về ngữ âm, ghi nhớ và tái hiện được tri thức, đồng thời rèn luyện được kỹ năng phát âm chuẩn xác ngay từ đầu. - Tăng cường khả năng giao tiếp cho sinh viên hướng tới việc yêu cầu sinh viên nói trôi chảy chính xác. Theo chúng tôi, trong trường hợp dạy phát âm cho sinh viên Việt Nam bậc đại học nên cân nhắc giữa sự trôi chảy, lưu loát hay sự chính xác, chuẩn mực. Dù gì đi nữa, để khắc phục tận gốc lỗi phát âm của sinh viên, giáo viên nên tập trung luyện cho sinh viên cách phát âm chính xác ngay từ đầu, như LENHAUSEN đã nêu rõ qua hai lý do sau: “Thói quen đúng được hình thành càng sớm càng tốt” và “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Do đó, ngay từ đầu, cần phải luyện cho sinh viên thói quen phát âm chính xác nhằm bồi dưỡng một năng lực giao tiếp vững vàng song song với việc cùng cấp cho các em ngữ liệu và hình thành năng lực ngôn ngữ. Để giao tiếp thành công cũng phải phát âm chính xác từ, trọng âm, ngữ điệu... Các mặt này cần được giảng dạy và rèn luyện trong những mẫu câu. Những mẫu câu này được đặt trong tình huống giao tiếp có mục đích. Giáo viên phải chú ý

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNNH (49).doc
Tài liệu liên quan