Luận văn Cơ sở lý luận đổi mới tổ chức hải quan theo mô hình hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay

Ngày 27ư2ư1960, Chính phủ ban hành Điều lệ Hải quankèm theo Nghị

định số 03/CP "để đảm bảo thực hiện chính sách quảnlý ngoại thương, quản

lý ngoại hối của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, góp phần phục vụ đường

lối ngoại giao, bảo vệ tài sản của Nhà nước ". Điềulệ Hải quan là văn bản

pháp quy tương đối hoàn chỉnh đầu tiên về các luật lệ, thủ tục hải quan của

Nhà nước ta được công bố, đánh dấu bước phát triển mới của Hải quan Việt

Nam. Là một đơn vị hành chính sự nghiệp, nhưng trênthực tế thời kỳ này Hải

quan đã được xác định là công cụ chuyên chính có nhiệm vụ bảo vệ chính

sách Nhà nước độc quyền về ngoại thương. Trong kinhdoanh xuất nhập khẩu,

Nhà nước thực hiện chế độ "thu bù chênh lệch ngoại thương", do đó Hải quan

chỉ tập trung vào một số công việc như: làm thủ tụcvà phát hiện sai sót, tổn

thất hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, thu thuế hàng xuất nhập khẩu phi mậu

dịch và đấu tranh chống buôn lậu qua biên giới.

pdf97 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1900 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở lý luận đổi mới tổ chức hải quan theo mô hình hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhánh mậu dịch xuất nhập khẩu ở các tuyến. Việc trao đổi hàng hóa giữa hai vùng chủ 43 yếu dựa vào nhân dân, d−ới sự h−ớng dẫn của Sở mậu dịch Nam Bộ. Năm 1953, Ban đấu tranh kinh tế với địch mới đ−ợc hình thành, chủ yếu hoạt động ở miền Tây, do Ban Kinh tài Nam Bộ phụ trách. Bộ máy quản lý xuất nhập khẩu ở Nam Bộ cũng đ−ợc thành lập. ở các cửa khẩu đều có một trạm quản lý xuất nhập khẩu gồm ba bộ phận: Mậu dịch, Ngân hàng và Thuế xuất nhập khẩu và các đội kiểm soát xuất nhập khẩu do Thuế xuất nhập khẩu phụ trách. Nh− vậy, một tuần sau ngày n−ớc nhà giành đ−ợc Độc lập, xác định rõ tầm quan trọng của công tác thuế quan, Chính phủ lâm thời n−ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh thành lập Sở Thuế quan và Thuế gián thu - tiền thân của ngành Hải quan ngày nay. Ngay từ khi ra đời lực l−ợng thuế quan đã phải đ−ơng đầu với một cuộc đấu tranh quyết liệt để giữ vững chủ quyền của đất n−ớc về lĩnh vực thuế quan. Là một lực l−ợng non trẻ ch−a có kinh nghiệm, b−ớc đầu còn tạm sử dụng những hình thức của bộ máy cũ, qua quá trình hoạt động thực tiễn phục vụ công cuộc kháng chiến và kiến quốc, tổ chức bộ máy dần dần đ−ợc kiện toàn, đội ngũ thuế quan ngày càng tr−ởng thành kịp thời đáp ứng tốt nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng. 2.1.2. Tổ chức hải quan trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất n−ớc (7/1954 - 4/1975) * Sở Hải quan Trung −ơng ra đời phục vụ nhiệm vụ cách mạng mới trong giai đoạn 1954-1960: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm l−ợc của nhân dân ta. Việt Nam tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và các lực l−ợng tay sai thống trị. Nhiệm vụ mà Trung −ơng Đảng và Chính phủ đề ra cho toàn dân và toàn quân ta lúc này là: Ra sức củng cố miền Bắc về mọi mặt để làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất n−ớc nhà. 44 Ngày 23-12-1954, Chính phủ ban hành Nghị định số 429-TTg về việc đánh thuế những mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu khu vực tập kết 300 ngày của quân đội Pháp gồm ở Bắc Bộ và tuyến Bắc Quảng Trị. trong phiên họp th−ờng kỳ tháng 10 năm 1954, Hội đồng Chính phủ đã quyết định chuyển ngành Thuế xuất nhập khẩu sang Bộ Công th−ơng để thành lập ngành Hải quan. Trên tinh thần đó, ngày 15-11-1954 liên Bộ Tài Chính - Công th−ơng có Nghị định số 121/TC-CT-NĐ chuyển ngành Thuế xuất nhập khẩu thuộc Bộ Tài Chính sang Bộ Công th−ơng. Tiếp đó, ngày 14-12-1954, Bộ tr−ởng Bộ Công th−ơng ký Nghị định số 136/BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thuộc Bộ Công th−ơng. Về hệ thống tổ chức, ngành Hải quan Việt Nam có: Sở Hải quan Trung −ơng đứng đầu là Giám đốc sở. Các cơ quan Hải quan địa ph−ơng: Sở Hải quan Liên khu hoặc Khu; Chi sở Hải quan tỉnh hay liên tỉnh; Phòng Hải quan Trên cơ sở đó, Bộ Công th−ơng đã có quyết định thành lập: - ở cấp Trung −ơng, Sở Hải quan Trung −ơng gồm các phòng: Hành chính và các phòng nghiệp vụ (Thống kê Kế toán, Thuế biểu, Kiểm soát, Giám quản, Kiểm nghiệm hàng hóa xuất nhập khẩu). Các phòng và các đội trực thuộc có: Phòng Hải quan 101 (Ga Hàng Cỏ), Phòng Hải quan ga Gia Lâm, Phòng Hải quan B−u điện Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình và các đội kiểm soát l−u động, Đội kiểm soát thuốc phiện và Phòng quản lý th−ơng nhân Nam - Bắc. - ở cấp địa ph−ơng: + Phân sở Hải quan khu Tả ngạn, Phân Sở Hải quan Liên khu IV. + Sở Hải quan Hà Nội, Sở Hải quan Hải Phòng. + Các Chi sở Hải quan: Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Hồng Quảng, Nghệ An, Vĩnh Linh (có nhiệm vụ chuyển nhận b−u thiếp của nhân dân hai miền Nam - Bắc trao đổi cho nhau qua cầu Hiền L−ơng). + Các Phòng Hải quan: Ma Lù Thàng (Lai Châu), Hòn Gai, Cẩm Phả, M−ờng Xén, Hải Ninh. 45 Việc Sở Hải quan Trung −ơng ra đời đã thay đổi căn bản về cơ cấu tổ chức và hoạt động Hải quan từ thời chiến sang thời bình, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới. Cũng từ đây, thuật ngữ "Hải quan" đ−ợc sử dụng chính thức trong các văn bản của Nhà n−ớc ta. Do yêu cầu thành lập thêm các Bộ, cơ quan ngang Bộ để tăng c−ờng hiệu quả công tác chỉ đạo của Chính phủ, theo các nghị quyết của Quốc hội, Bộ Công th−ơng đ−ợc chia tách thành Bộ Công nghiệp và Bộ Th−ơng nghiệp (tháng 9-1955). Sau đó Bộ Th−ơng nghiệp đ−ợc tách thành Bộ Nội th−ơng và Ngoại th−ơng. Ngành Hải quan cũng đ−ợc chuyển giao trực thuộc Bộ Th−ơng nghiệp rồi Bộ Ngoại th−ơng, là các Bộ có chức năng quản lý Nhà n−ớc về kinh tế đối ngoại và ngoại th−ơng (tháng 4-1958). * Điều lệ Hải quan ra đời đánh dấu b−ớc phát triển mới của Hải quan Việt Nam: Ngày 27-2-1960, Chính phủ ban hành Điều lệ Hải quan kèm theo Nghị định số 03/CP "để đảm bảo thực hiện chính sách quản lý ngoại th−ơng, quản lý ngoại hối của n−ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, góp phần phục vụ đ−ờng lối ngoại giao, bảo vệ tài sản của Nhà n−ớc…". Điều lệ Hải quan là văn bản pháp quy t−ơng đối hoàn chỉnh đầu tiên về các luật lệ, thủ tục hải quan của Nhà n−ớc ta đ−ợc công bố, đánh dấu b−ớc phát triển mới của Hải quan Việt Nam. Là một đơn vị hành chính sự nghiệp, nh−ng trên thực tế thời kỳ này Hải quan đã đ−ợc xác định là công cụ chuyên chính có nhiệm vụ bảo vệ chính sách Nhà n−ớc độc quyền về ngoại th−ơng. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, Nhà n−ớc thực hiện chế độ "thu bù chênh lệch ngoại th−ơng", do đó Hải quan chỉ tập trung vào một số công việc nh−: làm thủ tục và phát hiện sai sót, tổn thất hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, thu thuế hàng xuất nhập khẩu phi mậu dịch và đấu tranh chống buôn lậu qua biên giới. Ngày 17-6-1962 Bộ Ngoại th−ơng ban hành Quyết định số 490/BNT-QĐ đổi tên Sở Hải quan thành Cục Hải quan trung −ơng thuộc Bộ Ngoại th−ơng; 46 các Phân sở, Chi sở đ−ợc đổi thành Phân cục, Chi cục. Cục Hải quan tập trung vào nhiệm vụ giám quản nhằm quản lý, theo dõi thanh ký các hợp đồng, phát hiện sai sót, tổn thất hàng hóa xuất nhập khẩu, thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu phi mậu dịch (không trực tiếp thu thuế xuất nhập khẩu mậu dịch); chống buôn lậu. * Lực l−ợng Hải quan trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến đấu bảo vệ miền Bắc, góp phần chi viện cho chiến tr−ờng miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất n−ớc (1965-1975): Từ năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu n−ớc của nhân dân ta b−ớc vào một thời kỳ mới. Tình trạng cả n−ớc có chiến tranh đã buộc ngành Ngoại th−ơng phải nhanh chóng chuyển h−ớng hoạt động cho phù hợp với tình hình mới. Ngành Hải quan cũng phải tổ chức thực hiện quân sự hóa mọi hoạt động của mình. Với khẩu hiệu "Đón hàng xuất, theo hàng nhập", "Bám cửa khẩu, bám hàng hóa", "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm l−ợc", Ngành đã bố trí lại tổ chức làm nhiệm vụ trong điều kiện ác liệt nguy hiểm nhất để làm thủ tục tiếp nhận, giải phóng hàng nhanh và an toàn, phục vụ kịp thời sự nghiệp cách mạng của cả n−ớc. Do điều kiện chiến tranh, số n−ớc có quan hệ kinh tế với n−ớc ta giảm nhiều từ 40 n−ớc năm 1964, giảm xuống còn 27 n−ớc vào năm 1974 và chủ yếu là các n−ớc xã hội chủ nghĩa. Từ 1964 đến 1974, hầu hết hàng hóa xuất nhập khẩu đều đ−ợc trao đổi với các n−ớc xã hội chủ nghĩa (hàng xuất chiếm 70%, năm cao nhất 90,5% tổng kim ngạch xuất khẩu; hàng nhập trên 80%, năm cao nhất (1971) là 99,5%). Nhập khẩu phát triển nhanh, nh−ng xuất khẩu giảm nhiều, nhất là những đợt đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt ở miền Bắc. Nh−ng công tác hải quan vẫn giữ vững và hoạt động th−ờng xuyên, đảm bảo giải phóng hàng nhanh, góp phần chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, cho cách mạng Lào và Campuchia, phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của nhân dân miền Bắc. Nhiệm vụ cho Cục Hải quan trong thời kỳ này là: Tăng c−ờng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo t− t−ởng, chuyển biến sâu sắc hơn nữa nhận thức về tình hình và 47 nhiệm vụ mới, nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, ý chí phấn đấu đối với cách mạng, phát huy thành tích và kinh nghiệm sẵn có, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Hải quan trong mọi tình huống. B−ớc đầu quân sự hóa ngành Hải quan để công tác và chiến đấu tốt. Mọi mặt công tác nghiệp vụ giám quản, kiểm soát, chống buôn lậu cũng nh− tổ chức chỉ đạo phải chuyển biến và cải tiến mạnh mẽ, đi sâu vào nghiệp vụ, nâng cao hơn chất l−ợng nhằm phục vụ đắc lực và kịp thời cho nhiệm vụ ngoại th−ơng, góp phần phục vụ nhiệm vụ bảo vệ chính trị và an ninh, đ−ờng lối ngoại giao của Đảng và Nhà n−ớc. Tổ chức và công tác phải cơ động, gọn nhẹ, đơn giản, linh hoạt nh−ng đảm bảo chặt chẽ các yêu cầu cơ bản về nghiệp vụ, phục vụ kịp thời các yêu cầu chiến đấu, sản xuất, bảo vệ an ninh chính trị và đ−ờng lối đối ngoại của Đảng và Nhà n−ớc. Mọi hoạt động phải chuyển h−ớng cho phù hợp với điều kiện chiến tranh, nh−ng vẫn phải đảm bảo đúng pháp luật, duy trì nề nếp chính quy của từng khâu nghiệp vụ để tạo đà cho việc xây dựng ngành Hải quan lâu dài. Trên cơ sở đó, các mặt tổ chức và công tác đ−ợc chuyển h−ớng kịp thời theo thời chiến. Những khẩu hiệu "ba tận", "đón hàng xuất, theo hàng nhập", "bám khẩu, bám hàng", ở đâu có hàng hóa xuất nhập khẩu, ở đấy có hoạt động của Hải quan, đ−ợc đề cao để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giao nhận hàng hóa ở cửa khẩu. Sau khi Hiệp định Pari đ−ợc ký kết ngày 27-1-1973, cả miền Bắc nhanh chóng bắt tay vào hàn gắn vết th−ơng chiến tranh, khôi phục kinh tế và dốc sức chi viện cho chiến tr−ờng lớn miền Nam. Hội nghị lần thứ 22 của Trung −ơng Đảng đã chỉ rõ: "Phải nhanh chóng hoàn thành cuộc hàn gắn vết th−ơng chiến tranh, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, củng cố quan hệ xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, ổn định tình hình kinh tế và đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng; ra sức chi viện cho tiền tuyến và xây dựng vùng mới giải phóng của đồng bào miền Nam". Thời điểm này Ngành Hải 48 quan có thêm nhiệm vụ mới: vừa củng cố các cơ sở hiện có, vừa gấp rút chuẩn bị thành lập các đơn vị mới phục vụ cho công tác đối ngoại của Đảng và lựa chọn nhân sự cho chiến tr−ờng miền Nam để triển khai nhiệm vụ trong vùng giải phóng khi có điều kiện. Thực ra, ngay từ năm 1968, Bộ Ngoại th−ơng đã có kế hoạch chuẩn bị bổ sung cán bộ cho miền Nam. Một số cán bộ đ−ợc tập trung về thôn Kênh Đào, xã An Mỹ (Mỹ Đức - Hà Tây) để học tập chính trị và bồi d−ỡng thể lực chuẩn bị đi B. Đoàn thứ hai đông hơn vào khu vực giới tuyến chuẩn bị thành lập các trạm hải quan hai bờ Nam - Bắc cầu Hiền L−ơng phục vụ công tác đối ngoại của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Tháng 7-1973, Bộ Ngoại th−ơng quyết định thành lập hai trạm Hải quan ở bờ Bắc và Nam cầu Hiền L−ơng. Trên danh nghĩa, Hải quan bờ Bắc (trạm Hiền L−ơng) do Cục Hải quan của Bộ Ngoại th−ơng quản lý, Hải quan bờ Nam (đồn Bến Hải) do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý. Nhiệm vụ của hai đơn vị này là: làm thủ tục cho các đoàn qua lại khu vực Vĩnh Linh và vùng giải phóng Quảng Trị. Theo thỏa thuận nếu đoàn miền Bắc vào sẽ do trạm Hiền L−ơng làm thủ tục, đối với các đoàn ra sẽ do đồn Bến Hải đảm nhiệm. Tr−ớc khi thành lập các trạm Hải quan hai bờ Bến Hải, Cục Hải quan Trung −ơng đã quyết định thành lập trạm Hải quan sông Gianh (Quảng Bình) và đồn Hải quan Cửa Việt (Quảng Trị) để phục vụ công tác tiếp nhận hàng hóa chi viện cho chiến tr−ờng miền Nam. 2.1.3. Tổ chức hải quan trong thời kỳ đầu đất n−ớc thống nhất (5/1975 - năm 1986) * Thống nhất lực l−ợng Hải quan trên phạm vi toàn quốc: Mùa Xuân năm 1975, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đất n−ớc Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng đất n−ớc giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Vào thời điểm lịch sử quan trọng này, từ miền Bắc ta đã nhanh chóng đ−a vào miền Nam một khối l−ợng lớn vật chất 49 cùng hàng vạn cán bộ tăng c−ờng cho các lĩnh vực kinh tế, an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội..., nhanh chóng ổn định tình hình mọi mặt của miền Nam. Ngày 11-7-1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định thành lập Cục Hải quan trực thuộc Tổng nha Ngoại th−ơng. Ngoài các tổ chức Hải quan ở Sài Gòn, Cục Hải quan Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã thành lập thêm các Ty thuế quan Rạch Giá và Tây Ninh. Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã ban hành Điều lệ Hải quan (trên cơ sở Điều lệ Hải quan Việt Nam đ−ợc ban hành vào tháng 2-1960) và biểu thuế xuất nhập khẩu của Cộng hòa miền Nam Việt Nam.Và để thuận lợi cho công việc cũng nh− bình đẳng trong giao dịch quốc tế, ngày 15-1-1976, Bộ Ngoại th−ơng tạm thời giao cho Bộ Kinh tế - Tài chính Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý các tổ chức ngoại th−ơng và Hải quan ở vùng mới giải phóng. Từ ngày 22 đến ngày 27-12-1975, Quốc hội khóa V kỳ họp thứ 2 phê chuẩn việc hợp nhất các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên, Yên Bái, Lào Cai, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn và Nghệ An, Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Theo đó, tên gọi của các đơn vị hải quan cơ sở tại các tỉnh cũng đ−ợc thay đổi lại cho phù hợp với tên của đơn vị hành chính mới. Các chi cục Hải quan Hà Giang đổi thành Chi cục Hải quan Hà Tuyên, Chi cục Hải quan Lào Cai đổi thành Chi cục Hải quan Hoàng Liên Sơn, Chi cục Hải quan Nghệ An đổi thành Chi cục Hải quan Nghệ Tĩnh. Xuất phát từ tình hình cụ thể của đất n−ớc vào thời điểm này, Bộ tr−ởng Bộ Ngoại th−ơng ký quyết định giải thể Đồn Hải quan Bến Hải và Trạm Hải quan cảng Quảng Bình. Bộ tr−ởng Bộ Ngoại th−ơng ký quyết định số 1014/BNT-TTCB ngày 3-11-1975 về việc thành lập Chi cục Hải quan tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và Quyết định số 969/BNT/TCCB ngày 27-2-1976, chuyển Phân cục Hải quan Hải Phòng chịu sự quản lý toàn diện của Cục Hải quan Trung −ơng. Ngày 25-4-1976, Tổng tuyển cử cả n−ớc bầu ra Quốc hội thống nhất. Từ sau cuộc Tổng tuyển cử, trên cơ sở thống nhất về mặt Nhà n−ớc, các bộ, ngành 50 đ−ợc hợp nhất lại. Các trụ sở của các Bộ thuộc Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trở thành cơ quan đại diện hoặc Văn phòng II của các Bộ, ngành. Bộ Ngoại th−ơng, sau một thời gian chuẩn bị đã quyết định hợp nhất lực l−ợng Hải quan hai miền. Trên tinh thần đó, Hội nghị Hải quan toàn quốc lần thứ I đã đ−ợc tổ chức từ 12-8-1976, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất tổ chức ngành Hải quan trên phạm vi cả n−ớc và đ−a ra những nguyên tắc cơ bản cho hoạt động của ngành. Từ thời điểm này tổ chức và hoạt động của Hải quan trên cả n−ớc đ−ợc thống nhất vào một đầu mối, đặt d−ới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Ngoại th−ơng và Cục Hải quan Trung −ơng. Trong hoạt động của ngành cũng bắt đầu triển khai thống nhất về nghiệp vụ và các thủ tục Hải quan trên phạm vi cả n−ớc, từ biên giới phía Bắc, phía Tây đến biên giới phía Tây Nam, dọc theo chiều dài bờ biển của Tổ quốc, tại các hải cảng, sân bay quốc tế, b−u cục ngoại dịch, trạm trả hàng... Trên tinh thần tăng c−ờng bộ máy tổ chức Hải quan ở cơ sở, một số Phân cục, Chi cục Hải quan các tỉnh, thành phố đã đ−ợc thành lập. Ngày 13-1- 1977, Bộ tr−ởng Bộ Ngoại th−ơng ký quyết định số 65/BNT-QĐ thành lập Phân cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp đó, ngày 14-2-1977, theo Quyết định số 248/BNT-TCCB, các Chi cục Hải quan các địa ph−ơng là Sông Bé, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang đ−ợc thành lập. Tuy nhiên, do tình hình biên giới phía Tây Nam vào thời điểm này không ổn định nên các Chi cục Hải quan Sông Bé, Long An và Đồng Tháp ch−a triển khai hoạt động. Ngoài ra, Bộ Ngoại th−ơng cũng đã thỏa thuận với ủy ban nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên thành lập Trạm Hải quan Lao Bảo, đồng thời chấn chỉnh lại tổ chức một số Phòng, Trạm, Đội thuộc Cục. Cùng với việc ngành Hàng không dân dụng chuyển các cơ sở của sân bay quốc tế Thủ đô từ Gia Lâm về Nội Bài, trạm Hải quan sân bay cũng đ−ợc nâng lên thành Chi cục nhằm nâng cao vị thế của Hải quan trong giao dịch quốc tế. 51 * Thực hiện nhiệm vụ của ngành trong điều kiện cả n−ớc có chiến tranh trên hai tuyến biên giới Tây - Nam và phía Bắc: Trong những năm 1977 - 1979, đất n−ớc ta gặp nhiều khó khăn. Đó là hai cuộc chiến tranh trên tuyến biên giới Tây - Nam, và trên toàn bộ chiều dài biên giới giữa hai n−ớc Việt - Trung ở phía Bắc. Từ 17-2-1979, khi toàn tuyến biên giới phía Bắc thực sự trở thành chiến tr−ờng, thì các hoạt động giao l−u buôn bán hai bên đ−ờng biên cũng nh− các hoạt động nghiệp vụ của lực l−ợng Hải quan tại các cửa khẩu trên biên giới phía Bắc đã tạm thời ngừng hoạt động. Chỉ thị số 80/CT, ngày 5-3-1979 của Thủ t−ớng Chính phủ, Bộ Ngoại th−ơng đã quyết định chuyển các tổ chức Hải quan địa ph−ơng thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố về trực thuộc Cục Hải quan Trung −ơng và để quản lý toàn diện. Cũng trên tinh thần phát triển và củng cố hệ thống mạng l−ới các cấp cơ sở của ngành, Bộ tr−ởng Bộ Ngoại th−ơng đã quyết định và triển khai thành lập một số Chi cục, Trạm Hải quan ở một số địa ph−ơng, trong đó có các đơn vị Hải quan mới ở phía Tây Nam. Nh− vậy, việc thống nhất quản lý toàn diện theo ngành dọc đã mở ra những −u thế mới cho việc tăng c−ờng hiệu quả của công tác Hải quan n−ớc ta. Sự kiện này đã tạo đà thuận lợi cho ngành không ngừng củng cố, chấn chỉnh hoạt động chuyên môn một cách thống nhất, và là nhân tố cơ bản để nâng cao hơn nữa chất l−ợng chuyên môn nghiệp vụ Hải quan phù hợp với tình hình mới. * Chuyển đổi hoạt động hải quan phù hợp với tình hình mới: Vào đầu những năm 80, kinh tế, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, đất n−ớc lâm vào khủng hoảng. Chỉ tính riêng về ngành ngoại th−ơng, trong năm 1981, xuất khẩu chỉ đạt 88% kế hoạch. Tr−ớc tình hình đó, Nhà n−ớc đã quyết định ban hành một số chủ tr−ơng mới liên quan đến lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu, mở rộng quyền cho địa ph−ơng kinh doanh xuất nhập khẩu và về cơ cấu nhập khẩu nhằm khắc phục những khó khăn trong đời sống của nhân dân. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V (đ−ợc tổ chức tại Hà Nội từ 27 đến 31-3-1982) đã đề ra đ−ờng lối của cách mạng Việt Nam 52 và ph−ơng h−ớng phát triển kinh tế trong chặng đ−ờng đầu của thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần này nhấn mạnh đến tầm quan trọng và cấp thiết của việc hợp tác quốc tế và đã đề ra nguyên tắc "Kết hợp phát triển kinh tế trong n−ớc và mở rộng quan hệ kinh tế với n−ớc ngoài". Trong bối cảnh nh− vậy, ngành Hải quan gặp phải những khó khăn về lực l−ợng, về đội ngũ cán bộ (cả về số l−ợng và chất l−ợng, trình độ) và cả sự thiếu hụt trầm trọng về ph−ơng tiện phục vụ công tác chuyên môn; cho nên công tác Hải quan trong thời điểm này đã đứng tr−ớc những thử thách nặng nề. Sau khi chiến tranh biên giới kết thúc, xét thấy hải quan ở một số địa ph−ơng ch−a thể tiếp tục hoạt động trở lại, Bộ Ngoại th−ơng đã tạm thời giải tán các chi cục Hải quan Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, đồng thời thành lập thêm một số đơn vị mới ở phía Nam. Việc này đã tạo điều kiện cho các địa ph−ơng có thêm tổ chức và biên chế để đẩy mạnh các hoạt động ở các địa bàn trọng điểm. Sau khi kiện toàn bộ máy tổ chức và biên chế, Cục Hải quan Trung −ơng đã quản lí trực tiếp, toàn diện hoạt động của các Phân, Chi cục và trạm Hải quan trực thuộc. Sau khi giải thể Chi cục Hải quan Hoàng Liên Sơn và Hà Tuyên, chỉ có một số rất ít cán bộ, nhân viên của hai đơn vị này đ−ợc tăng c−ờng cho Hải quan Kiên Giang, An Giang, số còn lại do địa ph−ơng bố trí công tác. Cục Hải quan Trung −ơng đã quyết định nhanh chóng đ−a Chi cục Hậu Giang đi vào hoạt động; củng cố tổ chức một số đơn vị Phòng, Trạm, Đội thuộc các Phân, Chi cục và Cục, chuẩn bị những điều kiện, cơ sở vật chất cần thiết cho công tác nghiệp vụ... * Thành lập Tổng cục Hải quan - B−ớc ngoặt mới trong tiến trình xây dựng và phát triển: Điều lệ Hải quan (ban hành theo Nghị định số 03/CP ngày 27-2-1960) đã có hiệu lực trong 24 năm. Đất n−ớc ta trong quãng thời gian đó đã có nhiều thay đổi căn bản và to lớn, Điều lệ không còn đáp ứng đ−ợc những yêu cầu của tình hình thực tiễn trong giai đoạn mới. Ngày 30-8-1984 Hội đồng Nhà n−ớc ra Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Hải quan, cơ 53 quan thuộc Hội đồng Bộ tr−ởng. Sự kiện này đánh dấu một b−ớc chuyển mới trên đ−ờng xây dựng và phát triển của Hải quan Việt Nam. Tiếp sau đó, vào ngày 20- 10-1984, Hội đồng Bộ tr−ởng ban hành Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan (gồm 11 điều). Nghị định nêu rõ: "Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ tr−ởng, là công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà n−ớc". Nghị định cũng đã quy định hệ thống tổ chức bộ máy Hải quan trong cả n−ớc bao gồm: - Tổng cục Hải quan; - Hải quan tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung −ơng; - Hải quan cửa khẩu; - Các đội kiểm soát Hải quan cơ động của Tổng cục đóng ở Hải Phòng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Nghị định đã khẳng định bằng văn bản pháp luật về tính chất công tác Hải quan, xác định rõ về vai trò, vị trí của Hải quan Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phục vụ công tác đối ngoại. Đồng thời, Nghị định cũng làm rõ sự thống nhất về đầu mối quản lý trong toàn ngành, tránh đ−ợc tình trạng chỉ đạo song trùng của ủy ban nhân dân các địa ph−ơng nơi có các đơn vị hải quan cơ sở. Ngày 30-1-1985, Ban Bí th− Trung −ơng Đảng quyết định chuyển Tổng cục Hải quan từ Khối Kinh tế sang Khối Nội chính do Ban Nội chính Trung −ơng phụ trách. Ngày 1-2-1985, Bộ Ngoại th−ơng bàn giao hệ thống tổ chức và công tác Hải quan sang Tổng cục Hải quan. Cũng vào ngày 1-2-1985, bàn giao toàn bộ hệ thống tổ chức và công tác Hải quan từ Bộ Ngoại th−ơng sang Tổng cục Hải quan. Nh− vậy, có thể khẳng định là bắt đầu từ tháng 2-1985, Bộ máy Tổng cục Hải quan chính thức triển khai hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và hệ thống tổ chức mới. Tổng cục Hải quan ra Quyết định số 387-TCHQ/TCCB ngày 11-5-1985 về việc đổi tên các Chi cục Hải quan 54 thành các Hải quan tỉnh, thành phố; giải thể Hải quan liên tỉnh (bao gồm các tỉnh Nghĩa Bình, Phú Khánh, Gia Lai-Kontum, Đak Lak) thành lập Hải quan tỉnh Phú Khánh, Hải quan tỉnh Nghĩa Bình (Quyết định số 100/TCHQ/TCCB ngày 2-8-1985). Tiếp đó thành lập Hải quan thành phố Hà Nội (Quyết định số 101-TCHQ-TCCB ngày 3-8-1985), Hải quan tỉnh Đồng Tháp (Quyết định số 215-TCHQ/TCCB ngày 15-12-1985), và các Hải quan cửa khẩu: Bu Brăng (Đak Lak), Đ−ờng 19 (Gia Lai), Cảng Cửa Lò (Nghệ An) (15-12-1985). 2.1.4. Tổ chức hải quan Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (1987 - 2005) * Hải quan Việt Nam đổi mới và hội nhập quốc tế: Những thay đổi trong đ−ờng lối quản lý kinh tế, tr−ớc hết là trong quản lý kinh tế đối ngoại theo tinh thần đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế đặt ra tr−ớc mắt ngành Hải quan Việt Nam nhiệm vụ phải phát triển, tự đổi mới mình, từ đội ngũ cán bộ, ph−ơng thức quản lý tới ph−ơng pháp, phong cách làm việc và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động nghiệp vụ, để có thể đáp ứng đ−ợc những yêu cầu của thời kỳ mới. Vì vậy, Lịch sử Hải quan Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (từ năm 1987 tới nay) thực tế cũng là lịch sử của quá trình cải cách, đổi mới của ngành và những kết quả cụ thể của nó. Quá trình đổi mới, cải cách của Hải quan Việt Nam là một quá trình lâu dài, liên tục và có thể chia làm hai giai đoạn nh− sau: - Từ năm 1987 đến 1993 là giai đoạn thực hiện những b−ớc đi ban đầu trong quá trình đổi mới ngành Hải quan. - Từ năm 1994 đến nay là giai đoạn đẩy mạnh công cuộc đổi mới và b−ớc đầu hiện đại hóa trong ngành Hải quan * Những b−ớc đi ban đầu trong quá trình đổi mới ngành Hải quan (1987 - 1993): Cho tới Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế tập trung, bao cấp, mà một trong những đặc tr−ng của nó là 55 chế độ Nhà n−ớc độc quyền về ngoại th−ơng. Trên cơ sở của chế độ Nhà n−ớc độc quyền về ngoại th−ơng, t− duy về nghiệp vụ Hải quan thời kỳ này là thuần túy quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu để bảo vệ độc quyền nhà n−ớc về ngoại th−ơng. Đ−ờng lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra từ Đại hội VI và đ−ợc phát triển tiếp tục qua những đại hội tiếp theo, chủ tr−ơng phát triển thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Vì vậy, t− duy chỉ đạo nghiệp vụ Hải quan cũng phải đ−ợc chuyển đổi theo h−ớng cân bằng giữa nhiệm vụ quản lý, bảo đảm đúng pháp luật Nhà n−ớc và nhiệm vụ phục vụ, tạo điều kiện cho hoạt động xuất, nhập khẩu. Trong những năm 1987 - 1993, ngành Hải quan tập trung tạo cơ sở cho quá trình đổi mới toàn diện ở những giai đoạn tiếp theo. Pháp lệnh Hải quan đ−ợc Hội đồng Nhà n−ớc thông qua ngày

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCơ sở lý luận đổi mới tổ chức hải quan theo mô hình hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan