Luận văn Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986- 2000

Nguyễn Huy Thiệp thật tinh tếvà nhạy cảm khi thểhiện cái đẹp lắng sâu trong tâm

hồn, hòa hợp với tựnhiên. Hình ảnh thiên nhiên trong trẻo trong Muối của rừnglà một

minh chứng: “Sau tết nguyên đán là thời gian thích nhất ởrừng. Cây cối đều nhú lộc non.

Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng vừa tình cảm. Điều ấy một phần là

do mưa xuân.

Khoảng thời gian này mà đi trong rừng, chân giẫm lên lớp lá ải mục, hít thởkhông

khí trong lọc, thỉnh thoảng lại được thót mình bởi một giọt nước trên cây rỏxuống vai trần

thì thật tuyệt thú. Tất cảnhững trò nhốnhăng đê tiện vấp phải hàng ngày hoàn tòan có thể

rũsạch bởi một cú nhảy của con sóc nhỏtrên cành dâu da [B. 29, tr.88].

pdf113 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2038 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986- 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời khai thiên lập địa, con người gắn bó rất sâu sắc với thiên nhiên. Phải chăng chính vì thế mà tâm hồn con người vốn thuần hậu. Thiên nhiên chính là nơi nguồn cội để con người trở về với đời sống giao hòa, thuần hậu như tự ngàn xưa. 2.2.3. Con người phải gìn giữ, sống hòa hợp với thiên nhiên Có thể thấy yếu tố này được đề cập trong loạt truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Khi con người mang một tâm địa độc ác, với những thèm muốn bất thiện, thì những cảm xúc, tình cảm trong con người sẽ bị phủ lấp bởi cái ham muốn đó. Là một tay thợ săn cự phách, lão thợ săn trong Con thú lớn nhất (Nguyễn Huy Thiệp) đi quá sâu trong thèm muốn của mình: săn được con thú lớn nhất. Để đạt được điều đó, lão đã hạ không tha một con thú nào, cho dù đó là con công lấp lánh sắc màu với đôi chân “kheo khéo lượn vòng”. Một con người như lão không thể nhận ra được “chỉ có tình yêu mới lượn vòng tinh tế như thế” [B.29, tr 320]. Cái bất ngờ và đau đớn đến kinh hoàng là người chồng, sau khi bắn nhằm vợ, đã “lấy xác vợ làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình” [B.29, tr 322]. Một khi tình cảm gia đình và người thân không còn là nền tảng của đạo lí, thậm chí phi đạo lí đến man rợ thì mọi mong muốn, đợi chờ cái sẽ đến phía trước của cuộc sống là vô nghĩa, bị rơi vào hố sâu của u mê, của tận cùng thú tính. Nên khi trong bước đường cùng, con người bỏ mất cái tình người là thứ tình cảm nguyên sơ nhất, tối thiểu nhất, cái tình đó là tiền đề đầu tiên để khẳng định tính người. Lão thợ săn thành con thú, con thú lớn nhất đời lão. Đồng loại cũng không thể dung thứ cho hành vi đó. Con thú lớn nhất của Nguyễn Huy Thiệp đánh động vào tâm thức của người đọc: khi con người xâm phạm một cách thô bạo vào thiên nhiên sẽ nhận hậu quả nặng nề và bi thảm từ chính hành vi của mình. Cũng vậy, Sói trả thù, ông Hoàng Văn Nhân là một thợ săn giỏi nhưng ông đã không hiểu được rằng, người thợ săn giỏi không phải là người “không biết sợ là gì” [B.29, tr 333]. Tham vọng rèn cho cậu quý tử của mình cũng săn bắn giỏi như cha, ông đã đưa con trai mới năm tuổi vào rừng theo các cuộc săn bắn, bỏ ngoài tai “lời nói của người già đôi khi như những lời tiên tri” [B.29, tr 334]. Cái cách cha con ông và phường săn dồn đuổi đàn sói đến đường cùng và bắn chết con sói mẹ ngay khi nó cố ngoạm một con sói con trong tận cùng tuyệt vọng là một hành vi gây sự dữ dội với tự nhiên. Cái giá phải trả là cái chết đớn đau của đứa con trai duy nhất của ông, ngay trước mặt ông, cũng là một lời cảnh báo: con người đừng bao giờ gây sự với tự nhiên, vì đấy là lẽ tồn tại! Muối của rừng chỉ là một truyện kể về một cuộc đi săn trong rừng và các nhân vật gồm có một con người và một gia đình khỉ. Con người với sự mạnh mẽ và khôn ngoan, lại được trang bị vũ khí hiện đại lại thua một gia đình khỉ. Thật ra trong cuộc đấu tranh này, sự can thiệp thô bạo vào tự nhiên đã thua sức mạnh của chính tự nhiên. Qua truyện ngắn này, Nguyễn Huy Thiệp đã chỉ ra một sức mạnh ghê gớm, cái sức mạnh của quy luật tự nhiên biểu hiện dưới sức mạnh của rừng xanh. Con người phải trả giá nếu can thiệp một cách thô bạo đến tự nhiên. Và (may mà) con người nhận ra cái ác của mình và rời bỏ nó sau khi đã nhận được bài học đích đáng của tự nhiên. Quả thiên nhiên là người thầy lớn nhất trong cuộc sống của con người. Con người bên trong con người phong phú thường cảm nhận ở thiên nhiên một sức mạnh siêu phàm, một thế lực huyền bí, chi phối con người, mang lại cho nó ý thức về cái hữu hạn, bớt đi ảo tưởng và thêm nhiều hướng thiện. Cảm giác của Ngọc trong Những người thợ xẻ của Nguyễn Huy Thiệp là một ví dụ. “Chúng tôi đi men ở dưới chân núi, vừa bé nhỏ, vừa cô đơn, lại liều lĩnh mà bất lực, thậm chí vô nghĩa nữa. Bạt ngàn là hoa ban trắng, màu trắng đến là khắc khoải, nao lòng” [B.29, tr.134]. Có thể thấy, qua những trang truyện ngắn hôm nay, thiên nhiên chứa trong nó toàn bộ những quy luật. Quy luật về sự hài hòa của cái đẹp. Quy luật bão dưỡng tính thiện trong con người. Và cả quy luật sinh tồn của con người. Quy luật vũ trụ giúp con người chiêm nghiệm được về lẽ đời, về quy luật cuộc sống. Từ đó mà nhận chân giá trị cuộc sống trong nhiều mối tương quan. 2.3. Con người hướng vào đời sống bên trong Trong mỗi con người, bên cạnh những mối quan hệ hướng ra bên ngoài như quan hệ với đời sống xã hội, với thiên nhiên, còn có đời sống nội tâm sâu thẳm phía bên trong. Cái thế giới vô cùng phong phú và không ít những phức tạp ấy, nó chứa đựng cả phần tâm linh, tiềm thức và vô thức. Trong những tầng sâu với những sắc bậc tình cảm khác nhau, là nỗi đau, nỗi ưu tư, trăn trở, là niềm âu lo, hoài vọng, là khát khao, là niềm vui, hạnh phúc, … con người dường như phải trong trạng thái tự đối diện, tự xoay sở, rất nhiều khi con người tự co mình lại, thúc thủ, lẻ loi, bé nhỏ. Những sắc bậc tình cảm thuộc về chiều sâu của thế giới tâm hồn, tình cảm con người không phải bao giờ cũng dễ chia sẻ và được chia sẻ. Sự chia sẻ ra với thế giới bên ngoài, có chăng, chỉ phần nào làm vơi đi cái nỗi niềm ưu mang đeo đẳng kia. Vì thế, con người thường hướng vào đời sống bên trong, trăn trở, thao thức, bất an trước cuộc sống nhiều nỗi. Chính những bất ổn, bộn bề của đời sống tâm hồn con người cũng như những vấn đề cá tính, nhu cầu hạnh phúc cá nhân mà trước đây, trong chiến tranh, trong thời khắc dầu sôi lửa bỏng, nó trở nên nhạt nhòa, chìm trong cái chung rộng lớn, thì nay những riêng tư, khuất tất của con người có điều kiện được quan tâm, được lắng nghe, bày giãi. Những vấn đề thuộc về cá nhân con người ngày càng được soi xét từ nhiều chiều hướng, lần tìm vào mọi ngõ ngách của đời sống bên trong con người, thu hẹp mọi khoảng cách đến nỗi tưởng như nó đã bị phá vỡ. Nó trở thành vấn đề dễ nhạy cảm nhất của những người cầm bút. Luận về con người như thế nào cũng không thể là đủ, nếu thiếu đi đời sống nội tâm của con người. Có nhà phê bình gọi cái xảy ra bên trong, hành động bên trong là phản ứng tâm thức. Đấy chính là cái cốt lõi của truyện ngắn hiện đại. Nhân vật trong tác phẩm văn học không chỉ là con người hành động bên ngoài, nhân vật phải có cảm xúc, suy nghĩ. Chính cái thế giới bên trong đó là phần hồn của truyện ngắn hôm nay. Điều đó mang đến chiều sâu cho nhân vật và cũng chính là chiều sâu của văn chương nghệ thuật. 2.3.1. Dấu ấn chiến tranh với nỗi đau, niềm day dứt Chiến tranh đi qua, không khí bức bối, ồn ào đã lắng lại, số phận con người sau chiến tranh cùng những tâm tư, nỗi niềm, … trở thành dấu ấn đậm nét. Nhà văn có đủ độ lùi nhất định để nhìn nhận nó một cách bình tĩnh hơn. Cỏ lau và Bức tranh của Nguyễn Minh Châu âm thầm những nỗi trăn trở, tiếc nuối trước cái dang dở của đời người, là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội trong lời tự thú của con người, ở hoàn cảnh không chịu một áp lực xã hôi nào. Có thể nói, đây chính là sở trường của Nguyễn Minh Châu trong việc len lõi vào tận thẳm sâu của đời sống con người, lí giải, luận bàn, tìm cho được bản chất đích thực của con người. Trong Cỏ lau, Lực, người trung đoàn trưởng năm xưa trở về, bất ngờ gặp lại cha mình trong gia đình mới của vợ. Anh bàng hoàng khi biết được rằng, trong ý thức của những người thân, anh đã hi sinh từ lúc quê hương còn chìm trong lửa loạn, giặc giã. Tham dự vào cuộc chiến, chịu nhiều gian khổ, mất mát, nhưng phải đến khi bước ra từ chiến tranh, trở về, gặp phải một sự lầm tưởng, đau lòng từ người thân, Lực mới thực sự thấm thía nỗi mất mát bởi chiến tranh, và anh ý thức rất rõ về thực tại: “Chiến tranh kháng chiến, không phải như một số người khác quan niệm, đến bây giờ tôi không hề mảy may hối tiếc đã dốc cả tuổi trẻ vào đấy cống hiến cho nó, nhưng nó như một lưỡi dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ… Nhưng đau đớn hơn là hai nửa cuộc đời tôi cũng không bị cắt lìa hẳn. Ông già tôi đã đi qua nỗi mất mát từ bao nhiêu năm nay; giờ ông già tôi hẳn cũng đã quên tôi. Thai cũng vậy, giờ Thai đã có một cuộc đời khác với một lũ con cái, nỗi đau ghê gớm vì mất tôi cũng qua đi từ lâu. Vậy cho nên, đáng lẽ chỉ còn là kỉ niệm về một người đã khuất, việc tôi đang còn sống đối với hạnh phúc gia đình riêng của Thai hiện tại sau bao năm tháng vất vả chả khác nào một người khách đến không đúng lúc. Tôi chỉ làm rối thêm cuộc sống, tôi chỉ quấy rầy thêm cuộc sống đã an bài” [B.3, tr. 24]. Những trăn trở như lời trần tình của người lính trở về cuộc sống thời bình nhưng lòng không thể bình yên trước những riêng tư, còn mất, đã khẳng định thêm nhân cách của anh, giàu tình yêu thương và sự hi sinh, và người lính cầm súng đấu tranh chống ngoại xâm, giành lại hòa bình nhưng cũng biết cúi đầu chấp nhận trước thực tại đã an bài, không dễ thay đổi. Nhưng đó chỉ là sự chấp nhận bởi lí trí của người biết sống vì hạnh phúc của người khác, sự thật thì trong lòng anh, cái tình dở dang vì chinh chiến kia cứ như men dậy lên từng ngày, nên khi gặp lại, nó âm thầm trỗi dậy, khát khao và đau xót: “Chúng tôi đánh mất nhau suốt một thời tuổi trẻ, nhưng trừ khi kẻ sống người chết, bây giờ gặp lại nhau chúng tôi không thể nào quen được trông thấy mỗi người có một cuộc đời khác. Chúng tôi vẫn còn yêu nhau. Tôi không dám nghĩ ngày mai Thai trở về với gia đình. Tôi biết rằng chỉ có người đàn bà đang đi bên cạnh, giữa đáy con sông Đồng Vôi này mới có thể xoa dịu bao nhiêu vết thương mà chiến tranh đã để lại trong lòng tôi” [B.3, tr, 93, 94]. Dẫu trong đau đớn, người trung đoàn trưởng năm xưa vẫn đủ bình tĩnh và sáng suốt khi biết không thể thay đổi được hoàn cảnh thì chấp nhận và tìm cho mình một lối đi khác, cốt sao giữ được sự êm ấm cho người thân mà lòng cũng được yên tĩnh. Đây cũng là bản chất dung dị, giàu lòng hi sinh, vị tha của người lính cách mạng. Trong mỗi một cá thể người vẫn thường tồn tại hai phản ứng đối lập: phản ứng bên ngoài và phản ứng bên trong. Phản ứng bên ngoài thì rõ ràng, dứt khoát, phản ứng bên trong thì đằm sâu, đôi khi u uất nhưng huyền diệu. Chính những diễn biến của trạng thái bên trong con người chiếm phần lớn trong việc làm nên cái gọi là bản thể người. Bởi vì nó gọi dậy một cách chân thực nhất những gì là thuộc về con người, cả những thấp hèn, lầm lỗi. Truyện ngắn Bức tranh là một lời tự thú dài của người họa sĩ vì đã không thực hiện lời hứa là mang bức chân dung của người chiến sĩ đến gia đình anh, làm nặng thêm nỗi đau của người mẹ ngày đêm thương nhớ đứa con trai đi lính không biết sống chết thế nào. Thực ra, mọi thứ đã thuộc về quá khứ, đã xa lăng lắc và đang rất yên tĩnh. Chỉ đến khi người họa sĩ vô tình bước chân vào tiệm cắt tóc của người chiến sĩ năm xưa mới khuấy động mọi thứ, sự thật mới được phơi bày. Người chiến sĩ giờ là người thợ cắt tóc đang sống trong một mái gia đình nhỏ với vợ con và bà mẹ mù lòa. Anh vẫn nhã nhặn làm công việc của mình. Nhưng người khách kia thhì thấy lòng rối rắm. Lương tâm của một con người, của một họa sĩ, một người nghệ sĩ không cho phép anh ngơ đi trước mối quan hệ của hiện tại, quá khứ. Anh rơi vào trạng thái tự vấn triền miên, bất tận bởi cái lỗi lầm không thể sửa. Nó trở thành cuộc đấu tranh nội tâm mỗi lúc mỗi gay gắt, từ biện minh yếu ớt đến thụ động đồng ý mặt xấu trong con người mình, từ thành tâm nhận lỗi đến lời cầu xin một lời khuyên và sự tự sa thải mình. Ta có thể lắng nghe những lời tự vấn dưới hình thức tự phân thân của nhân vật người họa sĩ: - Đồ dối trá,mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai mắt kia! Bây giờ thì tấm hình tao đã được trưng bày trên các tạp chí hội họa của khắp các nước. Người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cạnh mấy chữ “Chân dung chiến sĩ Giải phóng”. Thật là danh tiếng quá! - Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần, công việc người chiến sĩ là phục vụ cả một số đông, chứ không phải chỉ phục vụ một người. (…) [B.5, tr. 62, 63]. - ………….. - Hàng ngày anh vẫn nói đùa một cách độc đáo với bạn rằng: Tạo hóa nặn ra muôn loài mỗi loài một thứ bột nhão riêng khác nhau. Xong mỗi thứ thừa một tý, đem gộp chung lại tất cả để nặn ra anh? - Có lẽ thật thế, trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” [B.5, tr.70, 71]. - …………….. Tất cả đều là lời tự thú bên trong, tự thú với chính mình. Lực trong Cỏ lau cũng mang nỗi niềm như vậy, nỗi niềm của con người có lỗi mà nếu không nói ra, thì chỉ một mình mình biết. Nhưng tự trong hun hút của đáy sâu lòng người luôn có tiếng nói từ trái tim và nó vang lên dữ dội, nó dồn nén, nó thúc bách, nó buộc con người phải nói ra, rất thật, nhất là khi con người đang đứng trước sự ngưỡng mộ của người khác, cảm thấy lòng không yên bởi mặt trái phía bên trong. Vì vậy mà người trưởng đòan chính đã “quyết định nói hết, không màu mè, không giáo điều”, “kể lại vắn tắt nhưng hết sức thật thà,, không hề gượng nhẹ một lời nào cho mình, tại sao tôi đã giết một con người….” [B.3, tr 86, 87]. Dẫu rằng Lực biết chấp nhận số phận đã an bài, hoàn toàn không muốn khuấy động lại nó, thì trước hành động, lời nói và tình yêu của Phi Phi đối với người lính trẻ đã ngã xuống, cái quá khứ màu tối không thể không gọi dậy, không phải chỉ là tự thú, chỉ là sám hối. Vả chăng, anh lính Lực thời chiến, người trưởng đoàn chính sách thời bình còn muốn bộc lộ toàn bộ sự thật về một con người với hai chiều sáng tối, cao thượng và ích kỉ. Những con người có lương tâm, có trách nhiệm với người, với bản thân, với cuộc đời, dường như luôn trĩu nặng suy tư, có nhu cầu tự bày giãy, “mỗi đêm là một chuyện tự thú”. Dường như chỉ có như vậy con người mới có thể trụ lại với cuộc đời này, mới thấy lòng lắng lại. Bởi sau những cuộc đấu tranh nội tâm đầy dằn vặt đó, sẽ còn lại là một tâm hồn trong vắt, tĩnh tại, dung dị, ngọt ngào, đằm thắm tình người. Chiến tranh và dấu ấn của nó “chạm khắc” vào con người ở nhiều phương diện khác nhau, nhất là những người từng tham gia vào trận chiến, cảm nhận rất rõ những mặt trái phải của nó. Nhân vật tôi trong Chiều vô danh ( Hoàng Dân ), Hải trong Im lặng (Nguyễn Ngọc Tấn), … chịu sự ám ảnh cho tới suốt cuộc đời bởi những sự thật thảm khốc, nghiệt ngã mà chiến tranh đưa lại. Dù hiện tại chiến tranh đã lùi xa, nhưng chỉ cần một thoáng vô tình nhìn thấy hình hài của quá khứ, là y như rằng, tất cả lại trở về nguyên vẹn trong “tôi”, người lính năm xưa nay trở về với gia đình, dù trong bất kì hoàn cảnh nào, cả khi đã ngồi vào bàn ăn rất đầm ấm bên vợ con. Trận chiến ác liệt, những người lính chiến đấu nhường sự sống cho đồng đội, khói súng vang trời, xác bạn nổ tung từng mảnh, lũ kiến đen, chòm râu của Thời, người bạn anh dũng trong chiến đấu, hóm hỉnh trong đời thường chỉ còn lại chừng ấy, … Tất cả hiện về quay quắt, ngột ngạt, bức bối không chịu nổi. Với Hải, anh mang chứng đau đầu và choáng váng kinh niên vì không làm sao quên được tình cảnh và cái chết thương tâm của vợ, người đàn bà suốt đời thủy chung với chồng và hết mình vì cách mạng. Trong suốt thời gian Hải chiến đấu xa nhà, chị âm thầm chống chọi lại với những cuộc cưỡng hiếp của tên lưu manh, khốn nạn mà không dám bật lên tiếng kêu vì nghĩ hắn cần cho cách mạng. Nhưng khi biết hắn phản bội thì chị cự tuyệt dữ dội và chết trong tay hắn. Hải trở về, không chỉ đơn thuần là nỗi đau mất vợ. Đó còn là nỗi đau trước nỗi đau không được chia sẻ với vợ, là sự kính phục trước cái im lặng vĩ đại của người đàn bà, là sự bất lực của người đàn ông, của người chồng đã không thể che chắn cho vợ trong những lúc gian nguy. Người ta vẫn cứ nghĩ đàn ông thường mạnh mẽ, vững chải. Nhưng trước những thảm khốc, oan khiên của người thân, nỗi đau trong họ không bùng lên dữ dội để rồi lắng xuống, mà nó âm âm, vang dội cứa vào tận trái tim, không cách nào vơi, không cách nào trút ra được. Nó làm trĩu nặng đời sống tinh thần đến suốt cuộc đời. Cái thế giới bên trong phức tạp, đầy những uẩn khúc, những dày vò đau đớn của phận người được nhà văn tìm đến, sẻ chia. Nhân vật ông lái đò Bùi Việt Pháo trong truyện Đò ơi của Nguyễn Quang Lập như bị bủa vây bởi lớp lớp kí ức, hồi tưởng dày đặc, về mối tình xưa xa lắc, về người đàn bà ngẫu nhiên có mặt trong túp lều của ông giữa đêm gió bão… Giữa lớp lớp kí ức đó, ông quằn quại với nỗi cô đơn và ân hận, với nhớ tiếc và xót thương… Con người ngỡ tưởng ngang tàng trên sông nước ấy bỗng nhiên trở nên sâu lắng, vời vợi những nỗi niềm. Có thể thấy, trong thế giới nội tâm con người, quá khứ dường như luôn luôn trú ngụ trong mỗi con người, dù vui buồn, sướng khổ, vinh nhục, thành bại. Nó hằn một nếp gấp trong kí ức khiến con người ta có muốn quên cũng không dễ gì quên. Nó làm ấm lòng mỗi khi con người nhớ lại những kỉ niệm đẹp, ngọt ngào, nó làm trăn trở, day dứt và đau xót khi đó là những lỗi lầm, những ngộ nhận, hay những hoài nghi mơ hồ. Bất luận thế nào, con người biết mang theo quá khứ, không giẫm lên quá khứ, dù đó là quá khứ thế nào đi nữa, tự nó làm sáng thêm lên tâm hồn con người, làm đẹp hơn lên nhân cách con người. Thế giới nội tâm trong con người càng sâu sắc, phong phú, phần “người” trong con người càng lớn thêm lên, có khả năng lấn lướt phần “con”. Con người, vì vậy, ngày càng đi đến sự tự hoàn thiện. Viết về những con người trong chiến tranh, nay trở lại với cuộc sống đời thường, các nhà văn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận khác nhau. Mỗi con người là mỗi cuộc đời riêng, không ai giống ai, nhưng kì thực, họ có chung nỗi đau. Cái nỗi đau của những lỗi lầm hoặc vô tình, hay phút giây của lòng ích kỉ gây ra. Và nỗi đau ấy chỉ có thể chia sẻ chứ không thể bù đắp. 2.3.2. Hạnh phúc và những khắc khoải kiếm tìm Trong những trạng huống khác nhau của đời sống, hạnh phúc riêng tư vẫn là niềm khao khát của mỗi con người, nhất là người phụ nữ. Trong cuộc kiếm tìm đó, có người mạnh mẽ, dứt khoát (Khoảnh khắc của số phận- Lê Minh Khuê), có người lầm lạc (Hậu thiên đường- Nguyễn Thị Thu Huệ), có người cơ nhỡ (Con Gấu- Nguyễn Quang Huy), có người cả đời âm thầm chờ đợi (Hai người đàn bà xóm Trại- Nguyễn Quang Thiều), lại có người sống trong mộng tưởng (Chỗ dựa- Trầm Hương), hay sống trong kỉ niệm (Tiếng rừng- Hiền Phương), cũng có người không vì một cái gì hết (Dây neo trần gian- Võ Thị Hảo), … Song, dù thế nào đi nữa, ai người ta cũng đều mong có đời sống hạnh phúc trong hôn nhân, trong tình yêu lứa đôi. Khoảnh khắc của số phận chỉ là một lát cắt rất mỏng cho con đường đi tìm hạnh phúc của nhân vật Duyên, với sự hi vọng mảy may và một quyết định chóng vánh kịp thời. Mục đích cô cất công đến với Thái lần này là để nghe anh nói chuyện cưới xin mong được vững lòng trước khi cô vào Nam công tác. Hai ngày ồn ả và chờ đợi trôi qua. Duyên vẫn đợi chờ cả khi Thái đưa cô ra ga, trong cái nóng bức ngột ngạt của thời tiết, cả khi Thái gọi rượu bia trong lúc chờ tàu, Duyên vẫn mong manh hi vọng… Nhưng cũng chính trong cái giây phút đó, cô bỗng chợt nhận ra cái tồn tại của một sinh vật nơi người đàn ông mà cô từng yêu. Trong lòng cô trỗi dậy một cảm xúc khác, cái cảm xúc của sự đan xen nhiều nỗi mà người đàn ông ngồi đối diện kia không sao biết được: cô mừng vì chưa ai nói đến chuyện hôn nhân, nuối tiếc vì sao mà phí phạm quá cho những chuyện chẳng đâu vào đâu, lại buồn muốn khóc mà giữ lòng không được khóc. Số phận con người, hạnh phúc riêng tư, đôi khi chỉ như là cái ánh chớp giữa lằn ranh rất mỏng của cái sự thắng- thua, còn- mất mà con người trong khoảnh khắc đó cần phải bình tĩnh, sáng suốt để biết mà trì níu hay buông dừng. Vì chỉ dùng dằng một chút là có thể đi lệnh cái đường ranh kia và vỡ ngay cái điều mong ước. Ở Hậu thiên đường là dòng suy tư miên man của người đàn bà bốn mươi tuổi không may trong tình duyên, là nỗi đau khổ và sự thấu suốt của người mẹ đối với đứa con gái đang giẫm lên chiếc xe đổ của chị mười mấy năm về trước, đứa con gái chị đã từng coi là chướng ngại trên con đường tìm hạnh phúc cho chính mình. Chính vì vậy mà bao nhiêu cay đắng, hờn giận của một người đàn bà bị phụ bạc, chị đều trút hết lên nó. Cũng chính vì vậy mà chị gần như không nhớ đến sự hiện diện của con. Nếu có, chỉ là “nhìn nó để tỉnh táo hơn trước người đàn ông và mọi cạm bẫy” [B. 12, tr. 9]. Để đến khi một lần đọc nhật kí của con, chị mới giật mình thảng thốt “mẹ đã qua những gì con đang đến” [B.12, tr. 17]. Lòng chị dội lên bao trăn trở. Và trỗi dậy một tình thương con trong day dứt và lo lắng: “Sao tôi thương nó thế không biết” [B.12, tr. 17]. “Con tôi bước vào cái gọi là thiên đường của tôi, cách đây mười sáu năm. Lại những vòng hào quang như tôi đã gặp. Đến lúc nào, sẽ là một cái hang sâu hun hút?” [B.12, tr. 19]. Những gì xảy ra với con làm lay động dữ dội đến trái tim người mẹ lâu nay chỉ như dòng nước đang bị nghẽn. Người đàn bà trốn chạy tuổi già đang sầm sập đến và chơi những trò ú tim chợt dừng lại. “Mọi tâm trí, nghị lực và sức chịu đựng, tôi dành cho con gái” [B.12, tr. 21]. Những dòng nhật kí của đứa con gái mười sáu tuổi dại khờ và tội nghiệp đã thức dậy trong chị sâu sắc nỗi niềm của thân phận hiện tại, nỗi lo sợ trong đau đớn cứ càu cấu trái tim chị. “Không phải con đang ở chấp chửng miệng vực mà con đang ở trong vực rồi” [B.12, tr. 23]. Để rồi trong “điên cuồng, tiếc nuối và bất lực”, chị lao ra đường tìm con… Cuộc sống là sự tác hợp không hài hòa giữa men cay và vị ngọt mà con người rất nhiều khi bị quyến dỗ bởi cái vị ngọt đau lòng kia, để rồi nơi phía cuối của cái gọi là thiên đường, trong cheo leo của vực thẳm, con người ta không thể chịu ở yên trong tận cùng tuyệt vọng. Nhưng càng vùng vẫy, càng trốn chạy, càng tìm cách lấp khuất, lại càng dễ rơi vào phía thăm thẳm của chốn hư vô, phù phiếm. Khi giật mình tỉnh thức thì mọi thứ đã quá muộn, không còn kịp nữa. Thế giới nội tâm ở nhân vật người vợ trong Con gấu của Nguyễn Quang Huy chỉ như một vết chạm khắc nhỏ mà sâu trên thân cây xù xì mà lớp vỏ đã bong lên, khô cứng. Trong cảnh khổ nghèo và thiếu vắng một niềm hi vọng, sự cực khổ trăm bề và niềm khao khát một đứa con, chị đã rẽ sang một lối đi khác gần như một hành động vô thức, như một sự “ma đưa lối, quỷ đưa đường” trước lời rủ rê của một người đàn ông sang giàu. Hoàn toàn không có một ý định nào cho một sự chuẩn bị. Chị vẫn yêu chồng và tận tụy với bổn phận của một nàng dâu. Nhưng người vợ tội nghiệp đó không cưỡng lại được lời lẽ kia, cho dù nó tàn nhẫn, khốc liệt, thậm chí man rợ. Bởi nó đúng. Chị cũng không đủ ý thức để bảo rằng là tin hay không tin vào lời lẽ kia. Cái nghèo, cái khổ, cái thiếu đã đủ làm con người ta muốn thay đổi thực tại cuộc sống. Nó nhấn chìm cái ý thức về lẽ sống và những phân định hơn thua của cuộc đời. Nên khi trước những sự thật xảy ra một cách độc ác, người đàn bà tội nghiệp đó đã không còn đủ can đảm đối diện với sự thật. Và khi đó, trong lòng chỉ còn lại nỗi đau. Cuộc sống có nhiều cái quý giá nhưng cũng chứa nhiều nỗi đau thương mà con người rất nhiều khi phải chấp nhận hoặc không muốn thay đổi vì nhiều thứ. Đợi chờ người chồng đi chinh chiến trở lại, Ân và Mận trong Hai người đàn bà xóm Trại vẫn trú mình trong một căn nhà nhỏ trên một triền bãi ven sông, nơi ngày xưa họ đã tiễn chồng ra bến sang sông đi làm cách mạng. Trong ngôi nhà nhỏ đó, họ hi vọng trong niềm khắc khoải, lo lắng đợi chờ. Rồi Mật nhận được giấy báo tử của chồng. Nhưng Ân thì vẫn chưa thôi hi vọng. Cái tình, cái nghĩa hai chị em gắn bó bấy lâu khiến Mật cũng không thể bỏ Ân mà ra đi. Và họ cùng chờ đợi. Đợi cho đến khi tóc bạc, mắt mờ, chân yếu. Họ vẫn lặng lẽ gói thêm nhiều bánh mỗi khi tết đến, “nhỡ có ai về…” [B.28, tr. 133]. Hàng ngày, họ chia sẻ với nhau những thứ giản đơn mà thiết yếu trong cuộc sống bình thường. Họ giấu nỗi khát khao và cả giấc mơ về niềm hạnh phúc được đoàn tụ. Kí ức về những ngày tháng xưa thỉnh thoảng vẫn trở dậy trong họ, đôi khi giống như là tiếng cá quẫy động dưới sông. Chờ đợi cả cuộc đời mà vẫn ấp iu một niềm hi vọng duy nhất. Trong họ hoàn toàn không có lí trí của khái niệm về lòng chung thủy. Thuỷ chung là nét đẹp mang tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Ấy vậy mà trong tác phẩm này, sự lặng lẽ đợi chờ, âm thầm thấp thỏm một tia hi vọng mong manh, và cái việc đãi đậu gói bánh nhiều nhiều, biết đâu… kia lại làm xúc động lòng người. Cả câu chuyện vu vơ về cảnh tình lẻ loi, đơn chiếc. Đẹp nhất là họ không phàn nàn điều chi, chỉ ngậm ngùi nỗi đợi mong. Cái đẹp của họ không từ lời nói, mà từ cuộc sống đạm bạc, hiền hòa, từ sự đợi chờ đến cuối đời vẫn chưa thôi hi vọng. Họ đẹp. Cái đẹp toát lên từ hành vi lựa chọn cuộc sống của họ, từ tình yêu thủy chung, bền chặt của họ. Bản thân họ cũng chưa một lần lí trí về cái đẹp nhân cách. Lí trí để con người biết sống. Nhưng người ta không thể sống được bằng lí trí, nó làm thô ráp con người đi. Họ đẹp, vì cái tình họ đẹp. Người phụ nữ thường yếu đuối, nhỏ bé. Nhưng rất nhiều khi người ta thật khó có thể hiểu hết được cái gì đã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHLLVH021.pdf