Luận văn Chính sách của vua minh mạng đối với các dân tộc thiểu số ở miền trung

MỤC LỤC

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục bảng, chữ viết tắt

PHẦN MỞ ĐẦU.7

1. Lý do chọn đề tài .7

2. Mục đích nghiên cứu vấn đề.7

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn sử liệu .8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .15

5. Phương pháp nghiên cứu .15

6. Đóng góp của đề tài.16

7. Bố cục luận văn .16

PHẦN NỘI DUNG.17

CHƯƠNG 1 .17

TỔNG QUAN VỀ TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỚC KHI

VUA MINH MẠNG LÊN NGÔI .17

1.1. Sự thành lập triều Nguyễn .17

1.1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực .17

1.1.2. Sự thành lập triều Nguyễn và tình hình Việt Nam thời Gia Long .19

1.2. Những nét chính về thân thế và sự nghiệp của vua Minh Mạng .23

1.2.1. Thân thế và tư tưởng của vua Minh Mạng.23

1.2.2. Sự nghiệp của vua Minh Mạng .29

1.2.2.1. Công cuộc cải cách hành chính .30

1.2.2.2. Việc tuyển chọn quan lại .38

1.2.2.3. Những thay đổi về quân đội và luật pháp.40

1.2.2.4. Phát triển kinh tế.41

1.2.2.5. Mở mang văn hóa - giáo dục .44

1.2.2.6. Quan hệ đối ngoại.46

1.3. Vấn đề dân tộc thiểu số trước và trong thời Gia Long.49

1.3.1. Từ thế kỉ XI đến trước năm 1802.49

1.3.2. Vấn đề dân tộc thiểu số thời Gia Long.54

CHƯƠNG 2 .59

pdf167 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 673 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách của vua minh mạng đối với các dân tộc thiểu số ở miền trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xét duyệt, rồi đem bản ất đưa về tỉnh tuân chiểu” [73, tr.42]. Để đánh thuế cho sát với thực tế, vua Minh Mạng cũng như các vua triều Nguyễn sau này còn ra định lệ: Sổ đinh, sổ điền cứ mỗi năm một lần “tiểu tu”, 5 năm một lần “đại tu” [73, tr.42]. Về văn hóa - giáo dục, vua Minh Mạng chủ trương đồng hóa, đẩy mạnh giáo dục Nho giáo, tiến tới đào tạo quan lại tại chỗ. Để đảm bảo cho các biện pháp hành chính, kinh tế đạt hiệu quả, các vua triều Nguyễn nói chung, nhất là vua Minh Mạng cũng chú ý đến việc giáo dục văn hóa, “giáo hóa” con em các dân tộc thiểu số. Cốt lõi của chính sách giáo hóa này là đồng hóa các dân tộc thiểu số theo phong tục tập quán của người Kinh. Điều này được các vua triều Nguyễn công khai thừa nhận và coi đó là biểu thị lòng nhân rộng lớn của họ. Có thể thấy rõ điều này qua sự kiện sau: Năm 1836, nhà vua cho phép các vị Thổ ty thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hóa, Tuyên Quang và Thái Nguyên ở Bắc kỳ vào kinh chiêm bái (chầu 71 vua). Nhà vua xuống dụ cho các quan Nội Các rằng: “Bọn họ tuy ở nơi biên thùy xa xôi, nhưng cũng là tôi con triều đình Gần đây, triều đình mới thiết lập các đơn vị hành chính, bổ dụng quan người Kinh tới cai trị, là ý muốn cho họ mau được tiêm nhiễm phong hóa vùng Kinh, thật ra triều đình không có ý kỳ thi, các tỉnh thần nên truyền đạt chỉ thị bảo họ nếu ai muốn tới kinh đô chiêm bái chầu vua, để được ban ân, thảy đều được chuẩn hứa; vì đây là ý chí “nhất thị đồng nhân” của Trẫm” [60, tr.325]. Từ khi đặt lưu quan ở các tỉnh biên giới Bắc kỳ, vua Minh Mạng ban chỉ dụ giao cho các tri huyện người Kinh kiêm nhiệm luôn chức huấn đạo, phụ trách việc giáo dục con em các dân tộc thiểu số. Để đẩy mạnh việc dạy và học theo tinh thần Nho giáo, hằng năm Minh Mạng cho in lại các bộ sách kinh điển của Nho gia và ban phát cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Vào năm 1838, vua Minh Mạng cho phép các tuần phủ, bố chính, án sát các tỉnh biên giới “đều xét con em của thổ quan hoặc nhà dân trong hạt, không cứ học đủ văn thể ba kỳ, ai là người tuấn tú, thông thái thì cho lấy về kinh cho học ở Quốc tử giám” [44, tr.37]. Số người này khi theo học ở Quốc tử giám cũng được gọi là “Cống sinh” như các tỉnh miền xuôi. Và số học sinh này cũng được phát lương, tùy theo mức độ chăm chỉ hay lười biếng, nhưng trung bình là 2 quan tiền, 2 phương gạo và 4 cân dầu thắp hàng tháng. Đây chính là chủ trương đào tạo quan lại tại chỗ của các vua triều Nguyễn. Tất nhiên, những viên quan “thổ” sau khi được đào tạo ở Quốc tử giám có sự thay đổi về “chất” so với số thổ quan thế tập trước đó. Cũng trong năm 1838, vua Minh Mạng cho đặt chức tổng giáo, phụ trách việc giáo dục cho con em các dân tộc thiểu số ở Bắc kỳ. Tổng giáo là một chức quan nhỏ, vả lại việc học hành thi cử tại vùng dân tộc thiểu số chưa phát triển nên nhà vua đã dụ cho bộ Lễ “chỉ nên chọn học trò Kinh, hơi có học hạnh, cấp bằng tổng giáo, hàng tháng cấp cho tiền một quan, gạo một phương, cũng không phải làm nhà học, cứ tùy tiện trú ngụ để dạy bảo, không cứ con em thổ mục hay thổ dân, đều hàng tháng phải dạy học” [73, tr.43]. Chế độ Tổng giáo này được duy trì đến những năm trước cách mạng tháng Tám mới bãi bỏ. Như vậy, đối với các dân tộc thiểu số ở miền Bắc, vua Minh Mạng thực hiện nhiều chính sách cứng rắn, can thiệp sâu và trực tiếp vào nội bộ các dân tộc thiểu số. Lần đầu tiên trong lịch sử, quyền lực của các thổ tù, lang cun, lang đạo bị hạ cấp, điều 72 này góp phần củng cố sự ổn định vùng biên cương phía Bắc của Tổ quốc. Tuy nhiên, những biện pháp quá cứng rắn của vua Minh Mạng, ví dụ như chế độ “lưu quan” và chính sách thuế khóa nặng nề đã vấp phải sự phản đối của các tù trưởng cũng như thổ dân. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thiểu số diễn ra dưới triều Minh Mạng. 2.2.2. Chính sách dân tộc của vua Minh Mạng ở miền Nam Nếu như ở phía Bắc, những chính sách của vua Minh Mạng đối với các dân tộc thiểu số khá cứng rắn thì ở phía Nam, những chính sách của nhà vua có phần nhẹ tay hơn nhiều. Điều này thể hiện rõ trong những chính sách của vua Minh Mạng đối với người Khơme. Người Khơme cư trú chủ yếu ở khu vực Tây nam của Tổ quốc (đặc biệt là ở trên địa bàn hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh hiện nay), tiếp giáp với lãnh thổ của Xiêm, Chân Lạp. Ngoài những cư dân cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, họ còn có những người đồng tộc sống bên kia biên giới (Chân Lạp). Bởi vậy, triều Nguyễn nói chung và triều Minh Mạng nói riêng chủ trương sử dụng biện pháp “phủ dụ” là chính để vừa nắm được người Khơ me, vừa kiểm soát được biên giới phía Tây Nam và giữ thế cân bằng với vương quốc Xiêm. Nếu như dưới thời Gia Long, người Khơme được cai quản dân họ thì sang thời Minh Mạng, do yêu cầu củng cố hơn nữa vị trí, vai trò của nhà nước trung ương, nhà vua đã tăng cường kiểm soát bằng cách cử các quan lại người Việt đến cai trị địa phương và đặt các họ cho người Khơme để ghi vào sổ sách nhằm quản lý nhân đinh, điền thổ, thực hiện chính sách dân tộc. Tuy nhiên, về mặt kinh tế, vua Minh Mạng thực hiện chính sách thuế khóa nương nhẹ đối với người Khơme. Minh Mệnh chính yếu ghi lại: năm 1830, quan thành Gia Định tâu: “Hạt Châu Đốc là vùng cương giới mới mẻ, ruộng đất chưa được khai khẩn hết. Xin được triển hoãn việc thâu thuế. Nhà vua dụ rằng: “Đất đó là vùng biên giới quan trọng của quốc gia, trẫm muốn vì nhân dân bảo thủ, cho nên phải đặc biệt chú ý tới việc cai trị. Đó chính là chính sách kế hoạch biên phòng. Còn vấn đề thuế khóa đinh điền, đâu phải là việc cần phải toan tính trước” [60, tr.299-300]. Ngay sau đó, vua Minh Mạng đã xuống chỉ miễn thuế ba năm cho vùng đất này. 73 Đối với một số nhóm dân tộc thiểu số không chịu thần phục triều đình, vua Minh Mạng vẫn kiên trì dùng “đức” để giáo hóa và tránh những hành động quân sự không cần thiết. Năm 1839, quan bố chính tỉnh Biên Hòa là Phạm Duy Trinh tâu rằng: “Đám người Mọi ở Thượng nguyên thuộc thổ huyện, có nhiều tên ỷ thế là chúng ở nơi xa xôi hiểm trở, cho người chiêu dụ cũng chẳng chịu tới, vậy xin phép cho đem quân binh tới truy tầm bắt giết đi”. Nhà vua xuống dụ: “Thổ dân ở những huyện tân thiết trong tỉnh Biên Hòa, đã được thấm nhuần phong hóa miền Kinh; cùng nhau ăn ở chung sống, cày ruộng lấy cơm ăn, đào giếng lấy nước uống, đã có cơ ngơi hướng theo phong hóa. Chỉ còn lại một số dân mường mọi xa xôi chưa chịu qui phục, nên phải kêu gọi dỗ dành họ, chớ nên vội vã dùng tới binh uy. Phương chi bây giờ bốn mặt biên thùy đều đã được an ninh vô sự, giáo hóa là điều kiện tiên quyết. Kẻ đã qui phục rồi, ta lấy đại đức mà ôm ấp trìu mến họ, hầu làm gương cho những người chưa chịu qui phụ trông theo mà bắt chước. Như vậy, chẳng cần phải dùng tới biện pháp quân sự cũng cứ vẫn thu phục được tất cả” [60, tr.351-352]. Đối với cộng đồng người Chăm ở vùng Châu Đốc, vua Minh Mạng chấp nhận đề nghị của Trương Minh Giảng cho chiêu tập người Chăm khai khẩn các vùng đất hoang hóa, lập dinh điền ở vùng đất biên giới, phục vụ bảo vệ biên cương. Đối với cộng đồng người Hoa đang sinh sống tại Nam kỳ, trước khởi nghĩa Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng vẫn tạo điều kiện cho họ được cư trú làm ăn, tuy nhiên, nhà vua vẫn dè chừng với tầng lớp thương nhân. Khi cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi nổ ra có sự tham gia đông đảo của người Hoa, nhà vua đã thay đổi hoàn toàn thái độ. Năm 1833, nhà Nguyễn bắt được hơn 800 người Hoa ở vùng Gia Định, vua Minh Mạng đã ra lệnh xử lý nghiêm minh, kể cả các biện pháp lưu đày, quản thúc để ngăn ngừa hậu họa. Tóm lại, đối với các dân tộc thiểu số ở miền Nam, chính sách của vua Minh Mạng nghiêng về vỗ về, phủ dụ là chính, hạn chế những biện pháp quân sự. Điều này góp phần ổn định và giữ vững biên giới Tây nam của Tổ quốc. 74 2.3. Chính sách dân tộc của vua Minh Mạng ở miền Trung Như đã trình bày ở trên, vùng đất miền Trung dưới thời Nguyễn là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc thiểu số. Tại đây, theo cách phân loại của triều Nguyễn, các dân tộc thiểu số được chia làm hai loại: Thuộc Man và Thuộc quốc. Những dân tộc thiểu số được gọi là “Thuộc Man” là những dân tộc nằm trong phạm vi quản lý trực tiếp của triều đình, họ phải chịu đóng góp tô thuế, lao dịch, binh dịch cho triều đình trung ương như dân tộc Kinh. Họ là “con dân” của quốc gia Việt Nam, hay nói theo cách nói hiện nay là họ có “quốc tịch Việt Nam”. Còn những dân tộc thiểu số cư trú tại cao nguyên miền thượng hay chính là vùng Tây Nguyên sau này, từ lâu đời quần tụ trong hai “nước” là Thủy Xá và Hỏa Xá, họ được các vua triều Nguyễn coi là “Thuộc quốc”, ngang hàng với các nước như Vạn Tượng, Nam Chưởng, Chân Lạp. Quốc vương của Thủy Xá và Hỏa Xá thể hiện sự qui phục triều đình nhà Nguyễn bằng một hành vi có tính chất biểu trưng là tiến cống sản vật địa phương. 2.3.1. Chính sách đối với Thuộc Man Trong chính sách đối với các dân tộc thiểu số ở miền Trung, chính sách đối với các Thuộc Man chiếm vị trí quan trọng hơn. Bằng chứng là dưới thời Minh Mạng, có rất nhiều chỉ dụ được ban hành liên quan đến dân “Thuộc Man”. Nội dung xoay quanh các lĩnh vực hành chính, kinh tế, văn hóa và giáo dục ở vùng “Thuộc Man”. 2.3.1.1. Phủ dụ và cai quản Thuộc Man Tư tưởng chủ đạo của vua Minh Mạng trong chính sách đối với các Thuộc Man là phủ dụ, vỗ yên dân Man, hết sức hạn chế những hành động quân sự. Điều này thể hiện rõ qua các chỉ dụ sau: Năm 1825, quan trấn Bình Hòa, các ông Nguyễn Văn Quế tâu rằng: “Dân Mọi thuộc các sách (làng) Phất Tỉnh, Tiết Kinh hiện đã phủ dụ được hai trăm người chịu qui phục làm dân Việt ta, còn độ trên bốn mươi người nữa thì hiện đang phái người đi chiêu dụ mấy Tù trưởng của họ về qui phụ”. Nhân việc này, nhà vua xuống dụ: “Dân Mọi rợ một lúc nào đó tỏ ra ương ngạnh, quan trấn chỉ nên khéo léo phủ dụ họ. Vì chưa phải dùng tới biện pháp quân sự mà bọn đó đã có người chịu về qui phụ ta, 75 chứng tỏ họ đã biết hối đầu hối cải. Do đó, ta cần phải thi ân tác huệ đối với họ, hầu dẫn dắt họ vào đường thiện lương, tiến hóa” [60, tr.287]. Năm 1826, nhân sự kiện bảy sách Mọi ở trấn Bình Hòa tới nộp thuế, quan trấn tâu lên. Vua Minh Mạng đã dụ: “Đám người Mọi nay đã biết hối cải, thành khẩn tới nộp thuế, lòng thành thật của họ đáng được thể tất. Quốc pháp đã được công bố, vậy ta nên lấy nhân đức mà cưu mang họ” [60, tr.351-352]. Sau đó, nhà vua xuống dụ cho các quan trấn phải thết tiệc, khoản đãi họ tử tế, dùng những lời niềm nở phủ dụ họ trước khi họ lên đường về xứ. Những ghi chép của Minh Mệnh chính yếu cho thấy rất nhiều lần vua Minh Mạng đã bỏ qua những lỗi phạm của dân Man, nhà vua cho rằng họ đều là tôi con của triều đình, có phạm lỗi vì chưa biết phong tục lễ giáo nên “bất tất phải xét kĩ” mà nên “một phen sửa đổi, để chữa thói man” [43, tr.489]. Bên cạnh biện pháp phủ dụ, nhà nước tiến hành cai trị chặt chẽ hơn những dân Man từ lâu thuộc quyền quản lí của triều đình phong kiến Việt Nam. Đặc biệt ở những nơi quyền lực của các tù trưởng hoặc lang cun, lang đạo quá lớn. Điều này được chứng thực qua các sự kiện: Năm 1822, ở đạo Thanh Hoa thượng (thuộc trấn Thanh Hóa), có ông Hà Công Quỳnh là Chánh trưởng chi dòng họ Hà, Đặng Lưu Thân là tả chánh Trưởng chi, cả hai đều làm việc ở trấn. Vì vậy quan trấn tâu xin cho phép hai ông được tập quản cai trị thổ dân theo tục lệ cha truyền con nối của người thượng du. Nhưng không được nhà vua đồng ý. Vua đã dụ: “Xưa kia Hà Công Thái có nhiều công lao nên mới được phép giữ chức vụ đó. Nay con là Hà Công Quỳnh là người tầm thường không đủ khả năng chinh phục được mọi người dân. Nên để hắn tập quản toàn bộ như cha hắn là việc không thể được, chỉ để cho hắn quản trị một chi thôi cũng đủ rồi” [59, tr.282]. Việc bỏ lệ tập quản của vua Minh Mạng đã đụng chạm đến quyền lực của các tù trưởng, lang cun, lang đạo ở các dân tộc thiểu số. Một vấn đề mà các triều đại trước, ngay cả vua Gia Long cũng chưa dám thực hiện. Sau khi bỏ lệ tập quản, vua Minh Mạng đã tiến thêm một bước bằng cách dụ cho các quan trấn lựa chọn người phù hợp cai trị vùng dân tộc thiểu số. Ban đầu, nhà vua cho phép người dân tộc thiểu số được cai quản dân họ. Tuy nhiên, những vị quan 76 Thổ này cũng phải đáp ứng được các yêu cầu như phải tốt, “mẫn cán khả kham, được nhân dân tín phục” [60, tr.311]. Về sau, nhà vua còn tiến xa hơn trong việc cai quản dân tộc thiểu số: đó là việc bổ nhiệm quan lại người Kinh trực tiếp cai trị thổ dân. Nếu như ở miền Bắc, nhà nước cho thực hiện chế độ “lưu quan”, quan lại người Kinh và người Thổ cùng hợp lực làm việc, thì ở miền Trung triều đình đã cho quan lại người Kinh trực tiếp cai trị. Có thể nói đây là một chủ trương khá táo bạo và khó thực hiện. Bởi vậy, sau khi tiến hành cải cách hành chính trên cả nước, nhà vua mới cho tiến hành thí điểm ở trấn Thuận Thành. Trấn Thuận Thành là vùng cư trú chủ yếu của dân tộc Chăm, là hậu duệ của nước Chiêm Thành xưa. Vua Minh Mạng cho rằng họ đã thống thuộc triều đình hai trăm năm, đã tiêm nhiễm phong hóa người Kinh nên cho quan chức tới đó cai trị để “biểu thị tinh thần không phân biệt trong ngoài”. Sau đó, nhà vua cho quan thị lang Lê Nguyên Trung đến Thuận Thành kinh lý, “đặt thêm hai huyện: Tuy Phong cho lệ thuộc phủ Ninh Thuận, Tuy Định cho thuộc phủ Hàm Thuận; đặt quan tri phủ, tri huyện, giáo thụ, huấn đạo, phân định chức chưởng chính trị và giáo dục” [60, tr.307]. Cũng trong năm này (1832), triều đình cho đổi trấn Thuận Thành làm tỉnh Bình Thuận. Việc chia đặt các đơn vị hành chính và chức quan ở tỉnh Bình Thuận như các tỉnh khác cho thấy càng ngày triều đình càng can thiệp sâu vào nội bộ các dân tộc thiểu số. Điều này dễ dẫn đến sự chống đối của các dân tộc thiểu số đối với triều Nguyễn. Có lẽ vì thế mà nhà vua chỉ có thể thực hiện ở trấn Thuận Thành mà thôi. Mặt khác, để ngăn chặn sự phản kháng này, vua Minh Mạng cũng tiến hành vỗ yên dân tộc Chăm bằng cách cho kiến thiết miếu điện, cho phép “mỗi năm hai kì xuân, thu” được tế lễ các vị vua Chăm. Ngoài ra, nhà vua còn nhiều lần miễn, giảm thuế cho dân Chăm ở những vùng khó khăn, không nộp thuế đúng hạn. Ngoài việc phủ dụ và cai trị chặt chẽ những dân Man đã sinh sống từ lâu trên lãnh thổ Việt Nam, vua Minh Mạng cũng thu nhận các vùng đất mới ở phía tây miền Trung vào bản đồ của nước Việt. Sau đó, triều đình cho thay đổi đơn vị hành chính và đặt quan chức ở những vùng đất này. Sách Hội Điển đã ghi lại việc làm này trong nhiều năm: 77 “Năm 1822, đặt châu Hướng Hóa, đặt chức tổng trưởng các sách. Hướng Hóa thuộc đạo Cam Lộ (Quảng Trị). Năm 1823, đổi tên các bộ cống man Sái Nguyên (thuộc Cam Lộ), đổi Tầm Bồn làm Tầm Bôn, Phá Băng làm Tá Bang, Xương Cấm làm Xương Thịnh, Cha Phun làm Na Bôn, Mường Vang, Thượng Kế, Lang Thì đều đọc theo âm chính. Năm 1827, đặt chức Thổ tri châu ở các châu: Mường Vang, Na Bôn, Thượng Kế, Tá Bang, Xương Thịnh, Tầm Bôn, Ba Lan, Mường Bổng, Lang Thì. Chín châu này thuộc đạo Cam Lộ, vua cũng chuẩn cấp cho mỗi châu một cái đồ ký (một loại con dấu) bằng đồng, một cái kiềm (con dấu) bằng gỗ. Cũng trong năm này, vua Minh Mạng cho thu nạp phủ Trấn Ninh vào nước Việt. Nhà vua phong tù trưởng Trấn Ninh là Thiều Nội làm chức phòng ngự sử. Đặt chức Thổ tri huyện và Thổ huyện thừa ở 7 huyện thuộc phủ này. Ngoài ra, vua Minh Mạng còn cho đổi các mường Cam Cát, Cam Muộn và Long Phàm Linh, thuộc châu Trịnh Cao, phủ Ngọc Ma, trấn Nghệ An thành các huyện Cam Cát, Cam Muộn và Long Phàm Linh đổi làm huyện Cam Linh, cho đặt chức Thổ tri huyện và ban con dấu kèm theo. Năm 1828, đổi 3 động Thâm Nguyên, Yên Sơn, Mộng Sơn thuộc phủ Lộc An trấn Nghệ An làm huyện, lấy 3 động này làm phủ Trấn Tĩnh. Đặt chức tuyên úy đồng tri cho Thiều Phì Phọc Khâm, quản lý công việc của phủ. Ở các huyện đặt Thổ tri huyện, Thổ huyện thừa. Cũng trong năm này, đổi mường Lạc Hoàn làm phủ Lạc Biên. Cho man trưởng Phục Bô Lâm làm chức tuyên úy đồng tri, cai quản công việc phủ ấy” [43, tr.519-521]. Đồng thời với việc chia đặt đơn vị hành chính, cử quan lại cai trị ở các vùng dân tộc thiểu số, vua Minh Mạng luôn gắn vấn đề dân tộc thiểu số với vấn đề quốc phòng và ngoại giao. Điều này xuất phát từ đặc điểm của các dân tộc thiểu số ở miền Trung nói riêng và cả nước nói chung là họ thường sống ở vùng rừng núi, ven biên giới, có khi cùng dân tộc nhưng lại sống ở hai quốc gia khác nhau. Có những dân tộc có số lượng đông (so với các tộc thiểu số khác), có khu vực cư trú rộng lớn, ổn định nhưng một số khác lại có số lượng ít, thường xuyên bị các dân tộc ở nơi khác ức hiếp. Đặc biệt, các dân tộc thiểu số ở miền Trung còn bị quân Xiêm quấy nhiễu. Trong những trường hợp đó, vua Minh Mạng phải cho quân triều đình đi dẹp giặc Xiêm, giữ yên biên giới, giúp nhân dân các dân tộc thiểu số được yên ổn, làm ăn sinh sống. Ông 78 cũng từng dụ quần thần: “những vấn đề quan trọng liên quan đến biên giới. Các quan trấn phải hết sức thi hành chu đáo, chớ để lệch lạc” [60, tr.282]. Trong việc cai trị dân tộc thiểu số, vua Minh Mạng cũng coi trọng vấn đề thưởng và phạt. Tuy nhiên, để thực hiện chủ trương “phủ dụ là chính”, nhà vua thiên về “thưởng” nhiều hơn. Có thể thấy rõ điều này qua các sự kiện: Năm 1834, bọn phản loạn (nghịch Huống, nghịch Khuyết) khởi biến, xua đuổi thổ dân và thổ mục đầu hàng giặc Xiêm. Chỉ có một mình viên thổ tri huyện và thừa biện huyện là không theo giặc, bảo toàn được địa phận. Quan tỉnh Nghệ An tâu lên, vua đã “gia cấp” cho tri huyện Liêm làm tri phủ, thừa biện được gia cấp hàm tri huyện. Cũng trong năm này, các quan Thổ ở phủ Trấn Man (thuộc Thanh Hóa) đã ngăn chặn được quân Xiêm quấy nhiễu biên giới. Quan tỉnh tâu về triều, nhà vua khen là “những hành động đạt lý, truyền cho họ tới Thuận Kinh để được ân thưởng theo tài năng và công lao của từng người” [60, tr.314]. Vua Minh Mạng cũng thưởng rất hậu cho những viên quan có công chiêu tập nhân dân các dân tộc thiểu số, giảm thuế cho những người không theo giặc hoặc đã tham gia làm loạn nhưng biết hối cải. Có thưởng có phạt, nhà vua cũng trách phạt những vị quan không hoàn thành nhiệm vụ. Có thể kể đến trường hợp Nguyễn Văn Xuân ở Bình Hòa năm 1825. Nguyên do là Nguyễn Văn Xuân cai trị quá tàn ác nên người Mọi ở Đồng Hương và Đồng Nai thuộc trấn Bình Hòa nổi lên trộm cướp. Vua Minh Mạng đã cho quân tới tuần tiễu. Đồng thời, nhà vua cũng dụ họ rằng: “Giống người Mọi ở đấy vốn là cung thuận. Nay bỗng dưng xảy ra biến cố ấy, biết đâu lại không vì lí do các viên chức quan lại biên phòng tư nang nhũng nhiễu, khiến họ phải làm xằng. Bọn các ngươi đã không biết cấm trấp thuộc viên, phủ dụ quần chúng dân Mọi, tới khi xảy ra việc rồi lại không biết tìm hiểu do lai nguyên ủy cho minh bạch, hầu phân biệt đối xử cho đúng đắn công bằng, bằng uy pháp, bằng gia ân, lại nhất nhất phô trương binh lực lính tráng ngựa voi như thế làm gì” [60, tr.285]. Đối với các viên quan được cử cai trị mà phạm lỗi, nhà vua trách phạt nặng. Nhưng các viên thổ quan hoặc thổ dân phạm lỗi, được vua xử nhẹ tay hơn, chủ yếu dùng biện pháp răn đe là chính. Bởi nhà vua cho rằng họ chưa tường luật pháp của triều đình nên mới tha cho, “bất tất phải xét kĩ”. Tuy nhiên, nếu dân Man còn ngoan 79 cố thì vua Minh Mạng cũng sẵn sàng “tiến hành tiểu phạt, bắt lấy giải đưa về Kinh xét trị, để rõ phép nước” [43, tr.491]. Như vậy, một khi không thể dùng biện pháp hành chính được nữa thì nhà vua mới dùng đến biện pháp quân sự để cai trị các dân tộc thiểu số ở miền Trung. Hiện tượng này xảy ra phổ biến ở vùng núi Nam - Ngãi - Bình Định. Đặc biệt là ở Quảng Ngãi, những người Thượng Đá Vách mà sử triều Nguyễn gọi là “Thạch Bích Man” thường xuyên nổi lên quấy nhiễu, chống lại triều đình trung ương. Chính quyền chúa Nguyễn trước kia và cả triều Nguyễn sau này phải khó khăn lắm mới đánh dẹp được họ. Tác phẩm “Sãi Vãi” của Nguyễn Cư Trinh ghi lại những đoạn thơ nói về tinh thần khiếp nhược của quân sĩ trước quân Đá Vách: “Đường phương Nam thấy đó chẳng xa, thì những sợ nhiều quân Đá Vách Tưởng thôi lạc phách, nhớ đến kinh hồn Nọ giết người như dế như giun, nọ hại người như rắn như rít Đến đâu là tảo trận, bắt được ắt giết tươi Đã vào làng cướp của hại người, lại xuống nội đuổi trâu bắt ngựa” [17, tr.93]. Sở dĩ những người “Mọi Đá Vách” có thể gây khó khăn cho triều đình trung ương bởi vì họ thoắt ẩn, thoắt hiện, khi quân triều đình đến thì họ lại trốn vào vách núi đá dựng đứng, quân triều đình không thể vào được, khi quân triều đình đi thì họ lại ra cướp phá. Dưới triều Gia Long, “Mọi Đá Vách” đã từng quấy nhiễu, nhà vua nhiều lần sai quân đánh dẹp nhưng không ngăn chặn được họ. Vào cuối đời, nhà vua đã cho Lê Văn Duyệt xây công trình Trường lũy để ngăn chặn sự xâm nhập của họ xuống đồng bằng. Sang thời Minh Mạng, công trình Trường lũy tiếp tục được kiến thiết: “Năm 1822, vua Minh Mạng cho đổi các chức trưởng lân ấp, phó lân ấp đã có từ thời Gia Long thành bát phẩm bách hộ, cửu phẩm bách hộ. Năm 1832, vệ quân Minh Nghĩa (quân đồn trú tại Trường lũy) rút về Nam, đồng thời đổi tên các đơn vị đồn trú. Sáu kiên thành sáu cơ Tĩnh Man, cơ Trung Kiên thành Cơ Nhứt, cơ Tiền Kiên thành Cơ Nhì, cơ Tả Kiên thành Cơ Ba, cơ Hữu Kiên thành Cơ Tư, cơ Hậu Kiên thành Cơ Năm, cơ Nội Kiên thành Cơ Sáu. Các lân ấp dân cư thì vẫn như cũ, quân đội lập thêm hai đồn bảo, cộng cả thảy là 117 đồn bảo do 80 quân đội quản lý. Lại xem xét tình thế từng vùng đất, cải thiết 31 đồn canh của dân trong khắp sáu cơ Tấn Phận. Như vậy, dọc Trường lũy có cả thảy 148 đồn canh. Năm 1833, Gia Định có loạn Lê Văn Khôi, triều đình lấy 1000 biền binh (quân chính quy) của sáu cơ Tĩnh Man biên chế thành hai vệ quân là vệ Tráng Uy và vệ Nghiêm Uy, di chuyển vào Gia Định đánh giặc. Quân còn lại giao cho tỉnh, đặt dưới quyền chỉ huy thống nhất của quan lãnh binh tỉnh nhà. Công thự của quan lãnh binh đặt tại làng Bồ Đề, huyện Chương Nghĩa. Năm 1834, triều đình lại lấy tiếp 250 biền binh trong sáu cơ, cộng với 500 lính của tỉnh, biên chế thành vệ quân Hùng Uy, phái vào Phú Yên trú phòng. Năm 1835, dẹp xong loạn Gia Định, triều đình trả hai vệ Nghiêm Uy, Hùng Uy trở về, điều động vệ Tráng Uy chuyển đến trấn Tây Thành. Năm 1836, triều đình điều động vệ quân Tráng Uy trở về. Quân đội các cơ được biên chế lại, lấy cơ Sáu đổi thành một vệ là vệ Quảng Nghĩa, còn 5 cơ kia thì qua xem xét cụ thể sắp xếp lại các Tấn Phận để tiện cứu ứng lẫn nhau. Từ phía Nam núi Phước Lộc đến bờ sông là Cơ Nhứt. Từ phía bắc núi Phước Lộc đến bảo Linh Chi là Cơ Ba. Từ phía bắc bảo Linh Chi đến phía nam nguồn Thanh Bồng là Cơ Nhì. Từ bờ sông phía Nam đến núi Thạch Lũy là Cơ Tư. Từ phía nam núi Thạch Lũy đến xã Duyên Trường là Cơ Năm. Mỗi cơ có 8 Đội, 2 Quản, 8 Suất đội. Riêng Cơ Tư có 10 Đội có đủ 500 lính, 10 Suất đội. Từ đó, ruộng đất của công trại bỏ hoang, có nơi dân tại chỗ lãnh trưng, có nơi sung vào công điền thuộc chính quyền địa phương. Năm 1837, triều đình cho mộ hương binh trong dân 33 trại, ấp, sách thành một đội hương binh nằm dưới sự quản lý của các cơ. Thêm một chức bá hộ cho đội này. Năm 1839, tỉnh Quảng Nghĩa tâu về việc đã tiến hành rà soát, bỏ bớt đồn bảo ở những nơi dễ, lập thêm đồn bảo ở những nơi khó, hiện có 116 bảo. Trong đó, Cơ Nhất có 22 bảo, Cơ Nhì có 21 bảo, Cơ Ba có 22 bảo, Cơ Tư có 25 bảo, Cơ Năm có 24 bảo” [76, tr.105-107]. Việc xây dựng và kiến thiết công trình Trường Lũy thời Gia Long và thời Minh Mạng cho thấy đây thực sự là một công trình phòng thủ vĩ đại, tốn nhiều công sức của cả chính quyền phong kiến lẫn nhân dân. Ở một mức độ nào đó, nó đã ngăn chặn được sự quấy nhiễu của những người Mọi Đá Vách đối với sự cai trị của triều đình trung ương. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một biện pháp tạm thời mà thôi. Về lâu 81 dài, các vua triều Nguyễn phải có những đối sách phù hợp hơn để quản lý các dân tộc thiểu số ở khu vực này. Tóm lại, trong việc phủ dụ và cai quản Thuộc Man, chính sách của vua Minh Mạng thiên về phủ dụ là chính. Trong trường hợp thực sự cần thiết thì triều đình mới dùng tới lực lượng quân sự. 2.3.1.2. Những qui định về thuế khóa và tiến cống Về danh nghĩa, các dân tộc “Thuộc Man” thuộc quyền quản lý trực tiếp của triều đình trung ương. Họ phải nộp tô, thuế và thực hiện nghĩa vụ lao dịch. Tuy nhiên, đối với các dân “Thuộc Man” ở miền Trung thì không hoàn toàn như thế. Chỉ có những dân tộc thiểu số ở gần khu vực sinh sống của người Kinh, đã thuộc vào quốc gia Việt Nam từ lâu đời thì mới nộp thuế, ví dụ như các dân tộc sinh sống ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Bình Thuận... Còn các sắc dân khác mới được thu nạp hoặc nơi ở của họ quá xa triều đình thì vẫn được duy trì hình thức tiến cống. Đó là trường hợp các châu Cam Lộ, các phủ mới thành lập như Trấn Ninh, Trấn Tĩnh, Lạc Biên, Về thuế, đối với những dân đã vào sổ tịch của triều đình thì họ phải đóng thuế đinh, thuế điền, thực hiện ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2013_02_19_7860317459_7066_1869375.pdf
Tài liệu liên quan