Luận văn Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu Tiếng Việt

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 2

3. Mục đích nghiên cứu 7

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 7

4.1. Đối tượng nghiên cứu 7

4.2. Phạm vi nghiên cứu 7

4.3. Nguồn ngữ liệu 8

5. Phương pháp nghiên cứu 8

6. Cái mới và những đóng góp của luận văn 8

7. Bố cục của luận văn 9

CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Quan hệ ngữ nghĩa 11

1.1.1. Định nghĩa 11

1.1.2. Đặc điểm của quan hệ ngữ nghĩa 15

1.1.3. Các dạng phổ biến của quan hệ ngữ nghĩa trong câu 15

1.2. Quan hệ cú pháp 16

1.2.1. Định nghĩa 16

1.2.2. Cách biểu hiện quan hệ cú pháp 17

1.2.3. Cách xác định quan hệ cú pháp trong câu 18

1.3. Sự tương ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa - quan hệ cú pháp 22

1.4. Một số khái niệm có liên quan khác 24

1.4.1. Khái niệm quan hệ từ 24

1.4.2. Khái niệm động từ quan hệ 27

1.4.3. Khái niệm kết trị và kết trị của động từ tiếng Việt 27

1.5. Tiểu kết 30

CHưƠNG 2: CÁC PHưƠNG THỨC BIỂU HIỆN

MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT

2.1. Nhận xét chung31

2.2. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ 32

2.2.1. Thành tố chỉ nguyên nhân 32

2.2.2. Thành tố chỉ kết quả 47

2.3. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng động từ quan hệ 54

2.3.1. Bản chất của các động từ quan hệ làm, khiến 54

2.3.2. Đặc điểm của các động từ quan hệ làm, khiến trong cấu trúc nhân quả 59

2.4. Tiểu kết 70

CHưƠNG 3: VẤN ĐỀ PHÂN TÍCH NGỮ PHÁP

KIỂU CÂU CÓ Ý NGHĨA NHÂN QUẢ ĐưỢC BIỂU HIỆN

BẰNG QUAN HỆ TỪ VÀ ĐỘNG TỪ QUAN HỆ

3.1. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả được

biểu hiện bằng quan hệ từ 71

3.1.1. Các ý kiến khác nhau về cách phân tích kiểu câu này 71

3.1.2. Ý kiến trao đổi về cách phân tích kiểu câu này 79

3.2. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả được

biểu hiện bằng động từ quan hệ 86

3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu về cách phân tích kiểu câu này 86

3.2.2. Ý kiến trao đổi đề xuất 88

3.3. Tiểu kết 90

KẾT LUẬN 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN 98

pdf100 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2216 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó ý nghĩa trung hòa. Cùng là một quan hệ từ nhƣng chúng lại đƣợc dùng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau. Dƣới đây, chúng tôi sẽ lần lƣợt miêu tả từng quan hệ từ thuộc nhóm này. * Quan hệ từ bởi Trong ý kiến của Hoàng Phê đƣợc dẫn ra trên đây, theo chúng tôi có điểm chƣa thật hợp lý. Theo cách hiểu của chúng tôi bởi cũng giống với những quan hệ từ chỉ nguyên nhân đích thực nhƣ nhờ, vì, do…, tức là không phải chỉ “biểu thị điều sắp nói ra là ngƣời hay vật gây ra trạng thái đã nói đến” mà còn biểu thị điều sắp nói ra là sự kiện, hoạt động gây ra trạng thái, kết quả nói đến. Nói cách khác, bởi không chỉ dẫn nối danh từ, đại từ mà còn dẫn nối vị từ, cụm chủ vị cũng giống nhƣ vì, do… Ví dụ: Làm nhiệm vụ giữa ngàn khơi trùng trùng sóng nƣớc, những khó khăn về vật chất không còn là vấn đề lớn đối với ngƣời lính đảo Trƣờng Sa, bởi họ luôn luôn nhận đƣợc sự quan tâm từ đất liền. (Báo Nhân dân. Ngày 20/07/2008) Bởi thất vọng về một ngƣời trƣởng nam đã tìm đƣợc lối xuất thân, cụ càng hiểu và yêu ngƣời con thứ. (Nguyễn Tuân. Một cảnh thu muộn) Cô say mê anh bởi cặp mắt dịu dàng, quyễn rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khoẻ mạnh, cân đối. (Nguyễn Khải. Mùa lạc) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngoài cách biểu hiện trên đây, bởi còn kết hợp với một số yếu tố khác tạo thành tổ hợp nhƣ: là bởi, bởi chưng, bởi vì đều chỉ nguyên nhân, lý do của sự việc, hành động. - Trong những tổ hợp này, theo chúng tôi, tổ hợp là bởi chƣa phải là một cấu tạo chặt đến mức nhƣ một từ ghép mà chỉ là tổ hợp có cấu tạo chặt, thƣờng hay dùng tƣơng ứng với sở dĩ hoặc dùng để dẫn nối thành tố chỉ nguyên nhân khi nó có vị trí sau thành tố chỉ kết quả. Ví dụ: Hài gọi một cái xe về nhà. Sự hoang phí ấy sở dĩ có là bởi hắn mệt rã rời. (Nam Cao. Quên điều độ) Ông đồ Uẩn dùng lối xƣng hô ấy là bởi cái tập quán ở chốn hƣơng thôn. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) - Tổ hợp bởi chưng đƣợc sử dụng nhiều hơn trong ca dao, tục ngữ và trong văn học cổ, cũng có ý nghĩa nhƣ bởi nhƣng việc sử dụng tổ hợp từ này hiện nay rất hạn chế. Ví dụ: Bởi chưng bác mẹ tôi nghèo Cho nên tôi phải băm bèo, thái khoai (Ca dao) - Tổ hợp bởi vì là tổ hợp từ đƣợc sử dụng khá nhiều trong những cấu trúc biểu thị nguyên nhân, lý do của sự việc đƣợc nói đến. Theo chúng tôi, tổ hợp này có cấu tạo chặt chẽ, có thể coi là một từ ghép. Ví dụ: Bởi vì lần thứ nhất hắn đƣợc một ngƣời đàn bà cho. (Nam Cao. Chí Phèo) Lời khai của thằng Tý nghe phi lí lắm, bởi vì có chứng cớ rõ ràng, trọn đêm hồi hôm Hƣơng hào Hội ở nhà chớ không có đi đâu hết. (Hồ Biểu Chánh. Cha con nghĩa nặng) Bởi vì năm nay các em không còn bé bỏng gì nữa, đã chuẩn bị trở thành ngƣời lớn rồi, toán các em sẽ làm quen với quỹ tích, văn các em sẽ bắt đầu học nghị luận.(Nguyễn Nhật Ánh. Bàn có năm chỗ ngồi) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngoài ý nghĩa nguyên nhân, gần đây, bởi còn đƣợc sử dụng nhiều trong cấu trúc bị động, biểu thị nghĩa nguyên nhân của trạng thái do động từ phía trƣớc biểu thị. Ví dụ: Quang còn đang bị lôi cuốn bởi cái không khí vui vẻ. (Nguyễn Khải. Tầm nhìn xa) Ấn tƣợng về thằng thiếu úy Cón mạnh mẽ quá sức tƣởng tƣợng, rõ ràng là ngƣời ta bị giật mình bởi tội ác. (Nguyễn Ngọc Tƣ. Chuyện vui điện ảnh) Y Sao đứng vậy rất lâu, trong lòng bị giằng xé bởi hai thứ tình cảm hoàn toàn trái ngƣợc - vừa kiêu hãnh, vừa căm ghét Nô. (Ngô Tự Lập. Hoa vông vang) Rồi một buổi đêm, sau khi ban chiều ngƣời ta đã đƣợc nghe tiếng sáo của Tiến réo rắt hơn và nỉ non hơn mọi khi, cả phố đều bị đánh thức dậy bởi những tiếng kêu hãi hùng của bà cụ Tiến. (Thạch Lam. Tiếng sáo) Trong những câu bị động kiểu trên đây, có thể thay bởi bằng vì hoặc nhờ là những quan hệ từ biểu thị ý nghĩa nguyên nhân đích thực. So sánh: 1a) Lời Ngạn bị lấp mất bởi những tiếng nổ “ầm ầm”. (Anh Đức. Hòn đất) → 1b) Lời Ngạn bị lấp mất vì những tiếng nổ “ầm ầm”. (+) 2a) Đôi ta có lẽ se lại bởi duyên trời. (Khái Hƣng. Nửa chừng xuân) → 2b) Đôi ta có lẽ se lại nhờ duyên trời. (+) Qua những ví dụ trên đây, ta thấy bởi trong tiếng Việt chƣa phải là phƣơng tiện biểu thị ý nghĩa cú pháp chủ thể nhƣ một số tác giả nhận xét mà vẫn là phƣơng tiện biểu thị ý nghĩa cú pháp nguyên nhân. Nghĩa chủ thể của danh từ đứng sau bởi trong những câu trên đây chỉ có thể là nghĩa sâu. * Quan hệ từ do Do cũng là một quan hệ từ chỉ nguyên nhân đƣợc dùng khá phổ biến. Ví dụ: Một hôm, do một sự tình cờ, y biết đƣợc tên Tƣ. (Nam Cao. Sống mòn) Bây giờ tôi cũng đi rón rén, nhƣng hoàn toàn do cảm hứng tuổi thơ đang trở về tràn ngập trong lòng. (Ngô Tự lập. Mộng du) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Do sự công phẫn, các bà xui chồng đến nhà chị cu, mỗi ngƣời giúp một tay. (Nguyễn Công Hoan. Người thứ ba) Bên cạnh ý nghĩa nguyên nhân đích thực, do còn có ý nghĩa căn nguyên, nguồn gốc. Khi mang ý nghĩa này, do thƣờng dẫn nối định ngữ là cụm chủ vị. Ví dụ: Cái ơn kia chƣa trả đƣợc bao nhiêu, thì nay, thằng con tàn ác do bà đẻ ra đã chém sả xuống thân cô em gái làm ơn cho bà dạo nọ. (Anh Đức. Hòn đất) Những trƣờng hợp trên đây, không thể thay do bằng vì hoặc nhờ là những quan hệ từ chỉ nguyên nhân đích thực. Nếu thay bằng vì hoặc nhờ ý nghĩa của câu văn sẽ bị thay đổi. Ví dụ: Thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch hun hang do hắn bày ra đã hỏng bét. (Anh Đức. Hòn đất) → Thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch hun hang vì hắn bày ra đã hỏng bét. (-) Ngoài cách dùng độc lập, do còn kết hợp với yếu tố là về phía trƣớc tạo nên tổ hợp là do đƣợc dùng để nêu nguyên nhân, lí do của việc đƣợc nói đên. Ví dụ: Ngài tƣởng danh tiếng ngài là do ngài làm nên đƣợc à? Sự thực trái hẳn thế ngài ạ! Danh tiếng ngài là do ở tài tôi làm ra. (Nguyễn Công Hoan. Nhân tài) Nếu chú có thành tựu việc gì, là do cố gắng, chật vật mãi, chứ không phải do may mắn. (nam Cao. Sống mòn) * Quan hệ từ vì Vì đƣợc coi là một trong những quan hệ từ biểu thị ý nghĩa nguyên nhân điển hình, có cách dùng phổ biến nhất trong các quan hệ từ chỉ nguyên nhân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Theo khảo sát của chúng tôi, quan hệ từ chỉ nguyên nhân vì có 361 trƣờng hợp, chiếm 36,1% tổng số quan hệ từ chỉ nguyên nhân đƣợc khảo sát. Ví dụ: Tôi sống với những quyển sách vì tôi muốn giữ cho mình sạch sẽ. (Nguyễn Huy Thiệp. Những tiếng lòng) Nó tiếc tiền ăn ngoài quán vì nó kiếm tiền cũng có dễ đâu mà quăng tiền ra cửa. (Nguyễn Thị Thu Huệ. Xin hãy tin em) Sau ngày gặp anh, tôi đƣơng rất khoan khoái vì ngày ấy tôi làm đƣợc nhiều việc ngẫm nghĩ thấy có ích. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) Tôi đã có dịp trò chuyện với cụ Chòm, ngƣời đàn ông cao tuổi nhất đảo, đã từng làm phu mỏ trong đất liền, lại đi lính cho Pháp, cái gi cũng biết, bây giờ suốt ngày khò khè trong xó bếp vì bệnh hen. (Ngô Tự lập. Bão lạc mùa) Ngoài cách dùng độc lập, vì còn kết hợp với yếu tố là về phía trƣớc để tạo thành tổ hợp. Nhƣng tổ hợp này cũng chƣa phải là một cấu tạo chặt đến mức nhƣ một từ ghép. Tổ hợp là vì thƣờng dùng song đôi với sở dĩ hoặc dùng dẫn nối thành tố chỉ nguyên nhân có vị trí sau thành tố kết quả. Ví dụ: Nay sở dĩ ông cụ phải bắt tay, là vì phải tiếp khách theo lối lịch sự của những ngƣời mà con mình có nhờ vả. (Nguyễn Công Hoan. Kép Tư Bền) Sở dĩ nó đƣợc thƣởng mề đay đó, là vì năm đó ở Thái Nguyên, đã có công dẹp cộng sản rất đắc lực. (Nguyễn Công Hoan. Trung thành) Bà Hàn không bằng lòng để tôi mua nhà của cô là vì cô đẹp lắm. (Khái Hƣng. Nửa chừng xuân) Ngƣời ta thay đổi là vì hoàn cảnh. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) Em không chịu khiêu vũ là vì em không thích cuộc chơi ấy. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) Có lẽ ông Nhân còn chƣa chết đƣợc là vì con, một cô gái xinh đẹp và thông minh, hiện đang học đại học ở nƣớc ngoài. (Ma Văn Kháng. Đợi chờ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2.2.1.2. Các yếu tố được dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ nguyên nhân 2.2.1.2.1. Về cấu tạo Theo khảo sát của chúng tôi, các yếu tố đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ nguyên nhân có các dạng cấu tạo là: danh từ (ngữ danh từ), đại từ; vị từ (ngữ vị từ) và cụm chủ vị. - Trƣờng hợp các yếu tố đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ nguyên nhân là danh từ, ngữ danh từ, đại từ: + Là danh từ, ngữ danh từ  Danh từ, ngữ danh từ chỉ ngƣời: Ví dụ: Cuối cùng chuyện tình của Tƣơi, nhờ mụ Chí, ngƣời đƣa chuyện không biết mệt, đến tai tất cả đám đàn bà, con gái trong căn nhà lớn đông hộ này. (Ma Văn Kháng. Những người đàn bà) Nói cho đúng, y là khối thuốc súng, nhờ chị là mồi lửa mà bùng cháy, chói sáng, rồi tự huyễn hoặc mình trong hào quang tự kỷ. (Ma Văn Kháng. Những người đàn bà)  Danh từ, ngữ danh từ chỉ động vật Ví dụ: Nhờ mấy con bò này mà gia đình tao trang trải đƣợc chuyện học hành cho hai con đó. (Báo Nhân dân. Ngày 20/7/2008) Cũng tại cả cái con vật này, nó đã không cho lão ngủ, nửa đêm đầu hôm thức chong, nửa đêm về sáng vừa chợp mắt lại nằm mơ thấy nó… (Nguyễn Minh Châu. Phiên chợ Giát)  Danh từ trừu tƣợng: Ví dụ: Vì một niềm tin mà tôi trở thành ngƣời cầm bút. (Nguyễn Khải. Anh hùng bĩ vận) Chúng tôi chia tay nhau vì sự đời. + Là đại từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ví dụ: Nhờ họ, cái tiệm ăn thƣa khách này có vẻ nhƣ đông ngƣời. (Nam Cao. Nhỏ nhen) Cái đó là lỗi tại tôi, vì tôi cứ ép anh ấy uống. (Khái Hƣng, Nhất Linh. Gánh hàng hoa) - Là vị từ, ngữ vị từ Ví dụ: Một ngọn đèn đỏ vì yếu, chiếu một thứ ánh sáng tối tăm cho gian phòng (Vũ Trọng Phụng. Số đỏ) Mắt Vân Lì sáng lên vì phấn chấn. (Ngô Tự Lập. Bão lạc mùa) Bởi rất yêu và rất phục chồng, Liên dễ mau đến cái lúc nhìn đời bằng con mắt của chồng. (Nam Cao. Sống mòn) Theo chúng tôi, yếu tố đƣợc dẫn nối có cấu tạo là vị từ, trong nhiều trƣờng hợp là dạng rút gọn của cụm chủ vị đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ nguyên nhân vì có thể dễ dàng thêm chủ ngữ cho vị từ đó. Ví dụ: Kiến đƣợc hƣởng lƣợng khoan hồng, nhờ thành thật hối cải. (Ma Văn Kháng. Chọn chồng) → Kiến đƣợc hƣởng lƣợng khoan hồng, nhờ anh thành thật hối cải. (+) Hắn sung sƣớng vì đã nghĩ ra điều ấy. (Nam Cao. Chí Phèo) → Hắn sung sƣớng vì hắn đã nghĩ ra điều ấy. (+) - Là cụm chủ vị. Ví dụ: Nhờ anh can đảm, quân cƣớp bị giải lên huyện. (Nguyễn Công Hoan. Ngậm cười) Vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. (Nguyễn Công Hoan. Báo hiểu: trả nghĩa cha) Ngƣời ta nói chị Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết mê cờ. (Nguyễn Ngọc Tƣ. Hiu hiu gió bấc) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Vợ Điền là con một nhà khá giả, lấy Điền vì Điền là người có học. (Nam Cao. Giăng sáng) Nhờ trời sáng trăng nên thằng Tý dòm theo Lộ xuống Phú Tiêu, thì nó thấy có dạng một ngƣời đi. (Ngô Thự Lập. Mộng du) Cụ Hồ yêu thầy vì thầy viết chữ rất tốt. (Nguyễn Tuân. Ngôi mả cũ) Nhƣ các ví dụ đƣợc dẫn ra trên đây cho thấy, vị ngữ của cụm chủ vị này thƣờng là động từ, tính từ chỉ trạng thái, tính chất, hoạt động. 2.2.1.2.2. Về vị trí Theo khảo sát của chúng tôi, thành tố chỉ nguyên nhân có thể xuất hiện phía trƣớc hoặc sau thành tố chỉ kết quả. - Trƣờng hợp thành tố chỉ nguyên nhân đứng trƣớc thành tố chỉ kết quả: Khi ở vị trí này, quan hệ từ có thể lƣợc bỏ nếu sau nó là cụm chủ vị hoặc vị từ. Ví dụ: Bởi suốt một đời khổ sở nên bà ngoại Ngạn không thấy một ngƣời nào thật khổ. (Nam Cao. Nhìn người ta sung sướng) → Suốt một đời khổ sở nên bà ngoại Ngạn không thấy một ngƣời nào thật khổ. (+) Chẳng qua là tại cái số chị ấy vất vả nên mới gặp ngƣời nhƣ thế. (Thạch Lam. Một đời người) → Chẳng qua là cái số chị ấy vất vả nên mới gặp ngƣời nhƣ thế. (+) - Trƣờng hợp thành tố chỉ nguyên nhân đứng sau thành tố chỉ kết quả: Khi ở vị trí này, khả năng lƣợc bỏ quan hệ từ rất hạn chế. Nếu lƣợc bỏ quan hệ từ ở thành tố chỉ nguyên nhân thì nghĩa của câu không rõ ràng. Ví dụ: Chị không cƣời đùa luôn với Loan nữa, chỉ tại cái việc lấy chồng thôi. (Thạch Lam. Bắt đầu) → Chị không cƣời đùa luôn với Loan nữa, chỉ cái việc lấy chồng thôi. (-) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Độ một tháng nay, cụ chánh Bá bực mình vì đôi giày của cụ nó mòm quá. (Nguyễn Công Hoan. Cụ chánh Bá mất giày) → Độ một tháng nay, cụ chánh Bá bực mình đôi giày của cụ nó mòm quá. (-) Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, quan hệ từ có thể bị lƣợc bỏ. Tổ hợp khi đã lƣợc bỏ quan hệ từ thƣờng mang tính thành ngữ. Ví dụ: Bỏng vì xăng. → Bỏng xăng. (+) Chết vì đói. → Chết đói. (+) 2.2.2. Thành tố chỉ kết quả 2.2.2.1. Các quan hệ từ chỉ kết quả Theo kết quả thống kê, các quan hệ từ dẫn nối thành tố chỉ kết quả mà chúng tôi thu thập đƣợc là: nên, cho nên, mà, sở dĩ. Các quan hệ từ chỉ kết quả có cấu tạo đơn chiếm tỉ lệ cao nhất. Theo thống kê của chúng tôi, trong 1000 trƣờng hợp dùng quan hệ từ kết quả đƣợc khảo sát, thì quan hệ từ nên, mà có 978 trƣờng hợp, chiếm 97,8%; trong khi đó, các quan hệ từ chỉ kết quả có cấu tạo kép (cho nên, sở dĩ) chỉ chiếm 2,2% (có 22 trƣờng hợp). Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên) nên đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “từ biểu thị điều sắp nêu ra là kết quả trực tiếp của việc vừa nói đến. Vì bận nên không đến” [23, 665]; cho nên đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “từ dùng trƣớc đoạn câu nêu kết quả của nguyên nhân đã nói đến. Bị bất ngờ cho nên không kịp chuẩn bị.” [23, 165]; mà đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “từ biểu thị điều sắp nêu ra là kết quả, hậu quả của điều vừa nói đến. Nhờ có sự giúp đỡ mà chóng xong” [23, 604]; sở dĩ đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “từ biểu thị điều sắp nêu ra là nguyên nhân, lí do giải thích tại sao có điều đƣợc nói đến ngay sau đó”. [23, 870] * Quan hệ từ nên, cho nên Qua tƣ liệu khảo sát, nên và cho nên thƣờng đứng ở giữa câu trƣớc các thực từ biểu thị kết quả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ví dụ: Chị vốn là cô gái đặc quê, nhờ thanh sắc lại sinh ở một làng chèo nổi tiếng nên đƣợc lấy lên đoàn văn công tỉnh từ năm mới mƣời bảy tuổi. (Nguyễn Khải. Đàn ông) Vì mấy bữa lộn xộn, không ai gìn giữ, ăn trộm gánh lúa bó lấy một mớ, nên ruộng của Trấn Văn Sửu tuy làm trúng, song đạp rồi lƣờng thử thì lúa hột có một trăm năm chục giạ mà thôi. (Hồ Biểu Chánh. Cha con nghĩa nặng) Do không có lực lƣợng kiểm tra, hƣớng dẫn nên các phƣơng tiện giao thông, trong đó có nhiều phƣơng tiện trọng tải lớn vẫn bất chấp qui định đã đƣợc thông báo. (Báo Nhân dân. Ngày 20/12/2007) Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải nộp thay. (Ngô Tất Tố. Tắt đèn) Bởi thấy nhiều ngƣời mách rằng nhà nó có con chó cái khôn lắm, cho nên sáng ngày tôi mới cố mua đƣợc. (Ngô Tất Tố. Tắt đèn) Nhờ cái phong cảnh mơ mộng ở ngoài nó kích thích Long tự thấy mình nhƣ một vai trò quan hệ trong một cuốn tiểu thuyết cho nên sự đau khổ của chàng không phải là không có thi vị. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) * Quan hệ từ mà Mà cũng giống nên, cho nên là những quan hệ từ chỉ kết quả và cũng đƣợc sử dụng khá phổ biến. Ví dụ: Đi đâu mà vội mà vàng, Mà vấp phải đá, mà quàng phải dây. (Ca dao) Qua tƣ liệu khảo sát, mà thƣờng đứng sau thành phần phụ chỉ nguyên nhân. Nó thƣờng đƣợc dùng song đôi với vì, do, nhờ, tại. Ví dụ: Nhờ những khái niệm rõ ràng đó mà tôi tiếp thu những bài học sau một cách dễ dàng. (Nguyễn Nhật Ánh. Bàn có năm chỗ ngồi) Tại cha mẹ Bính cay nghiệt, tại cái tục lệ quái ác mà Bính phải xa nó, xa nó không biết bao giờ lại đƣợc ôm nó trong lòng. (Nguyên Hồng. Bỉ vỏ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên * Quan hệ từ sở dĩ Trong ý kiến của Hoàng Phê đƣợc dẫn ra trên đây, theo chúng tôi có điểm chƣa thật hợp lý. Theo cách hiểu của chúng tôi sở dĩ cũng giống với những quan hệ từ chỉ kết quả đích thực nhƣ nên, mà…, tức là nó đƣợc dùng để nói kết quả, hậu quả của nguyên nhân đƣợc nói đến ngay sau nó. Quan hệ từ sở dĩ thƣờng dùng trong tổ hợp với là vì để nói rõ kết quả nảy sinh do nguyên nhân đƣợc nói ở sau đó. Ví dụ: Sở dĩ sáng đến giờ chủ tôi phải trăm đƣờng vất vả, sinh ra ác nghiệt, cả nhà chạy loạn xạ, bối rối nhƣ có cuộc lở đất long trời, là vì con mèo Mimi sắp đẻ. (Nguyễn Công Hoan. Lại chuyện con mèo) Sở dĩ vừa qua thƣờng vụ phạm nhiều sai lầm là vì cả tin ông Tuy Kiền nhiều quá. (Nguyễn Khải. Tầm nhìn xa) Ngoài cách kết hợp với là vì, sở dĩ còn có thể kết hợp với vì, là do. Ví dụ: Tôi sở dĩ đƣợc rõ mọi điều vì chị Hiển coi tôi là bạn thân hơn hết. (Vũ Trọng Phụng. Cái ghen đàn ông) Sở dĩ phải làm cái bé trƣớc, cái lớn sau cũng là do rút kinh nghiệm làm nhà của ông bí thƣ đấy thôi. (Nguyễn Khải. Tầm nhìn xa) Trong một số trƣờng hợp, sở dĩ có thể lƣợc bỏ. Ví dụ: Bấy lâu nay họ không kiếm cha là vì họ tƣởng cha chết rồi. (Hồ Biểu Chánh. Cha con nghĩa nặng) Em không chịu khiêu vũ là vì em không thích cuộc chơi ấy. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) 2.2.2.2. Các yếu tố được dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ kết quả 2.2.2.2.1. Về cấu tạo Theo tƣ liệu của chúng tôi, cấu tạo của các yếu tố đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ kết quả chỉ có thể là vị từ hoặc cụm chủ vị. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ví dụ: Vì đèn sáng nên trông rõ lắm. (Nguyễn Công Hoan. Báo hiếu: trả nghĩa cha) Vì dẫu có hỏng cái gì, Điền cũng không phải bỏ tiền thay, nên Điền không xót ruột.(Nam Cao. Giăng sáng) Bởi hai ngƣời cùng giàu, cho nên tranh nhau rất kịch liệt. (Nguyễn Công Hoan. Trần Thiện, Lê Văn Hà) Vì tôi thắng tợn nên hai cậu chủ bé nhỏ của tôi yêu quý tôi lắm. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) Nhờ có chậu nƣớc lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và chậu nƣớc đái của bà con hàng xóm đổ vào miệng xoa vào đầu, mặt anh ta, máu lại xuôi xuống dần dần, cho nên anh ấy tỉnh lại. (Ngô Tất Tố. Tắt đèn) Sở dĩ tôi thích Samandji, vì hắn là ngƣời ngoại quốc, vả lại hắn phục vụ tôi là giới văn minh hơn, cũng nhƣ tôi kính phục ngƣời Nhật Bản. (Nguyễn Công Hoan. Samandji I) Vì thức khuya nói chuyện, nên tôi mệt. (Nam Cao. Mất cái ví) Nhƣng vì Choắt bẩm sinh yếu đuối nên tôi coi thường gã và gã cũng sợ tôi lắm. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) - Cụm chủ vị đứng sau quan hệ từ chỉ kết quả có thể lƣợc bỏ chủ ngữ, với điều kiện chủ ngữ của thành tố chỉ nguyên nhân và thành tố chỉ kết quả biểu thị cùng một sự vật. Ví dụ: Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) → Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên  chóng lớn lắm. (+) Nhờ trời, Nhi khỏe mạnh nên Nhi không hộc máu mũi. → Nhờ trời, Nhi khoẻ mạnh nên  không hộc máu mũi. (Nam Cao. Nửa đêm) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Vì tôi cần lên tỉnh sớm nên tôi bằng lòng đi xe hơi của ông. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) → Vì tôi cần lên tỉnh sớm nên  bằng lòng đi xe hơi của ông. (+) - Ngƣợc lại, nếu chủ ngữ của cụm chủ vị chỉ nguyên nhân và cụm chủ vị chỉ kết quả biểu thị những sự vật, sự việc khác nhau thì không thể lƣợc bỏ chủ ngữ ở một trong hai vế. Nếu bỏ chủ ngữ ở một trong hai vế hoặc cả hai vế thì nghĩa của câu trở nên không rõ ràng. Ví dụ: Nhờ ông năn nỉ dữ lắm, nên họ mới bỏ qua, song tôi phải đi Hà Tiên. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ vợ) → Nhờ ông năn nỉ dữ lắm, nên mới bỏ qua, song tôi phải đi Hà Tiên. (-) 2.2.2.2.2. Về vị trí Thành tố chỉ kết quả thƣờng đứng sau thành tố chỉ nguyên nhân nhƣng cũng có thể đứng trƣớc. - Trƣờng hợp thành tố chỉ kết quả đứng sau thành tố chỉ nguyên nhân. Tại thầy lâu ngày gặp tôi rồi thầy quên, nên thầy kêu tôi bằng cô Hai chớ không kêu bằng bà nữa phải không? (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) Vì Chắt cao lớn và có dáng đi lừng lững nhƣ đàn ông nên dân đảo gọi cô là “Chắt Đực” để phân biệt với cô Chắt khác là Chắt Còi. (Ngô Tự Lập. Bão lạc mùa) Nhờ ngƣời ta giữ anh Minh ở đây cho nên anh mới được tự do hú hí với cô hàng hoa xinh đẹp kia mà lại còn hỏi ơn về việc gì! (Khái Hƣng, Nhất Linh. Gánh hàng hoa) Trong trƣờng hợp này, quan hệ từ chỉ nguyên nhân và quan hệ từ chỉ kết quả có thể lƣợc bỏ mà không làm thay đổi cơ bản ý nghĩa của cấu trúc. Ví dụ: Nhờ có cô dìu dắt, nên nó học đƣợc, thiệt tôi mừng quá. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) → Có cô dìu dắt, nó học đƣợc, thiệt tôi mừng quá. (+) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Cha vì giận con nên phải uống thuốc độc tự tận. (Nguyễn Khải. Hậu duệ dòng họ Ngô Thì) → Cha giận con, phải uống thuốc độc tự tận. (+) Tại cậu lơ đễnh, đánh mất ví tiền nên mới sinh ra lắm cái rắc rối. (Nguyễn Công Hoan. Mất cái ví) → Cậu lơ đễnh, đánh mất ví tiền mới sinh ra lắm cái rắc rối. (+) - Thành tố chỉ kết quả đứng trƣớc thành tố chỉ nguyên nhân. Trong trƣờng hợp này, từ duy nhất có khả năng dẫn nối thành tố kết quả là sở dĩ. Ví dụ: Sở dĩ anh bán sớm ngay phiên này, vì mẹ ốm, cần tiền uống thuốc. (Nguyễn Công Hoan. Mua lợn) Sở dĩ tôi thế này là vì thân làm tội đời, mình làm mình chịu. (Vũ Trọng Phụng. Gương… tống tiền) Sở dĩ tôi phải lăn vào với hợp tác xã, vì tôi không thể ngồi đấy mà nhìn anh em khác hoạt động đƣợc. (Nguyễn Khải. Tầm nhìn xa) Trong những cấu trúc nhƣ trên, quan hệ từ chỉ kết quả có thể lƣợc bỏ mà không làm thay đổi cơ bản ý nghĩa cấu trúc. Ví dụ: Sở dĩ tôi thích Samandji vì hắn là ngƣời ngoại quốc, vả lại hắn phục vụ tôi là giới văn minh hơn, cũng nhƣ tôi kính phục ngƣời Nhật Bản. (Nguyễn Công Hoan. Samandji I) → Tôi thích Samandji vì hắn là ngƣời ngoại quốc, vả lại hắn phục vụ tôi là giới văn minh hơn, cũng nhƣ tôi kính phục ngƣời Nhật Bản. (+) Tuy nhiên, khi chuyển đổi vị trí của thành tố chỉ kết quả lên trƣớc thành tố nguyên nhân nhằm mục đích nhấn mạnh thì quan hệ từ chỉ nguyên nhân thƣờng không thể lƣợc bỏ. Ví dụ: Vì cƣờng độ tập luyện quá cao nên Hoàng Lan bị ốm. (Báo An ninh thế giới. Tháng 8 năm 2005) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên → Hoàng Lan bị ốm vì cƣờng độ tập luyện quá cao. (+)  Hoàng lan bị ốm cƣờng độ tập luyện quá cao. (-) Nhƣ vậy, chính vì tính phụ thuộc của thành tố chỉ nguyên nhân lớn hơn tính phụ thuộc của thành tố chỉ kết quả nên quan hệ từ chỉ nguyên nhân khó bị lƣợc bỏ hơn quan hệ từ chỉ kết quả trong các cấu trúc nhân quả. Do đó, có thể nhận thấy rằng: quan hệ từ chỉ nguyên nhân có tần số xuất hiện nhiều hơn quan hệ từ chỉ kết quả trong các cấu trúc nhân quả. Tóm lại, cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện cú pháp (quan hệ từ) trong tiếng Việt khá phổ biến. Quan hệ nhân quả có thể đƣợc biểu hiện bằng hai nhóm quan hệ từ sau: - Quan hệ từ chỉ nguyên nhân. - Quan hệ từ chỉ kết quả. Số lƣợng quan hệ từ chỉ nguyên nhân nhiều hơn số lƣợng quan hệ từ chỉ kết quả và tần số xuất hiện trong câu cũng nhiều hơn, khả năng lƣợc bỏ cũng hạn chế hơn. Điều này cho thấy trong cấu trúc nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ tính phụ thuộc của thành tố nguyên nhân so với thành tố kết quả lớn hơn. 2.3. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng động từ quan hệ Các động từ quan hệ mà chúng tôi xem xét trong phần này là những động từ in nghiêng trong những cấu trúc thuộc kiểu sau đây: Cái chết kia đã làm nhiều ngƣời sung sƣớng lắm. (Vũ Trọng Phụng. Số đỏ) Cái giọng nói ấy làm cho Tân không bằng lòng. (Thạch Lam. Đứa con đầu lòng) Chuyện cƣới xin khiến Dần thèn thẹn. (Nam Cao. Một đám cưới) Lời nói êm đềm khiến Bính bớt sợ. (Nguyên Hồng. Bỉ vỏ) Theo thống kê của chúng tôi, trong 1000 trƣờng hợp các câu có chứa động từ quan hệ làm, khiến thì số câu chứa làm có 557 câu chiếm 55,7%, còn lại 443 trƣờng hợp câu có chứa khiến. 2.3.1. Bản chất của các động từ quan hệ làm, khiến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Về đặc tính của làm, khiến trong những cấu trúc kiểu trên đây, ý kiến của các nhà nghiên cứu không thống nhất. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), khiến đƣợc coi là động từ với ý nghĩa “tác động đến, gây phản ứng tâm lý, tình cảm nào đó” và đƣợc “dùng với chủ ngữ là từ chỉ sự vật, sự việc và bổ ngữ là từ chỉ ngƣời” [23, 500], còn làm đƣợc coi là “nguyên nhân trực tiếp gây ra, tạo ra”.[23, 538] Lê Biên, Hữu Quỳnh lại coi làm, khiến trong các cấu trúc kiểu trên đây là động từ gây khiến. Theo quan niệm của Lê Biên, “động từ gây khiến là những động từ chỉ vận động có tác động gây khiến, chi phối hoạt động của đối tƣợng”. [2, 79] Hữu Quỳnh coi “động từ gây khiến giống nhƣ động từ ngoại hƣớng, hoạt động của nó chi phối hoặc hƣớng vào đối tƣợng nhƣng với ý nghĩa khuyên bảo, cho phép hay ngăn cản hành động của đối tƣợng” [26, 70]. Nguyễn Kim Thản, khi phân loại động từ tiếng Việt, đã xếp “làm, khiến” vào nhóm “động từ gây khiến”. Theo ông, “động từ gây khiến biểu thị hoạt động thúc đẩy, cho phép, giúp đỡ hay cản trở sự thực hiện của những hoạt động khác. Đặc điểm ngữ pháp của động từ gây khiến là: N1 - V1 - N2 - V2  Giáp cấm em đi chơi. (1) N2 do N1 - V1 - V2: E

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_08_SP_VH_NTTH.pdf