Luận văn Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI - XVIII

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU . 4

1. Lý do chọn đề tài . 4

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn tư liệu . 4

3. Phạm vi nghiên cứu . 7

4. Phương pháp nghiên cứu . 7

5. Bố cục của luận văn . 7

Chương I: CHÍNH QUYỀN ĐẠI VIỆT TRONG CÁC THẾ KỶ XI-XVIII . 9

1. Các chính sách chính trị - quân sự - ngoại giao . 9

1.1. Thời Lý - Trần - Hồ (thế kỷ XI-XIV) . 9

1.2. Thời Lê sơ (thế kỷ XV) . 16

1.3. Thời kỳ Nam – Bắc phân tranh (thế kỷ XVI – XVIII) . 19

2. Chính sách kinh tế - văn hóa – xã hội . 24

2.1. Thời Lý - Trần - Hồ (thế kỷ XI-XIV) . 24

2.2. Thời Lê Sơ (thế kỷ XV) . 27

2.3. Thời kỳ Nam – Bắc phân tranh (thế kỷ XVI-XVIII) . 30

Chương II: QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG LÃNH THỔ VỀ PHÍA NAM TRONG CÁC THẾ KỶ

XI-XV . 35

1. Vùng đất phía Nam . 35

1.2. Chiêm Thành . .35

1.2. Thủy Chân Lạp . 40

2. Hoạt động quân sự - ngoại giao của Đại Việt . 43

2.1. Thời Lý – Trần – Hồ (thế kỷ XI-XIV) . 43

2.2. Thời Lê sơ (thế kỷ XV) . 50

3. Việc di dân, khai khẩn đất đai và vai trò của nhà nước . 57

Chương III: QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG LÃNH THỔ VỀ PHÍA NAM TRONG CÁC THẾ KỶ

XVI – XVIII . 76

1. Nguyễn Hoàng và con đường về phương Nam . 76

2. Hoạt động quân sự, ngoại giao của chính quyền Đàng Trong . 80

3. Công cuộc di dân, khai khẩn đất đai và vai trò của nhà nước phong kiến . 88

3.1. Chúa Nguyễn và vùng đất Thuận – Quảng . 88

3.2. Hôn nhân giữa vua Chân Lạp, vua Chăm Pa và công nương Đại Việt .98

3.3. Lương Văn Chánh và vùng đất Phú Yên. . 101

3.4. Chúa Nguyễn và trấn Thuận Thành. 104

3.5. Nguyễn Hữu Cảnh và vùng Đồng Nai – Gia Định. 105

3.6. Di dân người Hoa trên đất Nam Bộ . 118

3.6.1. Mạc Cửu và vùng đất Hà Tiên . 122

3.6.2. Trần Thượng Xuyên và vùng đất Cù Lao Phố . 129

3.6.3. Dương Ngạn Địch và vùng đất Mỹ Tho . 132

3.7. Đấu tranh giữ gìn và bảo vệ vùng đất mới . 135

KẾT LUẬN . 153

Tài liệu tham khảo . 161

pdf163 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7388 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI - XVIII, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nào cũng muốn đương đầu với Đại Việt. Nhất là khi họ xây thành trì ở phía nam và luôn muốn chiếm phần lãnh thổ của nước Hoa Anh. Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa (1558), sau kiêm luôn chức trấn thủ Quảng Nam (1570). Diện tích hai xứ Thuận Hóa – Quảng Nam đương thời rộng khoảng 45000 km2 (92). Lúc bấy giờ vùng đất cực Nam của Quảng Nam là huyện Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhân (nay là Tuy Phước, Bình Định), bên kia đèo Cù Mông là nước Champa. Champa vẫn vẫn thường cho quân lính quấy phá vùng biên giới giữa hai nước. Vì muốn giữ yên biên cương, bờ cõi của mình chúa Nguyễn Hoàng đã nhiều lần mang quân đi đánh dẹp. Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh cầm quân tiến vào Hoa Anh, vây đánh và hạ thành An Nghiệp – một trong những kinh thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử của vương quốc Champa, đẩy họ về biên giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Cuộc tấn công của Lương Văn Chánh và chính quyền họ Nguyễn mới chỉ nhằm thiết lập lại trật tự cũ như đã có trước đó. Tuy nhiên Lương Văn Chánh (Chính) cũng đã 92 Nguyễn Đình Đầu, Cương vực nước ta dưới thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn, Tạp chí Xưa và Nay - Hội khoa học lịch sử Việt Nam số 320, tháng 11 – 2008. Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI-XVIII Khóa luận tốt nghiệp Trang 81 tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rãi rác từ phía nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn93. Đó chính là cơ sở đầu tiên cho cuộc Nam tiến đầu tiên của nhân dân Đại Việt vào sâu trong vùng lãnh thổ cũ của vương quốc Champa. Năm 1602, Nguyễn Hoàng dựng dinh Thanh Chiêm (Quảng Nam) và giao cho hoàng tử thứ 6 là Nguyễn Phước Nguyên làm trấn thủ dinh Quảng Nam, đây là vùng đất giàu có, nhiều tiềm lực hơn Thuận Hóa nhiều lần. Nguyễn Phước Nguyên đã nhanh chóng xây dựng vùng đất này trở thành một vùng quan trọng về kinh tế, chính trị của Đàng Trong. Năm 1611, nhân chuyện quân Champa sang cướp phá vùng biên giới và xâm chiếm vùng đất Hoa Anh, Nguyễn Hoàng đã sai tướng là Nguyễn Phong đem quân đi đánh. Quân của Champa nhanh chóng bị đánh bại trước sức mạnh quân sự của chính quyền chúa Nguyễn. Vua của Champa là Po Nit đã phải bỏ vùng đất Hoa Anh rút quân về phía nam đèo Cả. Đến lúc này chúa Nguyễn mới chiếm được hẳn vùng đất Hoa Anh (đất cũ của Champa), đặt làm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, hợp thành phủ Phú Yên. Đóng quân để phòng giữ, Lương Văn Chánh được cử làm tham tướng dinh Trấn Biên, sau đổi là dinh Phú Yên. Trong Việt sử xứ Đàng Trong, Phan Khoang đã ghi lại sự kiện này như sau: “Năm Tân hợi (1611), Thái tổ sai chủ sự là Văn Phong đem quân vào đánh Chiêm Thành, lấy đất bên kia đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi, đặt làm phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, cho Văn Phong làm Lưu thủ”94. Đây thực sự là bước Nam tiến đầu tiên của các chúa Nguyễn. Năm 1613, chúa Tiên Nguyễn Hoàng mất, hoàng tử thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên lên nối nghiệp, theo lời dặn của cha tiếp tục xây dựng cơ ngơi để chống đối lại họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Chúa Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635) tính tình hiền hậu như Phật nên người ta thường gọi là chúa Sãi. Chúa Sãi đã tiến hành cải tổ lại bộ máy hành chính và cách cai trị ở Đàng Trong. Lãnh thổ được phân chia theo thừa Tuyên hay xứ, phân thành các chính dinh, dinh ngoài. Dưới dinh là các phủ, huyện. Quan lại làm việc trong các chính dinh hay dinh ngoài cũng có những tên xưng gọi mới khác với Đàng Ngoài như ty Xá sai thì có Đô tri và ký lục giữ, ty Tướng thần lại thì có cai bạ giữ, ty Lệnh sử thì có nha úy giữ95. Năm 1653, đời chúa Nguyễn Phúc Tần, vua Chăm là Bà Tấm xâm lấn vùng đất Phú Yên, Nguyễn Phúc Tần đã sai Cai cơ Hùng Lộc đem quân đi đánh. Hùng Lộc đem quân vượt đèo Hổ Dương núi Thạch Bi, đánh thẳng vào thành của vua Chăm, ban đêm lại cho quân lính phóng hỏa đốt trại của quân Chăm, đại phá quân Champa. Sau đó thừa thắng đuổi Bà Tấm phải chạy dài và chiếm được đất tới tận Phan Rang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư đến xin hàng, chấp nhận địa giới mới là sông Phan Rang (sông Cái), từ sông Phan Rang trở ra thuộc chúa Nguyễn, từ sông Phan Rang trở vào thuộc Champa. Nguyễn Phúc Tần đã đặt tên cho vùng đất mới là phủ Phú Khang và phủ Diên Ninh, lại đặt Dinh Thái Khang ( nay gồm tỉnh Khánh Hòa và một phần phía Bắc tỉnh Ninh Thuận) giao cho Hùng Lộc trấn giữ và bắt vua Chăm hàng năm 93 Lương Ninh, Vương quốc Champa. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội -2006. 94 Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong. Sách đã dẫn, tr 296. 95 Nguyễn Đình Đầu, Cương vực nước ta dưới thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn, Tạp chí Xưa và Nay- Hội khoa học lịch sử Việt Nam, số 320, tháng 11- 2008. Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI-XVIII Khóa luận tốt nghiệp Trang 82 phải cống nạp. Hai phủ này rộng trên 5.500 km2 96. Sau sự kiện năm 1653, cương vực lãnh thổ của Champa đã bị thu hẹp lại khá nhiều, bao gồm từ sông Phan Lang đến khoảng sông Dinh (Hàm Tân), tức đất đai của hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay. Người dân Chăm còn lại tập trung sinh sống ở các vùng đồng bằng sông Lòng Sông (huyện Tuy Phong), sông Phan Rí, sông Phú Hài, sông Phan Thiết và sông Phố Chiêm (Hàm Tân). Champa từ lúc này đã thực sự suy yếu và không còn là sự cản trở đường Nam tiến của người Việt và của chúa Nguyễn nữa. Chúa Nguyễn đã nhanh chóng nắm lấy được quyền kiểm soát ở lưu vực sông Đồng Nai, vốn là đất sinh cơ lập nghiệp lâu đời của người Chăm, rồi thuộc hẳn vào vương quốc Champa, nhưng Champa đã không còn đủ thực lực để kiếm soát vùng này kể từ sau sự kiện năm 1471. Thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), năm Nhâm thân (1692), vua Chăm là Bà Tranh đem quân đắp lũy, cướp giết nhân dân phủ Diên Ninh, quân trấn thủ ở dinh Bình Khương báo lên chúa Nguyễn. Tháng 8, Chúa Hiển Tông đã sai Cai cơ Lê Tài hầu Nguyễn Hữu Kính làm thống binh, Văn chức Nguyễn Đình Quang làm tham mưu, đem quân Chánh dinh cùng quân Quảng Nam và Bình Khương đi đánh. Tháng giêng năm sau (1693), quân Việt đánh bại được quân của Champa, vua Bà Tranh bỏ chạy; quan quân chúa Nguyễn tiếp tục đuổi bắt và đến tháng ba năm đó thì bắt được Bà Tranh cùng một viên quan là Tả Trà Viên Kế Bá Tử và một người trong hoàng gia Chăm là Nàng Mi Bà Ân. Chúa Nguyễn Phước Chu bèn sáp nhập nước Chăm vào bản đồ nước mình, đặt làm một trấn, tên là Thuận Thành97, về sau đổi làm phủ Bình Thuận coi hai huyện An Phước và Hòa Đa, rộng khoảng 11.500 km2. Sự kiện thất bại của vua Bà Tranh năm 1693 trong cuộc đối đầu với chính quyền họ Nguyễn đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong việc mở rộng bờ cõi về phía Nam của chúa Nguyễn. Nước Champa sau 15 thế kỉ tồn tại, đã không thể đứng vững trên vùng đất của mình nữa mà bị xóa sổ. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử lúc bấy giờ. Nước yếu không thể đứng vững trước sự tấn công của các nước lớn mạnh thì sẽ bị diệt vong. Lịch sử của các vương quốc cổ của người Môn cũng là một minh chứng rõ ràng. Dân tộc Chăm cũng không tránh khỏi được quy luật đó của lịch sử, họ không đứng vững được trước những cuộc tấn công của các chúa Nguyễn và làm sóng di cư của người Việt. Thất bại buộc họ phải nhận kết cục là biến lãnh thổ của mình thành một phần lãnh thổ của Đại Việt, dân tộc Chăm sinh sống hoà lẫn với những di dân người Việt trên vùng đất của mình và dần trở thành một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Như vậy, với ba chiến thắng lớn đạt được trên mặt trận quân sự vào các năm 1611, 1653 và 1692, quân đội của chính quyền chúa Nguyễn đã đánh bại hoàn toàn những nổ lực cuối cùng của người Chăm trong việc bảo vệ lãnh thổ, quốc gia của mình. Vương quốc Champa đã hoàn toàn thất bại, thất bại của họ trong cuộc đối đầu với chúa Nguyễn như một tất yếu của lịch sử, và thất bại đó cũng đồng nghĩa với sự diệt vong của vương quốc Champa, một quốc gia đã tồn tại suốt hơn 15 thế kỉ, đã hình thành và phát triển song hành với Đại Việt. Nhưng cuối cùng đã không thể đứng vững được bên sự lớn mạnh của Đại Việt. Cùng với sự diệt vong của Champa là sự mở rộng lãnh thổ của chúa Nguyễn. Lãnh thổ của Đàng Trong lúc này đã bao gồm từ con sông Gianh giáp Đàng Ngoài cho đến tận lãnh thổ của tỉnh Bình Thuận ngày nay. 96 Nguyễn Đình Đầu, Cương vực nước ta dưới thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn . Tạp chí Xưa và Nay - Hội khoa học lịch sử Việt Nam số 320, tháng 11 – 2008. 97 Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong. Sách đã dẫn, tr 299. Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI-XVIII Khóa luận tốt nghiệp Trang 83 Nước Champa, trước đó là Lâm Ấp đã trãi qua hàng ngàn năm quan hệ hòa hiếu với các triều đại Lý, Trần, đã có lúc liên kết với nhà nước phong kiến Đại Việt đánh bại các cuộc tấn công của quân Mông Cổ. Mỗi nước đã xây dựng cho mình một nền chính trị riêng biệt phát triển, có luật pháp. Nhưng chỉ vì hiềm khích, đất nước của một dân tộc Chăm kiêu hùng đã thường xuyên sang cướp phá vùng đất biên cương của Đại Việt, khiến cho quan hệ hai nước không mấy khi hòa thuận với nhau. Đã đối địch với nhau thì sẽ không tránh được quy luật của tạo hóa: kẻ mạnh tồn tại, kẻ yếu bị diệt vong. Bởi vậy mà kể từ khi vua Lê Thánh Tông thân chinh đem quân đánh Champa, lấy đất Chiêm Động, Cổ Lũy lập nên đạo thừa tuyên Quảng Nam và chia Champa làm 3 tiểu quốc nhỏ, từ đó trở về sau thế lực của Chiêm Thành ngày một suy, dân tình ngày một đói kém. Đến thời kỳ các chúa Nguyễn, những gì còn lại của một vương quốc đã tồn tại hàng ngàn năm đã bị chúa Nguyễn lấy hết. Cả một vương quốc rộng lớn, hùng mạnh thuở nào, giờ đã trở thành một trấn của Đại Việt, hơn nữa bộ phân dân cư Chăm củng không còn được mấy ngàn người nữa, trở thành một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam sau này. Tồn tại trong thời kỳ mà các quốc gia phong kiến đang muốn khẳng định sức mạnh và vị thế của mình, Champa đã không tránh được cái họa “cá nhỏ bị cá lớn nuốt”. Trải qua một quảng thời gian trong suốt một thế kỷ, chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã xâm chiếm và sáp nhập được toàn bộ lãnh thổ của Champa vào lãnh thổ của Đại Việt. Trong quá trính thực hiện chiếm hết vùng đất còn lại của Champa, các chúa Nguyễn còn thực hiện các chính sách can thiệp vào Chân Lạp, tạo điều kiện cho lưu dân người Việt tới sinh sống trên lãnh thổ của Thủy Chân Lạp. Cũng bằng các hoạt động quân sự, ngoại giao khôn khéo, dựa vào sức mạnh của mình, các chúa Nguyễn đã từng bước lấn chiếm hết vùng đất của Thủy Chân Lạp ở phía nam vào lãnh thổ của mình. Hoàn thành quá trình mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Vùng đất của Thủy Chân Lạp là vùng đất tương đương với Vùng Đông Nam Bộ nước ta ngày nay. Sau khi hoàn thành việc thôn tính toàn bộ lãnh thổ của nước Chiêm Thành,các chúa Nguyễn tiếp tục tiến hành mở rộng lãnh thổ của mình về phía Nam. Như đã trình bày ở trên vùng đất Thủy Chân Lạp lúc bấy giờ vẫn là vùng đất hoang vu, có rất ít dân cư sinh sống. Chính quyền của Chân Lạp cũng không thể đưa dân tới sinh sống, hay thiết lập chính quyền cai quản ở vùng đất toàn đầm lầy này. Trên bước đường phát triển thế lực của mình, các chúa Nguyễn đã lần lượt xâm chiếm vùng đất của Thủy Chân Lạp bằng nhiều con đường khác nhau, có cả việc giành đất bằng quân sự, và cả việc chiếm đất bằng con đường hòa bình. Mốc sự kiện mở đầu cho cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn vào lãnh thổ của Thủy Chân Lạp là sự kiện năm 1618. Năm 1620, chúa Nguyễn Phước Ngyên đã gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chettha II. Cuộc hôn nhân này đã mở đầu cho giai đoạn sự có mặt của người Việt trên đất Chân Lạp. Cuộc hôn nhân này cũng giúp cho vua Chân Lạp có chỗ dựa vững chắc trong cuộc chiến chống lại tham vọng thôn tính của người Xiêm. Sau cuộc hôn nhân này, chính quyền chúa Nguyễn đã đặt tại kinh đô U Đông một sứ bộ thường trực với lực lượng quân đội rất mạnh. Được sự giúp đỡ và can thiệp của công chúa Ngọc Vạn mà những lưu dân người Việt có điều kiện thuận lợi đến sinh sống, làm ăn trên vùng đất của Thuỷ Chân Lạp ngày một đông. Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI-XVIII Khóa luận tốt nghiệp Trang 84 Năm 1623, chúa Nguyễn Phước Nguyên đã cho mở hai đồn thu thuế tại Kas Krobey (Bến Nghé) và tại Brai Nokor (Sài Gòn – Chợ Lớn). Chúa Nguyễn cũng thiết lập một đồn binh cử tướng chỉ huy, lấy cớ là để giúp chính quyền Chân Lạp, đồng thời nhằm mục đích bảo vệ người Việt di cư đến đây làm ăn, buôn bán và khai hoang. Những lưu dân người Việt dư cư vào sinh sống trên vùng đất Thủy Chân Lạp ngày càng đông và được thoải mái khai hoang, lập ấp. Những lưu dân người Việt sống xen kẽ với người Khmer bản địa, nhưng do khác nhau về cách làm ăn, sinh hoạt, bởi vậy mà nơi nào người Việt tới sinh sống thì những người Khmer lại dạt đi nơi khác. Chính điều này đã làm cho những vùng đất có người Việt sinh sống ngày càng được mở rộng và chịu ảnh hưởng của chính quyền chúa Nguyễn mạnh mẽ hơn là chịu ảnh hưởng của chính quyền Chân Lạp. Điều đó hiển nhiên biến những vùng đất của Chân Lạp trở thành đất của người Việt mỗi khi người Việt đặt chân tới sinh sống. Dù hình thức bề ngoài thì nó vẫn thuộc quyền cai quản của nước Chân Lạp. Tháng 9 năm Mậu Tuất (1658), vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân đem quân xâm lấn biên thùy, chúa Hiền – Nguyễn Phước Tần đã sai phó tướng dinh Trấn Biên là Nguyễn Phước Yến, Cai đội Xuân Thắng và tham mưu Minh Lộc đem 3000 quân đến thành Mỗi Xuy (Bà Rịa), đánh bại quân của Nặc Ông Chân, bắt được vua Chân Lạp mang về Quảng Bình giao nộp cho chúa Nguyễn. Nhưng sau đó chúa Nguyễn đã tha cho Nặc Ông Chân về, bắt hàng năm phải cống nộp. Đổi lại chính quyền Chân Lạp để cho người Việt được tự do tới sinh sống trên vùng đất của Chân Lạp. Sự kiện này được Quốc sử quán triều Nguyễn chép lại trong Đại Nam thực lục như sau: “Tháng 9, vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân xâm lấn biên thùy. Dinh Trấn Biên báo lên. Chúa sai Phó tướng Trấn Biên là Tôn Thất Yến, Cai đội là Xuân Thắng, Tham mưu Minh Lộc đem 3000 quân đến thành Hưng Phúc đánh phá được, bắt Nặc Ông Chân đưa về. Chúa tha tội cho và sai hộ tống về nước, khiến làm phiên thần, hàng năm nộp cống”98. Từ đó người Việt được đến sinh sống ở Gia Định, Biên Hòa và Bà Rịa ngày càng đông. Ban đầu họ sống xen kẻ với những cư dân bản địa ở đây, nhưng dần dần những cư dân bản địa hễ thấy người Việt di cư tới đâu là họ lại tránh xa, lánh đi nơi khác mà không tranh giành gì với những người Việt. Những vùng đất mà người Việt tới sinh sống đương nhiên trở thành vùng đất mà chỉ có người Việt sinh sống. Nhìn những gì mà lưu dân người Việt đã có được trên vùng đất của Thuỷ Chân Lạp thật dễ dàng. Nhưng thực chất thì chính quyền của Chân Lạp đã không có đủ sức và lực lượng để cai quản vùng đất của mình, cũng như đưa dân cư tới sinh sống, khai hoang tại những vùng đất này. Trong khi đó, ảnh hưởng của chính quyền chúa Nguyễn trong triều đình của Chân Lạp ngày càng gia tăng. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho những lưu dân người Việt có điều kiện thuận lợi đến sinh sống, khai hoang, lập xóm làng trên vùng đất mới, hoang vu - Thuỷ Chân Lạp. Sau khi vua của Chân Lạp là Batom Reachea bị một người trong hoàng tộc giết chết, Ang Chei (1673-1674), còn được gọi là Nặc Ông Đài lên làm vua. Đây là ông vua thân với chính quyền của Xiêm. Được sự giúp đỡ của Xiêm, Nặc Ông Đài đã cho đắp chiến lũy ở thành Nam Vang, làm các bè nỗi, dùng xích sắt nối lại với nhau, sau đó được sự tiếp sức của Xiêm La đã đem quân xuống chiếm Sài Côn. Sau đó đã cho đắp thêm chiến lũy dài và kiên cố ở Mỗi Xuy, cho quân đội phòng thủ kiên cố, nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công của chính quyền chúa Nguyễn. 98 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục. Sách đã dẫn, tr 72 Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI-XVIII Khóa luận tốt nghiệp Trang 85 Đầu năm Giáp Dần (1674), chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) sai Cai cơ đạo Nha Trang thuộc dinh Thái Khương là Nguyễn Dương Lâm làm Thống binh, Tướng thần lại Thủ hợp là Nguyễn Diên Phái làm Tham mưu, Văn Sùng làm Thị chiến đem quân đi đánh. Quan quân đi gấp, tháng 3 Nguyễn Diên Phái đến Mỗi Xuy trước, thừa lúc quân Miên không đề phòng, vào chiếm đồn, binh khí không vấy máu. Qua ba ngày quân Miên bốn mặt kéo về,vây đồn Nguyễn Diên Phái đóng cửa kiên thủ, không giao chiến. Đến lúc đại binh Nguyễn Dương Lâm kéo đến, trong ngoài giáp công quân Miên tan rã, tử thương rất nhiều. Đại binh tiến lên chiếm Sài Côn. Đến tháng 4, quan quân chia ra làm hai đường thủy, bộ tiến lên phá hai đồn Gò Bích, Nam Vang, thiêu hủy các thuyền nồi, khóa sắt. Nặc Ông Đài trốn vào rừng, bị người trong đảng giết chết99. Sau đó chúa Nguyễn đã đưa Nặc Thu lên làm chánh vương, đóng đô ở U Đông và đưa Nặc Nộn làm đệ nhị vương đóng đô ở Sài Côn. Uy thế của chúa Nguyễn đã được củng cố vững chắc ở Chân Lạp, lưu dân người Việt được thoải mái trong di dân, khai hoang ở vùng đất mới, cũng như mục tiêu bành trướng của chúa Nguyễn ở vùng đất Thủy Chân Lạp cũng dễ dàng hơn. Một bước tiến lớn của Chúa Nguyễn trong việc xâm chiếm vùng đất của Thủy Chân Lạp được xúc tiến mạnh mẽ kể từ khi xuất hiện những người Hoa chạy nạn sau khi nhà Minh sụp đổ. Đó là sự kiện xảy ra năm 1679, khi các tướng lưu vong của nhà Minh là Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình cùng khoảng 3000 người đến xin thần phục chúa Nguyễn và mong muốn có được một nơi để cư trú, làm ăn sinh sống. Sự kiện này đã được Đại Nam thực lục tiền biên chép lại như sau: “Kỷ Mùi (1679), mùa xuân, tháng giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và phó tương Hoàng tiến, Cao Lôi Liêm tổng binh Trần thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng, tự trần là bô thần nhà Minh, không chịu là tôi tớ nhà Thanh, nên đến xin để làm tôi tớ. Bấy giờ bàn bạc rằng phong tục, tiếng nói của họ đều khác nhau, khó bề sai đúng, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông Phố nước Chân Lạp thì phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng lấy sức của họ đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều. Chúa theo lời bàn, bèn sai đặt yến ủy lạo khen thưởng, trao cho quan chức đến ở đất Đông Phố. Lại cáo dụ nước Chân Lạp rằng như thế có ý không để nước Chân Lạp ra ngoài. Bọn Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Lôi Lạp, đến đóng ở Mĩ Tho. Binh thuyền của Trần Thượng Xuyên và An Bình thì vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lăng. Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá. Thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập, do đó mà phong hóa Hán thấm dần vào đất Đông Phố”100. Việc chúa Nguyễn cho những tướng cũ, lưu vong của nhà Minh đến cư trú, khai phá trên vùng đất của Chân Lạp cho thấy thế lực của chúa Nguyễn ở Chân Lạp lúc bấy giờ là rất lớn, và những vùng đất đó dường như đã nằm trong sự kiểm soát của chính quyền chúa Nguyễn chứ không phải là của Chân Lạp như trong pháp lý nữa. Biểu hiện cụ thể nhất chính là những vùng đất Chân Lạp vẫn tưởng là của mình, chỉ có những lưu dân người Việt sinh sống và đã xây dựng được cơ sở vững chắc với hệ thống làng 99 Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong. Sách đã dẫn, tr 313 100 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục. Sách đã dẫn, tr 91 Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI-XVIII Khóa luận tốt nghiệp Trang 86 xóm, thôn ấp. Những nhóm di dân người Hoa này về sau đã góp công lớn vào công cuộc mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam của chính quyền chúa Nguyễn và góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế trên vùng đất Nam Bộ. Năm 1688, phó tướng Hoàng Tiến đã giết chủ tướng của mình là Dương Ngạn Địch, tự xưng là Phấn Dõng hổ oai tương quân, thống lĩnh binh sĩ của Long Môn, sau đó cho quân lính của mình đi cướp bóc nước Chân Lạp và các vùng xung quanh. Vua của Chân Lạp lúc bấy giờ là Nặc Thu đã bỏ cống nạp và cho quân lính đắp lũy thành ở Gồ Bích, Cầu Nam, Nam Vang, giăng dây xích ngăn các cửa sông để cố thủ. Chúa Nguyễn đã sai phó tướng dinh Trấn Biên (Phú Yên) là Mai Vạn Long đem quân đi dẹp loạn quân của Hoàng Tiến và hỏi tội nước Chân Lạp việc bỏ cống nạp, xây thành lũy chống đối. Chân Lạp sau đó đã chịu nộp cống lại nhưng thất hứa nhiều lần và nộp cống cũng không đầy đủ như trước nữa. Phó tướng Mai Vạn Long đã không đem quân đánh Chân Lạp nên bị chúa Nguyễn cử cai cơ Nguyễn Hữu Hào đến thay thế. “Thống binh Nguyễn Hữu Hào lựa thêm binh ở Phú Yên, Thái Khương Phan Rí, rồi đưa vào Nam, mùa xuân năm sau Giáp ngọ (1690) tiến đóng ở Bích Đôi. Tháng 5, chúa sai sứ đến bảo với Nguyễn Hữu Hào rằng: Nặc Thu nếu muốn chuộc tội thì phải hiến 50 thớt voi đực , 500 lượng vàng, 2000 lượng bạc, 50 tòa tê giác, thì mới rút quân về, nếu không thì phải tiến đánh quân gấp. Hữu Hòa sai người đến bảo với Nặc Thu. Nặc Thu sai đem 20 thớt voi nhỏ, 100 lượng vàng, 500 lượng bạc đến xin hiến”101. Các tướng dưới trướng cho rằng Nặc Thu không chân tình và xin Nguyễn Hữu Hào tiến quân đánh. Nhưng ngặt nổi, Nguyễn Hữu Hào cũng không tiến quân đánh Chân Lạp. Vua Chân Lạp là Nặc Thu đã nhiều lần sai Dao Luật đến van xin. Hữu Hào tin lời và cho rằng, mình không mất một mũi tên cũng khiến được Chân Lạp quy phục nên không tiến quân đánh. Sau đó Nguyễn Hữu Hào đã bị chúa Nguyễn cách chức, phế làm thứ dân. Mặc dù kết quả không được như ý muốn, nhưng cuộc dụng binh lần này của chúa Nguyễn cũng đã bắt được Chân Lạp chịu cống nạp, nhưng lưu dân người Việt đến sinh sống ở vùng đất Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa ngày càng đông. Khoảng năm 1698, một viên quan của Chân Lạp tên là Êm tiến hành nổi loạn trong nước, đã nhờ chúa Nguyễn giúp đỡ quân lính và hứa sẽ nhường các tỉnh Prey Kôr (Sài Gòn), Kâmpeâp Srêkatrey (Biên Hòa), Bà Rịa để đền đáp. Năm 1699, Êm đem quân Việt theo sông MeKong tiến lên đến Kompong Chhnang, nhưng bị đẩy lui, trở về ba tỉnh này, Êm bị giết. Nhưng nhân đó chúa Hiển Tông đã công khai chiếm đất ấy, đặt quan cai trị(102). Năm 1698, chúa Nguyễn Phước Chu sai thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, chia đất Đông Phố, lấy đất xứ Đồng Nai đặt làm huyện Phước Long lập dinh Trấn Biên; lấy sứ Sài Côn đặt huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Ở mỗi dinh đều cho đặt các chức Lưu Thủ, Cai Bạ, Ký Lục và các cơ, đội, thuyền, thủy, bộ tinh binh và thuộc binh. Ông lại cho đặt phủ Gia Định để thống thuộc hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn. Hai dinh này rộng khoảng 30.000 km2. Trong Gia Định Thàn thông chí của Trịnh Hoài Đức cũng chép lại sự kiện này như sau: “Mùa xuân, năm Mậu - dần (1698) đời vua Hiển Tông Hiếu minh hoàng đế sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Kính sang kinh lước xứ Cao - miên, lấy đất Nông-nại đặt 101 Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong. Sách đã dẫn, tr 320 102 Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong. Sách đã dẫn, tr 322 Chính quyền Đại Việt và quá trình mở rộng lãnh thổ về phía nam trong các thế kỷ XI-XVIII Khóa luận tốt nghiệp Trang 87 làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài-côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên-trấn mỗi dinh đặt chức Lưu-thủ, Cai-bộ, và Ký-lục để quản trị; Nha thuộc có hai ty Xá-lại để làm việc; quân binh thì có cơ đội - thuyền thủy-bộ tinh-binh và thuộc binh để hộ vệ”103. Đến đây thì những vùng đất mà chúa Nguyễn chính thức đặt chính quyền quản lý như Gia Định, Biên Hòa và những nơi mà Dương Ngạn Địch đã chiếm được và đang khai phá ở vùng Mĩ Tho, uy quyền của chúa Nguyễn đã đến được sông Tiền Giang, mặc dù chưa chính thức. Như vậy đến cuối thế kỉ XVII, lãnh thổ của chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã được mở rộng tới bờ bắc của con sông Tiền Giang, mặc dù là chưa chính thức, nhưng trên thực tế thì nó đã trở thành một phần lãnh thổ của Đại Việt, bởi chính quyên của Chân Lạp không đủ sức vươn tới để cai quản vùng này. Hơn nữa, một lý do quan trọng khác chính là việc trên những vùng đất mà chúa Nguyễn gây ảnh hưởng tới thì những lưu dân người Việt đã tới sinh sống và ổn định thành các tổ chức làng bản, thôn xóm. Đó chính là cơ sở vững chắc cho việc duy trì chính quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất mới. Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên mất, chú họ Nặc Thuận coi quản công việc trong nước đã xin hiến đất Srok Treang (tức đất Ba Thắc gồm Sóc Trăng, Bạc Liêu) và Preah Trapeang (tức Trà Vinh, Bến Tre ngày nay), cầu xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát đã chấp thuận. Nhưng sau đó không lâu, Nặc Thuận đã bị người con rể là Nặc Hinh giết chết và cướp ngôi, con của Nặc Thuận là Nặc Tôn phải chạy sang Hà Tiên. Nặc Tôn đã cầu xin Mạc Thiên Tứ tâu với chúa Nguyễn để được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn đã chấp thuận và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia Định là Trương Phước Du cùng với Mạc Thiên Tứ mang quân tiến đánh Nặc Hinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftrinhngocthien.pdf