Luận văn Chế độ pháp lý và thực tiễn về hợp đồng đại lý tại công ty cổ phần phần mềm doanh nghiệp Nhật Nam

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU . 1

CHưƠNG 1. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ . 3

1.1 Khái quát về hợp đồng đại lý . 3

1.1.1 Hợp đồng là gì . 3

1.1.2 Bản chất của hợp đồng . 4

1.1.3 Hợp đồng đại lý là gì. 5

1.1.4 Các hình thức đại lý . 7

1.2 Giao kết hợp đồng đại lý . 9

1.2.1 Nguyên tắc chung trong giao kết hợp đồng . 9

1.2.2 Nguyên tắc giao kết hợp đồng hợp đồng thương mại. 11

1.2.3 Chủ thể giao kết hợp đồng đại lý . 12

1.2.4 Nội dung giao kết hợp đồng đại lý . 13

1.2.5 Hình thức giao kết hợp đồng đại lý . 14

1.2.6 Trình tự thủ tục giao kết hợp đồng đại lý . 15

1.3 Thực hiện hợp đồng đại lý . 16

1.3.1 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng đại lý . 16

1.3.2 Các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng đại lý . 17

1.4 Sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng đại lý. . 18

1.5 Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng . 19

1.5.1 Buộc thực hiện đúng hợp đồng . 19

1.5.2 Phạt vi phạm . 20

1.5.3 Bồi thường thiệt hại . 21

1.5.4 Tạm ngừng thực hiện hợp đồng . 22

1.5.5 Đình chỉ thực hiện hợp đồng. 22

1.5.6 Huỷ bỏ hợp đồng . 23

1.6 Giải quyết tranh chấp hợp đồng đại lý . 23

1.6.1 Giải quyết bằng thương lượng . 24

1.6.2 Giải quyết bằng hoà giải . 24

1.6.3 Giải quyết bằng trọng tài . 24

1.6.4 Giải quyết bằng toà án . 26

CHưƠNG 2. THỰC TIỄN GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐẠI

LÝ TẠI CÔNG TY . 30

2.1 Khái quát về hoạt động đại lý tại công ty . 30

2.2 Quy trình phát triển đại lý . 32

2.3 Những nội dung cơ bản trong giao kết hợp đồng đại lý . 33

2.3.1 Điều khoản điều kiện đại lý . 33

2.3.2 Điều khoản chi phí giá cả . 33

2.3.3 Điều khoản hoa hồng và thanh toán. 33

2.3.4 Điều khoản Quyền và nghĩa vụ của đại lý . 34

2.3.5 Điều khoản Quyền và nghĩa vụ của Nhật Nam . 34

2.3.6 Điều khoản xử lý tranh chấp . 35

2.4 Thực tế thực hiện các điều khoản về hợp đồng đại lý tại Công ty . 35

2.4.1 Trong quá trình ký kết . 35

2.4.2 Trong quá trình thực hiện với khách hàng . 36

2.4.3 Trong quá trình thực hiện với đại lý . 37

2.4.4 Các vấn đề phát sinh ngoài hợp đồng . 38

2.4.5 Vấn đề tranh chấp . 38

CHưƠNG 3. KIẾN NGHỊ . 40

3.1 Một số bất cặp về hợp đồng đại lý . 40

3.1.1 Từ phía đại lý . 40

3.1.2 Từ phía công ty . 40

3.2 Kiến nghị . 40

3.2.1 Hoàn thiện khâu chuẩn bị ký kết hợp đồng . 40

3.2.2 Hoàn thiện nội dung hợp đồng . 41

3.2.3 Chuyên môn hóa hợp đồng . 43

KẾT LUẬN . 45

pdf69 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4714 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế độ pháp lý và thực tiễn về hợp đồng đại lý tại công ty cổ phần phần mềm doanh nghiệp Nhật Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người này vi phạm hợp đồng đã giao kết. Người nhận bảo lãnh phải có tài sản không ít hơn giá trị hợp đồng được bảo lãnh.  Đặt cọc: là trường hợp một bên gaio cho bên kia một tài sản (tiền, kim khí quý,...) để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng.  Ngoài các hình thức trên trong Bộ luật dân sự còn có các hình thức khác như là: kí cược, kí quỹ, phạt vị phạm và các hình thức khác theo thoả thuận của các bên. 18 1.4 Sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng đại lý. Luật thương mại không quy định các trường hợp sửa đổi, chấm dứt, thanh lý hợp đồng đại lý. Nhưng trong bộ luật dân sự có quy định khá cụ thể và chi tiết về các trường hợp này.  Sửa đổi hợp đồng: Theo điều 423 BLDS 2005 về “Sửa đổi hợp đồng dân sự” thì hợp đồng đại lý là loại hợp đồng được soạn thảo bằng văn bản và các loại hình khác có giá trị pháp lý tương đương. Hơn nữa hình thức giao kết hợp đồng đại lý là hình thức giao kết trực tiếp. Chính vì lẽ đó khi có sửa đổi hợp đồng đại lý các bên nhất thiết phải găp gỡ trao đổi các điều khoản cần sửa đổi, sau đó đi đến thống nhất các điều khoản cần sửa đổi. Sau khi sửa đổi xong các bên sẽ chính thức coi các điều khoản đó là các điều khoản trong nội dung của hợp đồng mới.  Theo Điều 424 BLSD 2005 quy định về việc chấm dứt hợp trong các trường hợp sau: Hợp đồng đại lý đã hoàn thành. Theo thoả thuận của các bên. Pháp nhân hoặc các chủ thế khác chấm dứt mà không phải do chính pháp nhân hay chủ thể đó thực hiện. Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thoả thuận thay thế đối tương khác hoặc bồi thường thiệt hại. Các trường hợp khác do pháp luật quy định. * Huỷ bỏ hợp đồng Theo Điều 425 BLSD 2005 về “Hủy bỏ hơp đồng dân sự ” thì các bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng trong các trường hợp sau: nếu một bên đơn phương huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vị phạm hợp là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết 19 về việc huỷ bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại 1.5 Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng Trong trường hợp một trong hai bên không thực hiện đầy đủ hoặc không thực hiện các điều khoản trong hợp đồng đã giao kết thì bên không thực hiện (bên vi phạm) sẽ phải gánh chịu những tránh nhiệm về mặt pháp lý do hành vi của mình gây ra đối với bên còn lại. Trong Hợp đồng đại lý, thì theo Điều 292 LTM 2005 quy định về các chế tài trong thương mại áp dụng trong trường hợp này thì có các chế tài như sau:  Buộc thực hiện đúng hợp đồng.  Phạt vi phạm.  Buộc bồi thường thiệt hại.  Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.  Đình chỉ thực hiện hợp đồng.  Huỷ bỏ hợp đồng.  Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. 1.5.1 Buộc thực hiện đúng hợp đồng Theo Điều 297 LTM 2005 quy định về “Buộc thực hiện đúng hợp đồng” là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc lựa chọn các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Luật Thương mại được đặt ra khi có vi phạm các điều khoản về số lượng, chất lượng hàng hóa, yêu cầu kỹ thuật của công việc. Khi bên vi phạm giao hàng thiếu, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu 20 cầu bên vi phạm phải giao đủ hàng, cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải bù chênh lệch giá. Bên bị vi phạm cũng có thể tự sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và yêu cầu bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. 1.5.2 Phạt vi phạm Theo Điều 300 LTM 2005 Phạt hợp đồng là trường hợp bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thảo thuận. Mức phạt tối đa đối với điều vi phạm hợp đồng do các bên thoả thuận nhưng không được quá 8% phần giá trị hợp đồng bị vi phạm (Theo Điều 301 LTM 2005. Một vấn đề đặt ra, nếu trong hợp đồng hai bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% giá trị hợp đồng, ví dụ: hai bên thỏa thuận, mức phạt 30%, 200%… thì sẽ xử lý như thế nào? Liên quan đến vấn đề này, có hai quan điểm như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc thỏa thuận này là vô hiệu, vì vậy khi giải quyết tranh chấp về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, không chấp nhận yêu cầu này bởi vì xem như hai bên không có thỏa thuận. Quan điểm thứ hai cho rằng, việc thỏa thuận vượt quá 8% chỉ vô hiệu một phần đối với mức phạt vượt quá 8% còn điều khoản phạt vi phạm hợp đồng hoàn toàn có hiệu lực, trong trường hợp này có thể áp dụng mức tối đa 8% yêu cầu của bên bị vi phạm, phần vượt quá không được chấp nhận. Từ thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại, các Tòa án thường chấp nhận quan điểm thứ hai, nghĩa là nếu hai bên thỏa thuận vượt quá 8% thì sẽ áp dụng mức phạt từ 8% trở xuống để giải quyết yêu cầu bồi thường cho bên bị vi phạm15. Chúng tôi cho rằng, điều này hoàn toàn hợp lý, bởi vì, bản chất hợp đồng là ý chí của các bên, trong trường hợp này các bên hoàn toàn chấp nhận sẽ chịu phạt nếu 21 vi phạm hợp đồng, còn việc thỏa thuận mức phạt vượt quá giá trị hợp đồng là do hai bên chưa hiểu biết đầy đủ quy định của Luật Thương mại 2005 chứ không có nghĩa là không có điều khoản về phạt vi phạm.11 1.5.3 Bồi thƣờng thiệt hại Điều 74 Công ước CISG đưa ra khung cơ bản cho việc đền bù thiệt hại: “Thiệt hại do vi phạm hợp đồng của một bên là tổng số các tổn thất kể cả lợi tức bị mất, mà bên kia phải chịu do hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những thiệt hại như vậy không thể vượt quá tổn thất mà bên vi phạm hợp đồng đã dự đoán được hoặc buộc phải dự đoán được trong thời điểm ký kết hợp đồng như là hậu quả có thể xảy ra của vi phạm hợp đồng đó, trên cơ sở các thông tin và tình tiết mà bên vi phạm hợp đồng đã biết hoặc phải biết vào thời điểm đó”. Bộ nguyên tắc Unidroit đưa ra những quy phạm chung cho hợp đồng thương mại quốc tế với mục tiêu thiết lập một bộ nguyên tắc cân bằng để áp dụng trên thế giới không phụ thuộc vào truyền thống pháp luật và điều kiện kinh tế xã hội của các nước. Bộ nguyên tắc này có Mục 4 Chương 7 quy định về bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo Điều 302 LTM 2005, Bồi thường thiệt hại là trường hợp bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và hành vi vi pham hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. 11 Nguyễn Việt Khoa, Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại 2005, ph%e1%ba%a1m-h%e1%bb%a3p-d%e1%bb%93ng-theo-lu%e1%ba%adt-th%c6%b0%c6%a1ng- m%e1%ba%a1i-nam-2005/ 22 1.5.4 Tạm ngừng thực hiện hợp đồng Theo Điều 308 LTM 2005, tạm ngừn thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Tạm ngừng trong những trường hợp sau đây: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã đề thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi áp dụng trách nhiệm bồi thường, cần lưu ý mối quan hệ giữa phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Với bản chất của hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về các hình thức chế tài phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên có quyền thoả thuận về việc bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng và vừa phải bồi thường thiệt hại. Theo Luật thương mại: “Trong trường hợp các bên của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại. 1.5.5 Đình chỉ thực hiện hợp đồng Theo Điều 310 LTM 20005, Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đinh chỉ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản những nghĩa vụ hợp đồng. Theo Điều 419 và 420 Bộ luật dân sự Việt Nam, “một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”3 ; “một bên có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện đình chỉ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Vậy, theo Bộ luật dân sự, khi hợp đồng không được thực hiện, bên không được thực hiện có quyền hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng nếu điều đó đã được thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong thực tế rất nhiều hợp đồng không có điều khoản cho phép một 23 bên hủy bỏ hay đình chỉ hợp đồng khi bên kia có vi phạm. Ở đây, xin chỉ đề cập đến các trường hợp này12. 1.5.6 Huỷ bỏ hợp đồng Theo Điều 312 LTM 2005, quy định huỷ bỏ toàn bộ nội dung hợp đồng và huỷ bỏ một phần nội dung hợp đồng. Huỷ bỏ toàn bộ nội dung hợp đồng là việc loại bỏ hoàn toàn tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bội hợp đồng. Huỷ bỏ một phần nội dung hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại vẫn có hiệu lực. Huỷ bỏ hợp đồng trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ từng phần, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc giao hàng, cung ứng dịch vụ và việc này cấu thành một hành vi vi phạm cơ bản đối với lần giao hàng, cung ừng dịch vụ đó thì bên có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với lần giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ đó. Khi một hợp đồng trong kinh doanh, thương mại bị huỷ bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. 1.6 Giải quyết tranh chấp hợp đồng đại lý Trong quá trình thực hiện hợp đồng, đôi khi không tránh khỏi những bất đồng mà hai bên đều không mong muốn xẩy ra, hoặc do lỗi cố ý hay vô ý xuất phát từ các chủ thể của hợp đồng, tất yếu cần phải giải quyết tranh chấp đó như thế nào để hai bên cùng có lợi cũng như tiếp tục duy trình quan hệ trong thương mại là điều cần thiết. Theo Điều 317 LTM 2005 có 3 hình thức giải quyết tranh chấp như sau:  Thương lượng giữa các bên. 12 Đỗ Văn Đại, Vấn đề hủy bỏ, đình chỉ thực hiện hợp đồng do bị vi phạm trong luật dân sự Việt Nam, 24  Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.  Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. 1.6.1 Giải quyết bằng thƣơng lƣợng Trên tình thần các bên tự thỏa thuận và định đoạt, nên khi có tranh chấp xảy ra, việc đầu tiên là các bên tiến hành gặp gỡ nhau cùng trao đổi bàn bạc giải quyết tranh chấp. Cách giải quyết này có nhiều ưu điểm nhất định: (i) hình thức đơn giản nhất và ít tốn chi phí, (ii) thể hiên ý chí cùng nhau định đoạn đoạt và bảo vệ lợi ích cả ha bên, nên khi hình thức này thực hiện tốt thì vẫn sẽ duy trì được thiện chí hợp tác giữa 2 bên. Vì vậy các bên thương chọn phương pháp này là bước đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp. Nếu các bên có thể tự thương lượng giải quyết được với nhau thì sẽ không phải tiến hành các biện pháp tiếp theo. Nhưng khi tranh chấp chưa được giải quyết thì các bên có thể lựa chọn một trong các hình thức giải quyết sau. 1.6.2 Giải quyết bằng hoà giải Hoà giải là đưa các bên đến người thứ ba để giải quyết tranh chấp, nếu hoà giải thành công, thoả thuận hoà giải được lập thành biên bản hoà giải có chữ ký của các bên và của hòa giải viên. Trong quá trình hoà giải, với thoả thuận giữa các bên, hoà giải viên luôn cố gằng trình bày cho các bên thấy được những triển vọng tốt đẹp nhất để từ đó hoà giải các quan điểm khác nhau, và vì vậy, chuyển tình huống tranh chấp thành sự hoà giải. Hoà giải viên tiến hành quy trình hoà giải mà họ cho rằng theo nguyên tắc vô tư công bằng và theo công lý. Các đề nghị hoặc kiến nghị của hoà giải viên không có giá trị ràng buộc do vậy các bên có thể tự do áp dụng hoặc khước từ. Tuy nhiên các bên có thể đưa các đề nghị của hoà giải viên và một hợp đồng đã ký kết hoặc một quyết định ràng buộc được các bên thoả thuận với nhau. 1.6.3 Giải quyết bằng trọng tài Đây là phương thức giải quyết tranh chấp bằng cách giao vấn đề tranh chấp cho bên thứ ba là các trọng tài để họ phân xử và đưa ra quyết định cuối cùng 25 trong trường hợp các bên không thể dàn xếp được với nhau mà không muốn đưa tranh chấp ra toà án giải quyết. Theo LTTTM 2011, quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp giữa các bên trong hoạt động thương mại theo sự thoả thuận của các bên và theo quy định của pháp luật. Điều kiện để thực hiện là các bên phải có thỏa thuận trong hợp đồng về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại 13, trong trường hợp này, nếu hai bên chưa thực hiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mà khởi kiện ra tòa án thì sẽ bị tòa án thụ từ chối thụ lý 14 và buộc phải giải quyết bằng trọng tài trước. Hội đồng trọng tài sẽ ra quyết định sau khi cân nhắc mọi chứng cứ và lập luận của các bên. Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên; tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không được công bố công khai, rộng rãi. Theo nguyên tắc này họ có thể giữ được bí quyết kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình. Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào. Nhược điểm: Giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao. Việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của tòa án. 13 Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng Tài Thương Mại Số 54/2010/QH12 14 Điều 6 Luật Trọng Tài Thương Mại Số 54/2010/QH12 26 1.6.4 Giải quyết bằng toà án Theo Điều 29 BLTTDS 2004 quy định thẩm quyền của toà án. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hoá; Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê, thuê mua; Tư vấn về kỹ thuật; Xây dựng; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt đường thuỷ, nội địa; Vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không , đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác; Đầu tư, tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác; Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau có mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia tách chuyển đổi hình thức của công ty. Các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. 27 Như vậy thẩm quyền giải quyết của toà án bao gồm rất nhiều hoạt động trong lĩnh vực kịnh doanh thương mại, tuy nhiên chủ thể của hợp đồng chỉ gồm cá nhân và tổ chức, với mục đích là lợi nhuận, trong đó hợp đồng đại lý với mục đích và chủ thể như trên là do toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Thủ tục giải quyết các vụ án theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 bao gổm các bước sau: Khởi kiện và thụ lý vụ án; Chuẩn bị xét xử vụ án; Phiên toà sơ thẩm; Thủ tục phúc thẩm; Thủ tục xem xét lại bản án (quyết định) đã có hiệu lực pháp luật; Thi hành bản án (quyết định) của toà án; Ngoài ra các tranh chấp hợp đồng được giải quyết bằng 2 cơ quan toà án khác nhau là Toà Kinh tế và Toà Dân sự. Theo quy định hiện hành thì Toà Kinh tế và Toà Dân sự có chức năng khác nhau. Toà Dân sự có nhiệm vụ giải quyết các vụ việc dân sự trong đó có tranh chấp về hợp đồng dân sự, Toà Kinh tế có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp kinh tế trong đó có cả các tranh chấp về hợp đồng đại lý. Như vậy thuận lợi của toà án là có tính bắt buộc và cưỡng chế rất cao. Tố tụng tại Tòa án, các bên không phải trả thù lao cho Thẩm phán, ngoài ra phí hành chính rất hợp lý, các bên tranh chấp chỉ mất chi phí cho các luật sư trong việc tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho họ. Các Tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có thể triệu tập bên thứ ba và nhân chứng ra trước Tòa án, đây là quyền cưỡng chế mà trọng tài viên không có. Tuy nhiên, phương pháp này có nhiều bất lợi vì thủ tục xét xử công khai sẽ không cho phép các bên giữ được bí mật kinh doanh và quá trình xết xử kéo dài phức tạp. Còn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có rất nhiều ưu điểm nổi bật. 28 Thứ nhất: về tính chung thẩm, phán quyết của Tòa án thường bị kháng cáo hay kháng nghị. Còn đa số các quyết định Trọng tài không bị kháng cáo, chỉ có thể dựa vào một vài lý do để khước từ quyết định Trọng tài tại Tòa án. Và thường lý do đó là do những sai sót trong thủ tục cơ bản. Thứ hai: về tính trung lập, Mặc dù Thẩm phán có thể khách quan xong họ vẫn phải phụ thuộc vào những quy định của pháp luật, sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng do pháp luật quy định gắn liền với quốc tịch của các họ. Còn các bên có thể bình đẳng về nơi tiến hành Trọng tài, ngôn ngữ sử dụng, quy tắc tố tụng, quốc tịch của các trọng tài viên, và đại diện pháp lý khi đưa tranh chấp của mình ra giải quyết tại Trọng tài. Thứ ba: không phải tất cả các Thẩm phán đề có chuyên môn về lĩnh vực nào đó. Ví dụ, trong các tranh chấp về sáng chế, ngân hàng. Trong các vụ kiện kéo dài, có thể có nhiều Thẩm phán kế tiếp nhau xét xử vụ kiện. Việc xét xử hai cấp đã thấy rõ điều đó, Thẩm phán giải quyết tại phiên tòa sơ thẩm khác với Thẩm phán tại phiên phúc thẩm. Khi giải quyết tại Trọng tài thì lại khác, các bên có thể lựa chọn các trọng tài viên có trình độ chuyên môn cao miễn là trọng tài viên độc lập. Thông thường thì các trọng tài viên theo kiện từ đầu đến cuối. Thứ tư: về tính linh hoạt, đa số các quy tắc tố tụng Trọng tài quy định rất linh hoạt việc xác định thủ tục Trọng tài, phiên họp giải quyết tranh chấp, thời hạn, địa điểm tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và nơi các trọng tài viên gặp gỡ, thời gian soạn thảo quyết định trọng tài. Còn Tòa án bị ràng buộc nghiêm ngặt bởi các quy tắc tố tụng của pháp luật. Thứ năm: về tính bí mật, các phiên xét xử cũng như các phán quyết Tòa án là công khai. Còn các phiên giải quyết tranh chấp của Trọng tài không được tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận được quyết định. Đây là một ưu điểm lớn của Trọng tài khi vụ kiện liên quan đến các bí mật thương mại hay phát minh, các đìều khoản chính trong hợp đồng bao gồm cả những điều khoản về tính bí mật phải tuân thủ trong tố tụng trọng tài. Bởi tính bí mật là rất quan trọng trong tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nên các điều khoản bổ sung về 29 tính bí mật có thể được các bên lập hoặc được trọng tài viên lập để đảm bảo tính bí mật trong tố tụng Trọng tài. Thứ sáu: phán quyết của Tòa án thường rất khó đạt được sự công nhận quốc tế, phán quyết của Tòa án được công nhận tại một nước khác thường thông qua một hiệp định song phương hoặc theo các quy tắc rất nghiêm ngặt. Còn quyết định trọng tài đạt được sự công nhận quốc tế thông qua một loạt các công ước quốc tế và đặc biệt là công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài. Chính vì những ưu điểm trên của hình thức giải quyết bằng trọng tài mà hiện nay trong hầu hết các tranh chấp thương mại, các chủ thể đều có ý định đưa tranh chấp ra trọng tài 30 CHƢƠNG 2 2. THỰC TIỄN GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY 2.1 Khái quát về hoạt động đại lý tại công ty Sau thời gian thành lập và đi vào hoạt động, một năm sau công ty bắt đầu triển khai bán hàng qua kênh bán hàng qua đại lý. Đến thời điểm này Nhật Nam đã triển khai hơn 40 đại lý trong khắp Việt Nam. Hệ thống này đã mang lại gần 50% doanh thu của toàn công ty. Tùy vào điều kiện sẵn có của các đối tác đại lý mà Nhật Nam lựa chọn hình thức đại lý khác nhau, cụ thể là:  Đại lý bán đúng giá và hưởng hoa hồng (đại lý mức 1): đây là hình thức đơn giản nhất đối với các đối tác đại lý, các đại lý chỉ việc bán hàng đến cuối tháng hoặc cuối quý (tùy vào doanh thu) sẽ được Nhật Nam quyết toán hoa hồng. Sau khi bán hàng, việc triển khai phần mềm đến khách hàng (bao gồm công việc cài đặt và hướng dẫn sử dụng phần mềm) do nhân viên của Phòng Triển khai của Nhật Nam đảm nhận. Nghĩa sau, sau khi ký kết hợp đồng với khách hàng thì trách nhiệm của đại lý đối với khách hàng đã hết. Khách hàng sẽ ký hợp đồng trực tiếp với Nhật Nam, đại lý với vai trò là nhân viên bán hàng của công ty.  Đại lý bán hàng và triển khai phần mềm (đại lý mức 2): hình thức đại lý này thì cao hơn đại lý nêu trên, để thực hiện được hình thức này yêu cầu đối tác đại lý phải có đội ngũ triển khai phần mềm. Tuy nhiên, mức hoa hồng mà đại lý được hưởng thường cao hơn nhiều so với hình thức nêu trên. Trong trường hợp này, đại lý có thể trực tiếp ký kết hợp đồng với khách hoặc Nhật Nam sẽ ký trực tiếp với khách hàng tùy thuộc vào mức độ phức tạp của công việc triển khai hợp đồng.  Đại lý tự thực hiện công việc của mình như Nhật Nam (đại lý mức 3): Hình thức này cao nhất trong 3 hình thức đại lý. Đại lý tự đàm phám giá cả với khách hàng (thường cho những hợp đồng lớn, phải đàm phán giá cả) và ký kết hợp đồng với khách hàng. Nếu khách hàng có yêu cầu chỉnh sửa phần mềm (customise) cho phù hợp với nhu cầu quản lý của 31 khách hàng thì đại lý sẽ thực hiện luôn. Nhật Nam thu phí bản quyền phần mềm theo phí cố định đối với khách hàng mà đại lý cung cấp. Nhật Nam hướng đến là một nhà cung cấp phần mềm cho các đại lý là chủ yếu, lúc này đại lý trở thành khách hàng của Nhật Nam. Công ty đang từng bước thực hiện kế hoạch này bằng cách tổ chức các hội nghị đại lý tiềm nằng và sẽ tiến hành hội thảo cũng như đào tạo phần mềm cho các đại lý. Trong thời gian vừa qua (từ khi có hoạt động đại lý đến nay), trong ba hình thức trên thì đều có thuận lợi và khó khăn trong khâu thực hiện, đó là:  Hình thức đại lý bán đúng giá hưởng hoa hồng: Thuận lợi: đại lý chỉ đóng vai trò trung gian tìm kiếm hợp đồng, các công việc còn lại do công ty phụ trách, nên mức độ am hiểu về nhu cầu của khách hàng công ty đều nắm được từ đó phục vụ khách hàng tốt hơn. Khó khăn: do nhu cầu khách hàng khác nhau, nên việc cung cấp sản phẩm đóng gói ra thị trường có nhiều hạn chế nhất định.  Hình thức đại lý tự triển khai phần mềm. Thuận lợi: tăng sự chủ động của đại lý trong việc thực hiện hợp đồng, qua đó đại lý sẽ trãi nghiệm được những thuận lợi và khó khăn từ việc đó, từ đó đại lý sẽ bán hàng tốt hơn. Khó k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTH082.pdf
Tài liệu liên quan