Luận văn Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa chi tiêu công, quản trị công và tăng trưởng kinh tế

Mục Lục

MỤC LỤC.1

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .1

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ .2

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ .2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .3

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.4

1.1 LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .4

1.2 MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU.9

1.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.11

1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .11

1.5 KẾT QUẢ VÀ ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN .11

1.6 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU .14

1.7 KẾT CẤU LUẬN ÁN.16

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI TIÊU

CÔNG, QUẢN TRỊ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .17

GIỚI THIỆU .17

2.1 CÁC KHÁI NIỆM.20

2.1.1 Tăng trưởng kinh tế .20

2.1.2 Chi tiêu công.21

2.1.3 Quản trị công.24

2.2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI TIÊU CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG

KINH TẾ TRONG SỰ RÀNG BUỘC NGÂN SÁCH .28

2.2.1 Lý thuyết về mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế .28

2.2.2 Lý thuyết về cơ cấu chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế.36

2.2.3 Khung phân tích về mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh

tế trong sự ràng buộc ngân sách .40

2.3 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VAI TRÒ CỦA QUẢN TRỊ CÔNG TRONG MỐI QUAN HỆ

GIỮA CHI TIÊU CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.45

2.3.1 Lý thuyết về lựa chọn công và lý thuyết kinh tế chính trị .46

2.3.2 Lý thuyết kinh tế học thể chế mới.48

2.3.3 Khung phân tích về vai trò của quản trị công trong mối quan hệ giữa

chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế.52

pdf206 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 654 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa chi tiêu công, quản trị công và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Teles & Mussolini (2014) luận giải, các thành phần chi tiêu công sản xuất tăng lên, tạo ra tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tác động biên của các thành phần chi tiêu công này đến tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào tình hình ngân sách. Khi chi tiêu công sản xuất tăng lên với tình trạng ngân sách thâm hụt, chính phủ buộc phải vay nợ, tạo ra tác động tiêu cực, làm giảm tác động dương của chi tiêu công sản xuất đến tăng trưởng kinh tế. Theo đó, mức độ thâm hụt càng nhỏ càng ít tạo ra hiệu ứng tiêu cực đến tác động dương của các thành phần chi tiêu công sản xuất đến tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, mức độ thâm hụt ngân sách cao sẽ làm trầm trọng hơn tác động tiêu cực của các thành phần chi tiêu công phi sản xuất đến tăng trưởng kinh tế. Trang 92 3.5.3 Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến hiệu quả kinh tế của chi tiêu công Để xem xét cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 tác động như thế nào đến mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển, luận án đưa vào biến dummy thời gian (dumt), với khoảng thời gian từ năm 2008 trở về trước nhận giá trị 0 và sau năm 2008 nhận giá trị 1, để kiểm định sự khác biệt về tác động của chi tiêu công trước và sau khủng hoảng. Kết quả kiểm định được trình bày ở cột (1) và cột (2) của bảng 3.5 dưới đây: Bảng 3.5: Tác động của khủng hỏang kinh tế năm 2008 đến mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển7 Biến phụ thuộc: tốc độ tăng trưởng kinh tế (dlnyit) Phương pháp ước lượng: GMM sai phân hai bước. biến (1) (2) GDP(-1) -0.704*** -0.710*** Vốn đầu tư (lnk) 0.420*** 0.413*** Vốn con người (lnh) 5.086*** 5.122*** Độ mở thương mại (lnopen) 0.007 0.01 Nợ công (lnd) -0.179*** -0.200*** Chi tiêu công (lng) -0.802*** -1.022*** Dumt 0.122*** -0.095 Chi tiêu công * Dumt 0.008** Hansen test 0.184 0.133 Sargan test 0.42 0.519 AR(2) test 0.231 0.145 Biến công cụ 37 38 7 Kết quả kiểm định được trình bày chi tiết ở phụ lục 04 Trang 93 Số đơn vị chéo 66 66 Ghi chú: *, **, *** lần lượt tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5%, 1% Nguồn: Do tác giả tính toán. Tương tự, luận án sử dụng biến dummy thời gian (dumt) để phân tích tác động của các thành phần chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế trước và sau khủng hoảng kinh tế năm 2008. Kết quả kiểm định được trình bày ở cột (1), (2) và (3) của bảng 3.6 dưới đây: Bảng 3.6: Tác động của khủng hỏang kinh tế năm 2008 đến mối quan hệ giữa các thành phần chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển8 Biến phụ thuộc: tốc độ tăng trưởng kinh tế (dlnyit) Phương pháp ước lượng: GMM sai phân hai bước. Biến (1) (2) (3) GDP(-1) -0.706*** -0.646*** -0.701*** Vốn đầu tư (lnk) 0.398*** 0.250*** 0.398*** Vốn con người (lnh) 4.893*** 5.455*** 4.654*** Độ mở thương mại (lnopen) -0.016 -0.065*** -0.008 Nợ công (lnd) -0.190*** -0.344*** -0.143*** Chi tiêu công sản xuất (lng1) 0.035 0.063*** 0.025 Chi tiêu công phi sản xuất (lng2) -0.399*** -0.078** -0.563*** Dumt 0.106*** 0.015 0.027 Chi tiêu công sản xuất * Dumt -0.005 Chi tiêu công phi sản xuất * Dumt 0.005* Hansen test 0.118 0.11 0.101 8 Kết quả kiểm định được trình bày chi tiết ở phụ lục 05 Trang 94 Sargan test 0.23 0.392 0.348 AR(2) test 0.272 0.779 0.21 Biến công cụ 44 51 45 Số đơn vị chéo 66 66 66 Ghi chú: *, **, *** lần lượt tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5%, 1% Nguồn: Do tác giả tính toán. Kết quả kiểm định cho thấy, biến dummy thời gian có ý nghĩa thống kê. Điều này hàm ý tác động của các biến đến tăng trưởng kinh tế trước và sau khủng hoảng có sự khác biệt. Chú trọng khám phá tác động của chi tiêu công, biến tương tác giữa chi tiêu công và biến dummy thời gian dương có ý nghĩa hàm ý tác động tiêu cực của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế giai đoạn sau khủng hoảng giảm nhẹ hơn so với giai đoạn trước đó. Khám phá tác động của từng thành phần chi tiêu công, kết quả kiểm định hàm ý hiệu quả kinh tế của các thành phần chi tiêu công giai đoạn sau khủng hoảng được cải thiện so với giai đoạn trước. Kết quả này phù hợp với các phân tích số liệu thực tế về chi tiêu công hậu khủng hoảng tại các quốc gia đang phát triển (Jim Brumby & Verhoeven, 2010; Magdalena & Logica, 2015). Nghiên cứu của Jim Brumby & Verhoeven (2010) và Magdalena & Logica (2015) chỉ ra, các khoản chi tiêu công ở các quốc gia đang phát triển chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Khi nền kinh tế dần phục hồi, các khoản chi tiêu này đang có xu hướng tăng dần qua các năm. Jim Brumby & Verhoeven (2010) còn nhận định, theo thời gian các quốc gia đang phát triển đã dần đối phó tốt hơn đối với khủng hoảng. Trong giai đoạn khủng hoảng, nhiều quốc gia đang phát triển đã tạm thời mở rộng biên độ an toàn, cố gắng duy trì các khỏan chi tiêu xã hội thông qua các khoản vay hay chuyển hướng ngân sách và thậm chí khai thác cuộc khủng hoảng để đạt được những cải cách lớn về tài khóa nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng. Trang 95 3.5.4 Phân tích tác động phi tuyến của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế Một số nghiên cứu chỉ ra tác động phi tuyến của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế tại các trường hợp nghiên cứu khác nhau. Luận án kiểm định tác động phi tuyến của chi tiêu công tổng thể đến tăng trưởng kinh tế tại trường hợp nghiên cứu này bằng phương pháp ước lượng ngưỡng với dữ liệu bảng của Hansen (1999). Tuy nhiên, giá trị ngưỡng chi tiêu công lại không có ý nghĩa thống kê ở trường hợp nghiên cứu này9. Theo đó, luận án xem xét tác động phi tuyến của các thành phần chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế bằng phương pháp ước lượng ngưỡng của B. E. Hansen (1999). Vì phương pháp của Hansen (1999) được phát triển dựa trên ước lượng Fixed Effects nên trước khi ước lượng ngưỡng, luận án kiểm định mô hình với biến các thành phần chi tiêu công bình phương bằng phương pháp Fixed Effects. Kết quả kiểm định các thành phần chi tiêu công sản xuất và phi sản xuất lần lượt được trình bày ở cột (1) và cột (3) bảng 3.7 dưới đây: Bảng 3.7: Tác động phi tuyến của các thành phần chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế10  Các thành phần chi tiêu công sản xuất Biến phụ thuộc: tốc độ tăng trưởng kinh tế (dlnyit) Phương pháp ước lượng: Fixed Effects, Ước lượng ngưỡng của Hansen (1999). 9 Chi tiết được trình bày ở phụ lục 06. 10 Kết quả kiểm định được trình bày chi tiết ở phục lục 07. Trang 96 Biến (1) (2) g1 ≤ 2.838% GDP g1 > 2.838%GDP GDP (-1) -0.168*** -0.147*** -0.184*** Vốn đầu tư (lnk) 0.104*** 0.134*** 0.097*** Vốn con người(lnh) 0.971*** 0.605*** 1.066*** Chi tiêu công sản xuất (lng1) -0.043** -0.006** 0.042* Chi tiêu công sản xuất bình phương 0.020** Chi tiêu công phi sản xuất (lng2) -0.073** -0.057 -0.073*** Độ mở thương mại (lnopen) -0.022 -0.039*** -0.016 nợ công (lnd) -0.097*** -0.057*** -0.104***  Các thành phần chi tiêu công phi sản xuất Biến (3) (4) g2 ≤ 17.025% GDP g2 > 17.025% GDP GDP (-1) -0.161*** -0.176*** -0.158*** Vốn đầu tư (lnk) 0.114*** 0.024 0.177*** Vốn con người (lnh) 0.986*** 1.106*** 0.969*** Chi tiêu công sản xuất (lng1) -0.006 -0.001 -0.006 Chi tiêu công phi sản xuất (lng2) 0.465*** 0.040 -0.170*** Chi tiêu công phi sản xuất bình phương -0.096*** Độ mở thương mại (lnopen) -0.022* -0.019 0.004 Nợ công (lnd) -0.089*** -0.091*** -0.095*** Ghi chú: *, **, *** lần lượt tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5%, 1% Nguồn: Do tác giả tính toán. Trang 97 Kết quả kiểm định chỉ ra, các biến thành phần chi tiêu công bình phương đổi dấu so với các biến thành phần chi tiêu công cho thấy có khả năng tồn tại giá trị ngưỡng. Theo đó, luận án sử dụng phương pháp ước lượng ngưỡng của Hansen (1999) để khám phá giá trị ngưỡng của các thành phần chi tiêu công. Với số lần Boostrap là 500 lần, kết quả ước lượng chỉ ra giá trị ngưỡng của các thành phần chi tiêu công sản xuất, phi sản xuất lần lượt vào khoảng 2.838% GDP, 17.025% GDP. Các giá trị ngưỡng này lần lượt có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%, 10% . Với các thành phần chi tiêu công sản xuất, khi các thành phần chi tiêu công này dưới mức ngưỡng 2.838% GDP, các khỏan chi này chưa tạo được tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Vượt qua mức ngưỡng này, các khoản chi này mới tạo ra tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, giá trị ngưỡng của các thành phần chi tiêu công phi sản xuất là 17.025 % GDP hàm ý, khi các thành phần chi tiêu công phi sản xuất vượt quả mức ngưỡng này mới tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Như vậy, ở trường hợp nghiên cứu này, kết quả kiểm định chưa phát hiện giá trị ngưỡng chi tiêu công tổng thể song kết quả kiểm định chỉ ra giá trị ngưỡng của các thành phần chi tiêu công sản xuất, phi sản xuất lần lượt vào khoảng 2.838% GDP, 17.025 % GDP. Kết quả này khá tương đồng với nghiên cứu của Chen & Lee (2005) với giá trị ngưỡng chi thường xuyên ở trường hợp Đài Loan là 14.96% GDP và nghiên cứu của Sử Đình Thành (2013) với giá trị ngưỡng chi thường xuyên của Việt Nam là 19% GDP. Luận án hi vọng các giá trị ngưỡng này sẽ có giá trị tham khảo nhất định đối với các nhà làm chính sách trong việc xây dựng chính sách tái cơ cấu chi tiêu công hiệu quả tại các quốc gia đang phát triển. Kết hợp xem xét vai trò của ràng buộc ngân sách và tác động phi tuyến, luận án thêm vào các biến tương tác giữa các thành phần chi tiêu công (g1, g2) và nợ công (d), thâm hụt ngân sách (decifit) ở từng cơ chế ngưỡng. Kết quả kiểm định được trình bày ở bảng dưới đây: Trang 98 Bảng 3.8: Tác động của ràng buộc ngân sách trong việc hiệu chỉnh tác động của các thành phần chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế.11  Các thành phần chi tiêu công sản xuất Biến phụ thuộc: tốc độ tăng trưởng kinh tế (dlnyit) Phương pháp ước lượng: Fixed Effects Biến (1) (2) g1 ≤ 2.83%GDP g1 > 2.83%GDP g1 ≤ 2.83%G DP g1 > 2.83%G DP GDP (-1) -0.309*** -0.171*** - 0.244*** - 0.152*** Vốn đầu tư (lnk) 0.105 0.100*** 0.067 0.147*** Vốn con người (lnh) 1.939*** 0.968*** 1.821*** 1.033*** Độ mở thương mại (lnopen) -0.024 -0.006 -0.023 -0.077** Chi tiêu công sản xuất (lng1) -0.077 0.033 -0.045 0.084*** Chi tiêu công phi sản xuất (lng2) -0.04 -0.084*** -0.088 0.001 Nợ công (lnd) -0.091*** -0.104*** Chi tiêu công sản xuất* Nợ công 0.0001 0.0001 Thâm hụt ngân sách ( lndecifit) 0.005 -0.018** Chi tiêu công sản xuất* Thâm hụt ngân sách -0.013 -0.0001 11 Kết quả kiểm định được trình bày chi tiết ở phụ lục 08 Trang 99  Các thành phần chi tiêu công phi sản xuất Biến (3) (4) g2 ≤ 17%GDP g2 > 17%GDP g2 ≤ 17%GDP g2 > 17%GDP GDP (-1) -0.225*** -0.192*** -0.204*** -0.16*** vốn đầu tư (lnk) 0.022 0.175*** 0.064* 0.223*** vốn con người (lnh) 1.152*** 1.294*** 1.362*** 1.230*** Chi tiêu công sản xuất (lng1) -0.012 0.017 0.03 0.025 Chi tiêu công phi sản xuất (lng2) 0.063 -0.167*** 0.074 -0.07 Độ mở thương mại (lnopen) -0.104*** 0.015 -0.171*** -0.054* Nợ công (lnd) -0.149*** -0.067*** Chi tiêu công phi sản xuất* Nợ công 0.000 -0.001** Thâm hụt ngân sách ( lndecifit) -0.012 -0.016* Chi tiêu công phi sản xuất* Thâm hụt ngân sách 0.000 -0.001* Ghi chú: *, **, *** lần lượt tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5%, 1% Nguồn: Do tác giả tính toán. Kết quả kiểm định cho thấy, ảnh hưởng tiêu cực của thâm hụt ngân sách và nợ công đến tác động kinh tế của các thành phần chi tiêu công chỉ có ý nghĩa thống kê khi các thành phần chi tiêu công phi sản xuất vượt qua mức ngưỡng 17.025% GDP. Quy mô chi tiêu công lớn mà không có nguồn thu tài trợ, qua đó làm tăng thâm hụt ngân sách và nợ công, sẽ càng làm trầm trọng hơn tác động tiêu cực của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế. Như vậy, việc duy trì cân đối ngân sách đóng vai trò rất quan trọng, cần thiết trong việc hiệu chỉnh tác động kinh tế của các thành phần chi tiêu công. Trang 100 Kết luận chương 3 Như vậy, để trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra ở mục tiêu nghiên cứu thứ nhất, luận án tiến hành phân tích thực nghiệm tại trường hợp các quốc gia đang phát triển. Với số liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy, luận án sử dụng phương pháp GMM sai phân để kiểm định mô hình. Kết quả kiểm định qua cho thấy sự nhất quán về tác tác động của các biến đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả chỉ ra tác động dương có ý nghĩa của vốn đầu tư và vốn con người đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển 1998-2016. Ngược lại, kết quả thực nghiệm đều cho thấy tác động âm của chi tiêu công, nợ công đến tăng trưởng kinh tế tại trường hợp nghiên cứu này. Điều này hàm ý, vốn đầu tư và vốn con người là các nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi đó, chính sách về chi tiêu công và nợ công không hiệu quả lại đang kìm hãm tăng trưởng tại các quốc gia đang phát triển. Bên cạnh chi tiêu công tổng thể, phân loại chi tiêu công thành các thành phần chi tiêu công sản xuất và phi hỗ trợ sản xuất, luận án làm rõ hơn tác động của các thành phần chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế. Xem xét các thành phần chi tiêu công, đúng như kì vọng lý thuyết, các thành phần chi tiêu công sản xuất (y tế, giáo dục, truyền thông và vận tải) tác động dương đến tăng trưởng trong khi các thành phần chi tiêu phi sản xuất lại tác động âm đến tăng trưởng kinh tế. Với chi tiêu công tổng thể tác động âm và các thành phần chi tiêu công tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế, kết quả này không chỉ cho thấy về sự cần thiết phải xem xét các thành phần chi tiêu công trong nghiên cứu thực nghiệm mà còn hàm ý về sự cần thiết của việc phải tái cơ cấu chi tiêu công tại các quốc gia đang phát triển. Ngoài ra, kết quả ước lượng ngưỡng của Hansen (1999) chỉ ra, các thành phần chi tiêu công sản xuất chỉ tạo được tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế khi vượt Trang 101 qua mức ngưỡng 2.838% GDP. Trong khi đó, các thành phần chi tiêu công phi sản xuất chỉ tác động tiêu cực đến tăng trưởng khi vượt qua mức ngưỡng 17.025% GDP. Bên cạnh đó, các biến tương tác giữa chi tiêu công tổng thể, các thành phần chi tiêu công và các biến tài khoá như nợ công và thặng dư ngân sách có ý nghĩa thống kê cũng chỉ ra nhiều hàm ý, cả về mặt nghiên cứu thực nghiệm lẫn hàm ý chính sách. Trả lời câu hỏi nghiên cứu vai trò của ràng buộc ngân sách trong mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển là như thế nào, kết quả kiểm định của biến thâm hụt ngân sách, nợ công và các biến tương tác chỉ ra tác động tiêu cực của thâm hụt ngân sách và quy mô nợ công lớn tại các quốc gia đang phát triển. Phân tích vai trò ràng buộc ngân sách ở từng cơ chế ngưỡng, kết quả kiểm định chỉ ra hiệu ứng tiêu cực của thâm hụt ngân sách và nợ công đến tác động kinh tế của chi tiêu công chỉ xuất hiện rõ ràng khi các khoản chi tiêu công phi sản xuất vượt qua mức ngưỡng 17.025% GDP. Qua đó, kết quả của luận án hàm ý, bên cạnh chính sách tái cơ cấu chi tiêu công hợp lý, chính sách nợ công và cân đối ngân sách hiệu quả cũng giữ vai trò quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế của chi tiêu công tại các quốc gia đang phát triển. Vai trò của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 cũng được xem xét trong kiểm định. Trả lời câu hỏi nghiên cứu liệu có sự khác biệt về hiệu quả kinh tế của các thành phần chi tiêu công giữa giai đoạn trước và sau khủng hoảng hay không, kết quả kiểm định cho thấy, sau khủng hoảng kinh tế, hiệu quả kinh tế của chi tiêu công tổng thể và các thành phần chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế được cải thiện hơn so với giai đoạn trước đó. Trang 102 CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA QUẢN TRỊ CÔNG TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI TIÊU CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Giới thiệu Dựa trên nền tảng kế thừa và kết hợp các nghiên cứu trước, luận án trình bày quy trình và báo cáo kết quả phân tích thực nghiệm vai trò của quản trị công trong mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển giai đoạn 1998-2016. Theo đó, hướng đến trả lời các câu hỏi nghiên cứu của mục tiêu nghiên cứu thứ hai, luận án thực hiện kiểm định các mô hình thực nghiệm với một quy trình kiểm định như sau: Dựa vào nghiên cứu của Cooray (2009) và António Afonso & Jalles (2016), luận án thiết lập mô hình thực nghiệm về tác động của quản trị công, chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh chi tiêu công tổng thể, luận án phân loại chi tiêu công thành các thành phần chi tiêu công sản xuất (giáo dục, y tế, truyền thông và vận tải) và các thành phần chi tiêu công phi sản xuất nhằm khám phá rõ hơn tác động của các thành phần chi tiêu công cũng như sự tương tác giữa các thành phần chi tiêu công này và quản trị công tại các quốc gia đang phát triển. Khám phá rõ hơn vai trò quản trị công trong mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế, luận án sử dụng phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu của Thanh & Hoai (2017) nhằm khám phá sự khác biệt về tác động của quản trị công, chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia đang phát triển có trình độ quản trị công thấp vào cao. Ngoài ra, với mục tiêu làm rõ hơn đặc thù về thể chế chính trị của các quốc gia đang phát triển, bằng các biến dummy và biến tương tác thích hợp, luận án kiểm định Trang 103 sự khác biệt về thể chế chính trị có vai trò như thế nào trong mối quan hệ giữa các biến phân tích tại các quốc gia đang phát triển. Theo đó, nội dung của chương gồm năm phần cụ thể: Phân thứ nhất mô tả chỉ số đo lường quản trị công; Phần thứ hai phân tích thực trạng chất lượng quản trị công tại các quốc gia đang phát triển; Phần thứ ba trình bày mô hình thực nghiệm về vai trò của quản trị công trong mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế; Phần thứ tư khái quát cách thức thu thập dữ liệu cũng như mô tả dữ liệu nghiên cứu và phần cuối cùng là kết quả kiểm định và thảo luận. 4.1 Chỉ số đo lường quản trị công Như đã đề cập ở phần trên, các quốc gia đang phát triển chi tiêu công nhiều song hiệu quả sử dụng chi tiêu công tại các quốc gia này lại rất thấp. Chính sách chi tiêu công hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế không chỉ cần chính sách tốt mà còn phụ thuộc vào việc thực thi chính sách hiệu quả (Brahmbhatt & Canuto, 2012). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, chất lượng quản trị công hạn chế là nguyên nhân chính yếu ảnh hưởng đến tác động của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế (James Brumby & Kaiser, 2012; Cooray, 2009; Halkos & Paizanos, 2016; Keefer & Knack, 2007). Vì vậy, xem xét vai trò của quản trị công trong mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế là rất cần thiết. Tuy nhiên, các chỉ số đo lường quản trị công rất đa dạng và còn nhiều tranh luận. Trong hơn hai thập kỷ qua, cùng với các nghiên cứu lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm khám phá mối quan hệ giữa quản trị công và tăng trưởng kinh tế ở các trường hợp nghiên cứu cụ thể. Trong đó, các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến hồi quy dữ liệu đa quốc gia thường xem xét mối quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người và các chỉ số đo lường chất lượng quản trị công. Tuy nhiên, một vấn đề rất cần được quan tâm thảo luận là việc xác định các chỉ số thích hợp để đo lường quản trị công trong thực nghiệm. Trang 104 Barro (1991), một trong những người tiên phong thực hiện hồi quy với dữ liệu đa quốc gia về vai trò của quản trị công. Trong nghiên cứu của mình, Barro (1991) sử dụng một số biến như dữ liệu thống kê về các cuộc đảo chính, ám sát chính trị và bạo động nhằm đo lường bất ổn chính trị cũng như sự đe dọa quyền tài sản. Tương tự, các nghiên cứu của Mauro (1995) và Knack & Keefer (1995) sử dụng các chỉ số, mà theo Zhuang & ctg (2010), được tạo bởi ý kiến chủ quan của các chuyên gia, cụ thể là các chỉ số được tạo bởi những công ty tư vấn đầu tư như Political Risk Services Group, The Business Environment Risk Intelligence (BERI). Hiện nay, sự phát triển của các nghiên cứu thực nghiệm về quản trị công và thể chế chú trọng vào việc đo lường quản trị công thông qua các đánh giá khách quan hơn, tổng hợp từ ý kiến của các chuyên gia chính trị, các tổ chức đa phương, và các tổ chức phi chính phủ. Rất nhiều chỉ số nhằm đo lường quản trị công được công bố. Trong đó, các chỉ số được sử dụng phổ biến hiện nay là: Bộ chỉ số quản trị công Worldwide Governance Indicators (WGI) được xuất bản bởi Ngân hàng thế giới – WorldBank, xuất phát từ nghiên cứu của Kaufmann, Kraaay & Zoido-Lobaton (1999); Kaufmann & Kraay (2002); Kaufmann, Kraay & Mastruzzi (2003). Bộ dữ liệu này dựa trên 30 khái niệm, ý kiến về chỉ số đo lường quản trị công, được khảo sát từ các công ty tư vấn đầu tư, các tổ chức phi chính phủ, các chuyên gia chính trị, các chính phủ và các tổ chức đa phương. Bộ dữ liệu được phân loại thành 6 chỉ số như sau: - Chỉ số tiếng nói người dân và trách nhiệm giải trình (Voice and Accountability): đo lường mức độ cử tri của một quốc gia có thể tham gia vào quá trình lựa chọn chính phủ của mình cũng như mức độ tự do ngôn luận, hiệp hội và báo chí. - Chỉ số ổn định chính trị và hạn chế bạo lực (Political Stability and Absence of Violence): được đo lường bằng khả năng chính phủ có thể mất ổn định bởi các hành vi vi hiến, bạo lực và cả khủng bố. Trang 105 - Chỉ số hiệu quả chính phủ (Government Effectiveness): được đo lường bởi chất lượng dịch vụ công, năng lực và mức độ độc lập của hành chính và dân sự trước những áp lực chính trị. - Chỉ số chất lượng văn bản pháp luật (Regulatory Quality): được đo lường bằng khả năng chính phủ ban hành chính sách và các quy định pháp luật tạo điều kiện và thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân. - Chỉ số thực thi pháp luật (Rule of Law): được đo lường bằng mức độ các cơ quan nắm bắt và tuân thủ các quy tắc xã hội, bao gồm quyền sở hữu, cảnh sát, tòa án cũng như rủi ro tội phạm. - Chỉ số kiểm soát tham nhũng (Control of Corruption): được đo lường bằng mức độ quyền lực công cộng nhưng thực hiện cho mục đích cá nhân, bao gồm các hình thức tham nhũng lớn và nhỏ, cũng như mức độ chuyên chính, độc tài trong nhà nước. Đối với mỗi nền kinh tế, bằng cách sử dụng phương pháp nhân tố không quan sát được, các thành phần khác nhau trong mỗi chỉ số trong 6 chỉ số trên được tính trọng số thích hợp và tổng hợp lại để mang lại một giá trị chung, có giá trị từ -2.5 đến 2.5, với các giá trị lớn hơn cho thấy quản trị tốt hơn ở từng chỉ tiêu. Bên cạnh đó, bộ dữ liệu đo lường của Freedom House, chỉ số quyền chính trị - Political rights (quá trình bầu cử, tham gia chính trị, hoạt động chính phủ) và chỉ số tự do dân sự - Civil liberties (tự do ngôn luận và tín ngưỡng, quyền tổ chức hiệp hội tương đối, thực thi pháp luật, tự chủ cá nhân và các quyền cá nhân), cũng thường được sử dụng để đo lường quản trị công. Được xuất bản lần đầu tiên năm 1972, hai chỉ số này có thang điểm từ 1 đến 7, được đánh giá cho từng quốc gia hoặc vùng lãnh thổ theo từng năm. Trung bình của hai chỉ số này được gọi là chỉ số tự do kinh tế- Economic Freedom. Dựa vào chỉ số tự do kinh tế, các quốc gia và vùng lãnh thổ được phân loại thành 3 thành phần “tự do”, “bán tự do”, “không tự do”. Trang 106 Tập trung nhiều hơn vào khía cạnh thể chế chính trị của quản trị công, bộ dữ liệu Polity IV của Systemic Peace và bộ dữ liệu Database of Political Institutions (DPI) của Ngân hàng Phát triển Nam Mỹ (Inter American Development Bank - IDB) cũng thường được các nghiên cứu sử dụng. Trong đó, cơ sở dữ liệu về các thể chế chính trị DPI của IDB thể hiện các dữ liệu chi tiết về thể chế chính trị như kết quả bầu cử, các biện pháp kiểm tra, nhiệm kỳ, các đảng chính trị và hệ tư tưởng của chính phủ. Bộ dữ liệu đã trở thành một trong những cơ sở dữ liệu được trích dẫn nhiều nhất trong các nghiên cứu kinh tế chính trị và thể chế chính trị. Theo thống kê của IDB, gần 3.000 nghiên cứu đã sử dụng cơ sở dữ liệu DPI trong phân tích thực nghiệm của họ. Phiên bản hiện tại của cơ sở dữ liệu (DPI 2015) hiện đang được lưu trữ tại IDB, mở rộng phạm vi thống kê đến khoảng 180 quốc gia trong 40 năm từ 1975-2015. Một số bộ dữ liệu khác cũng được dùng để đo lường quản trị công như chỉ số cạnh tranh toàn cầu – Global Competitiveness Index được xuất bản bởi diễn đàn kinh tế thế giới và Đại học Columbia; chỉ số cảm nhận tham nhũng – Corruption Perception Index của Transparency International; chỉ số liêm khiết toàn cầu – Global Integrity Index được sử dụng bởi United States’s Millennium Challenge Corporation và Ngân hàng thế giới World Bank; Tuy nhiên, mặc dù được ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu thực nghiệm, các chỉ số quản trị công hiện nay vẫn chịu những lời chỉ trích khác nhau về tính chính xác và ý nghĩa của các chỉ số này. Với bộ dữ liệu đo lường quản trị công được sử dụng rộng rãi nhất là bộ dữ liệu WG

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflats_trantrungkien_541_2045666.pdf
Tài liệu liên quan