Luận văn Con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du

Xã hội đầy rẫy những bất công, dù không chỉ ra trực tiếp, nhưng ẩn chứa sau những

bức tranh tương phản đặt cạnh nhau một cách có dụng ý, ta vẫn nhận ra điều Nguyễn Du

muốn nói: trong cái xã hội đó, sự thừa mứa của tầng lớp này chính là nguyên nhân gây ra sự

cùng quẫn cho tầng lớp kia. Phải làm sao để giải quyết vấn đề này là một câu hỏi chắc chắn

không phải chỉ thoáng qua vài lần trong trái tim con người giàu lòng yêu thương ấy. Nung

nấu rất nhiều nhưng rồi vẫn bế tắc vì chính ông cũng tự hỏi “ai vẽ bức tranh này để dâng lên

nhà vua?”. Khi viết những câu thơ đó chắc Nguyễn Du cũng không nghĩ chính bản thân nó

đã là một bức tranh sống động nhất, khiến người đọc có lương tâm phải xót xa. Đúng như

nhà thơ Xuân Diệu từng nhận định: “Không yêu thương con người đến cháy ruột cháy gan,

thì không thể có hơi văn bênh vực sự sống như mẹ bảo vệ đứa con rứt ruột” [14, tr55] như

thế.

pdf155 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4030 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lúc con người biết vùng dậy, tách khỏi cái ta cộng đồng để nhận thức chính mình và những người xung quanh. Tất cả những điều này khiến cho thơ Tố Như thấm đẫm vị đời. Ở đó, hiện lên một con người đầy ưu tư, đau đời và thương người tha thiết. Bi kịch của ông không phải là sự lựa chọn đầy day dứt giữa xuất và xử như Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm nữa mà là cái tài không còn chỗ dung thân, thậm chí còn đi liền với tai họa, đau đời nhưng không cứu được đời, không cứu được đời nhưng ông không hề lẩn trốn, vẫn trằn mình cùng với nỗi thống khổ của con người. Đến Nguyễn Du con người hành động đã nhường chỗ cho con người suy tưởng. “Con người ấy tiếp nhận tất cả mọi cay đắng trong đời với một thái độ lặng lẽ chịu đựng. Nhưng bên trong con người đó, một cuộc đấu tranh ngấm ngầm chống lại mọi nguy cơ sa ngã diễn ra dai dẳng không ngừng. Và so với người khác, những nỗi cực nhọc mà con người ấy chịu còn phải nhân lên gấp mấy lần, vì nó dồn nén súc tích lại thành những nỗi đau vò xé tâm can, chứ không được giải phóng ra bằng hành động”[14, tr63]. Tóm lại, tùy thuộc vào hoàn cảnh, mỗi nhà thơ đều có những cách bày tỏ sự quan tâm của mình với thời cuộc. Ở những nhân cách lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du, dù cách thể hiện không hoàn toàn giống nhau nhưng chung quy lại nó đều bắt nguồn từ tình thần yêu nước thương dân, trái tim luôn nặng lòng với cuộc đời, gắn bó sâu sắc với thời đại. Đồng thời sự vận động trong cách thể hiện thái độ, tình cảm của họ đối với cuộc đời in dấu vào trong thơ cũng làm cho văn học thời kì này có những biến chuyển sâu sắc. Về mặt tư tưởng, đó là quá trình đi từ sự khẳng định trật tự phong kiến sang nghi ngờ và phủ định lại trật tự phong kiến. Về mặt nghệ thuật, cùng với việc phát huy tính dân tộc trong truyền thống văn học, thì tính hiện thực và tính nhân dân ngày càng phát triển đậm nét trong sáng tác từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du. CHƯƠNG III. CON NGƯỜI NHÂN VĂN ĐẸP TRONG TÌNH YÊU THIÊN NHIÊN VÀ LỐI SỐNG HÀI HÒA CÙNG VẠN VẬT 1. Nguyễn Trãi với niềm vui sống giữa thiên nhiên Suốt một đời lo nước thương dân, lý tưởng cống hiến và tình thần đại dụng luôn nung nấu trong lòng; dù ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ơn vua nợ nước vẫn không hề khuây khỏa… Đó là những chiều kích làm nên con người vĩ nhân nơi Nguyễn Trãi. Song bên trong con người lớn lao cao cả đó còn có một con người rất đỗi bình thường, và chính con người bình thường này đã làm cho con người vĩ nhân được trọn vẹn hơn. Đó là khi người anh hùng dân tộc hòa mình vào thiên nhiên bằng một sự trải lòng vô cùng chân thành của người nghệ sĩ. Có thể nói tình yêu tạo vật cũng là một chiều kích khác nữa để đo tâm hồn Ức Trai. Thiên nhiên vốn là nguồn cảm hứng chung của thi ca kim cổ, và là đề tài quen thuộc trong thơ của nhà Nho – “cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ”, điều này cũng có nguyên nhân mỹ học của nó. Thứ nhất, Nho giáo quan niệm, nhân cách nhà Nho là do tiên thiên – có nguồn gốc thiên nhiên, vì thế nhân cách ấy bao giờ cũng hướng về thiên nhiên như hướng về môi trường trong sạch để di dưỡng tinh thần. Thứ hai, cũng theo quan niệm của Nho giáo, cái mẫu mực thuộc về quá khứ, còn cái trong sạch lại chủ yếu ở trong thiên nhiên. Thứ ba, với nhà Nho, điều đáng phô bày, đáng tự hào nhất ở con người mình là việc biết thụ cảm, biết chiêm ngưỡng cái đẹp của thiên nhiên vĩ đại, không những thế thiên nhiên cũng là người bạn chân chính để nhà Nho thổ lộ tâm sự của mình. Nguyễn Trãi cũng là một nhà Nho, một nhà Nho với nhân cách sạch trong như “băng giá đựng trong bình ngọc”, nên Nguyễn Trãi cũng có lúc không tránh khỏi thụ cảm thiên nhiên theo phương thức chủ quan hóa nó – nghĩa là dùng thiên nhiên như những biểu tượng thay thế cho một phẩm chất nào đó của người quân tử. Vì vậy, những mẫu hình thiên nhiên mang tính quy phạm đều có mặt đầy đủ trong thơ Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi cây tùng – “một mình lạt thuở ba đông” – vì cây tùng là hình ảnh của người đại trượng phu; yêu quý cây trúc – “ưa mày vì bởi tiết mày thanh” – vì cây trúc là hình ảnh của người quân tử. Trong thơ ông, cúc, mai xuất hiện rất nhiều vì đó là những loài hoa biểu trưng cho sự trắng trong, tinh khiết; thơ ông cũng nói đến ngư, tiều, canh, mục vì đó đều là những nghề nghiệp sạch trong; tuyết, nguyệt, phong, hoa không thể thiếu vì đó đều là những thú chơi tao nhã. Là một nhà Nho nhập thế trọn vẹn với một tấm lòng yêu nước thương dân luôn nung nấu như “lửa lò luyện đan” – Nguyễn Trãi cũng rất có cảm hứng trước thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Thần Phù hải khấu, Bạch Đằng hải khẩu, Long Đại nham, Vân Đồn…đều là những bức tranh hoành tráng của giang sơn gấm vóc. Với mảng thiên nhiên này, cảm hứng của Nguyễn Trãi luôn là cảm hứng của người nhìn từ trên cao xuống cảnh vật mình miêu tả. Vì thế, dưới cặp mắt nhà thơ, biển Thần Phù hiện lên với “sóng rồng như kình phun”, “núi liền như giáo dựng”; cửa biển Bạch Đằng với “núi từng khúc như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ / Bờ lớp lớp như cây qua chìm, cây kích gãy”; và ngọn núi Đầu Rồng bên bờ Nam cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) trong bài “Long Đại nham” thì lại hiện lên như một câu chuyện thần thoại: “Ngao đội núi lên núi có động / Kình bơi lấp biển biển thành ao”… Cảm hứng vũ trụ hòa trong cảm hứng anh hùng đã tấu thành khúc tráng ca về thiên nhiên kì vĩ trong thơ Nguyễn Trãi. Có thể nói, bằng con đường kéo thiên nhiên về với mình, Nguyễn Trãi đã phô diễn những phẩm chất cao quí của một nhà Nho, đó là cốt cách thanh cao, bản lĩnh cứng cỏi và tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước. Là nhà thơ của thiên nhiên, cảnh vật trong thơ Ức Trai không chỉ có thế mà vô cùng phong phú, phong phú như chính bản thân vũ trụ vậy. Thế nên, bên cạnh “giang sơn như tạc anh hùng thệ” còn có “con lều be bé đẹp sao”. Xen giữa tùng, trúc, cúc, mai là vô vàn những “sản hằng” của quê ta giàu có. Mảng thơ thiên nhiên này chủ yếu gắn liền với quê nhà Côn Sơn, đến với thi nhân khi ông về ở ẩn tại nơi này. Và đây mới thật sự là lúc Nguyễn Trãi hòa mình vào thiên nhiên, mở lòng đón nhận mọi rung động của muôn loài vang âm bằng chính tâm hồn của một nghệ sĩ thuần túy. Chính vì thế, thiên nhiên bước vào thơ ông mang một nét độc đáo rất riêng, không nhầm lẫn được. Với Nguyễn Trãi, thiên nhiên là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho con người. Vì thế, những gì thuộc về thiên nhiên đều được ông nâng niu, yêu mến. Tùng, trúc, cúc, mai là những loài cao quí vì nó tượng trưng cho những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử, song bè rau muống, lãnh mồng tơi, vị núc nác …cũng có giá trị thiết thực vì nó mang lại no ấm cho lương dân. Hồn thơ rộng mở của Nguyễn Trãi đã phá vỡ rào cản của tính quy phạm để mở cánh cửa cho những cảnh vật rất đỗi bình dị của thôn quê bước vào. Vườn thơ Nguyễn Trãi càng sinh động hơn khi có mặt những cỏ cây hoa lá gần gũi, dân dã: “Tả lòng thanh vị núc nác Vun đất ải luống mồng tơi” (Ngôn chí, bài 9) “Ai có của thông phòng thết khách Một ao niềng niễng mấy đòng đòng” “Ao cạn vớt bèo cấy muống Đìa thanh phát cỏ ương sen” (Thuật hứng, bài 24) Đó đều là những công việc quen thuộc của nhà nông, những sản vật quen thuộc của ruộng đồng mà chỉ những ai thật sự am hiểu và gắn bó mới có thể đưa vào thơ một cách tự nhiên đến thế. Được sống trong thiên nhiên là một lạc thú lớn đối với Nguyễn Trãi. Ông vốn không thích chốn quan trường, rất nhiều lần trong thơ Nguyễn Trãi bộc bạch “tường đào ngõ mận ngại thung thăng”, ngược lại luôn tự nhận mình có duyên cùng non nước. Sở dĩ “hài hoa còn bợn dặm thanh vân” cũng chỉ vì “nợ quân thân chưa báo được”. Để rồi, suốt những năm tháng làm quan, bên cạnh lý tưởng cống hiến cho dân cho nước thì thiên nhiên luôn như là một tiếng gọi huyền bí, một mối dây ràng buộc thiêng liêng với tâm hồn nhà thơ, thường xuyên thúc giục ông quay về. Thế nên, khi có điều kiện trở về với thiên nhiên, dù trong hoàn cảnh bất đắc dĩ, song Nguyễn Trãi cũng có được cảm giác thanh thản khi thỏa được giấc mơ ngày nào: “Hà thời kết ốc vân phong hạ Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên” (Bao giờ làm được nhà dưới núi mây Múc nước suối nấu chè, gối đầu lên đá mà ngủ) (Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác) Và cũng chính nơi đây, ông đã tìm được niềm vui dù chưa trọn vẹn sau những thất vọng chốn quan trường. Trên hành trình về với thiên nhiên Nguyễn Trãi đã cố gắng bỏ lại những phiền toái hư ngụy của cuộc đời để tìm cho mình một thú vui riêng: “Dù bụt dù tiên ai kẻ hỏi Ông này đã có thú ông này” (Mạn thuật, bài 6) Với một người yêu thiên nhiên như Nguyễn Trãi, thì cái thú ấy là gì nếu không phải là thú thanh nhàn, thú nhà quê, được giao cảm với muôn loài và trải nghiệm cuộc sống lao động của những người chân bùn tay lấm. Ở đó không còn nữa hình ảnh của một vị quan đầu triều, (Thuật hứng, bài 11) chỉ còn lại ông già Nguyễn Trãi cũng xắn áo, lột hài bước xuống ruộng vườn như một lão nông: “Một cày một cuốc thú nhà quê Áng cúc lan xen vãi đậu kê” (Thuật hứng, bài 3) Còn nữa: “Đạp áng mây ôm bó củi Ngồi bên suối gác cần câu” (Thuật hứng, bài 5) Cuộc sống cứ thế trôi qua, bình yên, vô sự mà không hề đơn điệu khi con người vượt xa những mong cầu vinh hoa phú quý tầm thường, vượt lên trên những khen chê của thói tục để thụ hưởng cái đẹp thuần hậu nhất của thiên nhiên. Và một khi cuộc sống vật chất đã không còn được coi trọng thì đời sống tinh thần chắc chắn sẽ thăng hoa: “Am trúc hiên mai ngày tháng qua Thị phi nào đến cõi yên hà Bữa ăn dầu có dưa muối Áo mặc nài chi gấm là Nước dưỡng cho thanh đìa thưởng nguyệt Đất cày ngõ ải luống ương hoa Trong khi hứng đọng vừa đêm tuyết Ngâm được câu thần dắng dắng ca” (Ngôn chí, bài 3) Con người hiện lên giữa thiên nhiên với một phong thái thanh cao, nhẹ tênh như mây như khói, phong thái đó chỉ có thể có được khi con người được sống trong một bầu không khí sạch trong, tinh khiết mà rất đỗi hiền hòa của cảnh vật. Đôi khi chỉ cần một vài nét chấm phá là Ức Trai đã có một bức tranh thiên nhiên giản dị nhưng vô cùng trong sáng, gợi cảm giác bình yên nhẹ nhàng khiến người đọc soi vào như thấy tâm hồn mình trong trẻo hơn : “Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc Ngày vắng chim kêu cuối khóm hoa” (Ngôn chí, bài 17) Có một điều lạ là thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi thường thiếu vắng sinh hoạt nhân sự. Con người duy nhất chính là thi nhân, hiện lên thông qua cảnh, vậy mà cảnh chưa bao giờ rơi vào cô liêu, ngược lại vẫn tươi vui một cách yên ả, thanh bình. Phải chăng vì Ức Trai đã thổi hồn vào trong cảnh nên cảnh cũng như người, cũng biết sẻ chia và thấu hiểu? Câu hỏi đó thiết nghĩ cũng chẳng khó trả lời. Bởi trên thực tế, Nguyễn Trãi đã tìm thấy tình tri âm nơi cảnh vật. Đặc biệt là sau khi trở về từ chốn tường đào ngõ mận với thói nhà quan lạnh nhạt, miệng lưỡi người như gươm mác, lòng người thì quanh co như ruột ốc, lại càng nhận ra “còn một non xanh là cố nhân”. Dù năm tháng trôi qua, cỏ cây sông núi vẫn thủy chung đợi chờ, vẫn luôn chân thành, nồng thắm, được sống bên những tri âm tri kỉ như thế thì làm sao còn cảm giác cô đơn: “Rượu đối cầm đâm thơ một thủ Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người” (Tự Thán, bài 6) Tìm về với hương đồng gió nội, Nguyễn Trãi đâu còn giữ mình ở vị trí của chủ thể thưởng ngoạn khách thể, mà bước vào thế giới đó với tư cách là một thành viên, “nhà thơ và cảnh vật tự nguyện hòa lẩn với nhau như bầu bạn, như anh em, tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này. Cho nên, đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy rất thoải mái ; thơ đầy cá tính, cá tính rất mạnh mẽ, sâu sắc nhưng lại thanh đạm như nước, hòa hảo như gió, bao dung như dòng sông rộng. Không vào giữa thiên nhiên để làm vương làm tướng, làm ông chủ, mà vào giữa đất trời, cỏ cây như vào trong cái nhà lớn mà tâm hồn mình vẫn ở. Thật là ung dung, hoằng đại, sảng khoái, phóng khoáng” [52. tr231] “Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn Ủ ấp cùng ta làm cái con” (Ngôn chí, bài 20) “Núi láng giềng, chim bậu bạn Mây khách khứa, nguyệt anh tam” (Thuật hứng, bài 19) Vậy là, dẫu trở về với núi rừng, song Nguyễn Trãi không hề bị cô lập. Ở đó ông vẫn thiết lập một xã hội mới, với những mối quan hệ đặc biệt, bạn bè là trăng gió, chim muông , nô bộc là quýt cam, cái con là cò hạc, khách khứa là núi mây... Quan hệ với những nhân vật này, Nguyễn Trãi có được sự thanh thản và dễ chịu vì chúng thật vô tư, hồn nhiên và thú vị : “Nô bộc ắt còn hai rặng quýt Thất gia chẳng quản một con lều” (Mạn thuật, bài 2) Và : “Láng giềng một áng mây bạc Khách khứa ngàn núi xanh” (Bảo kính cảnh giới, bài 42) Mở lòng cùng thiên nhiên, tự xem mình như một thành viên trong tổng hòa trời đất xung quanh, Nguyễn Trãi cảm nhận được trong những cảnh vật nhỏ bé như cũng có linh hồn, sống hòa hợp và cảm thông được với con người, biết đáp lại tình yêu thương của con người bằng sự vuốt ve, mơn trớn: “Hái cúc, ương lan, hương bén áo Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn” (Thuật hứng, bài 15) Và để cho thiên nhiên gần gũi và yêu mến mình hơn, thi nhân thay đổi cả cách ăn mặc, sử dụng chất liệu từ cỏ cây làm trang phục cho mình, vị quan ngày xưa giờ trở về với núi rừng, bình dị mà thanh thoát như một bậc cao sĩ: “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh Ao bô quen cật vận xênh xang” (Tức sự, bài 4) Cuộc sống giữa thôn quê của Nguyễn Trãi có thể nghèo vật chất song lại vô cùng giàu có về tinh thần. Bởi nơi đây nhà thơ được đón nhận tình yêu thương hiền hòa của tạo vật, cái tình đậm đà của muôn loài đủ làm nguôi đi bao phiền muộn, ưu tư để có thể vui với cỏ cây hoa lá, bắt nhịp được với thế giới tâm hồn vốn rất vi diệu của thiên nhiên: “Khách đến chim mừng, hoa xảy động Chè tiên nước kín, nguyệt đeo về” (Thuật hứng, bài 3) Không biết ra đời trước hay sau câu thơ trên của Nguyễn Trãi, nhưng trong kho tàng ca dao Việt Nam cũng có một hình ảnh tương tự đã làm say lòng bao thế hệ người Việt: “Hỡi cô tát nước bên đàng, Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” – Người nghệ sĩ bình dân bỗng thăng hoa cảm xúc trước một bức tranh lao động tuyệt mỹ, hình ảnh cô gái quê tát nước đêm trăng, từng gàu nước múc lên lóng lánh ánh vàng như đang tát cả ánh trăng đổ vào ruộng lúa, và cứ thế trăng tan rồi tụ, tát mãi không bao giờ vơi. Có lẽ, với nhân loại nơi hạ giới này, trăng không chỉ là nữ hoàng của sắc đẹp mà còn là nguồn thi hứng dạt dào của thi nhân, và với Nguyễn Trãi, điều đó cũng không ngoại lệ. Trăng trong thơ Nguyễn Trãi là nguyệt, là người bạn tri âm tri kỷ - “ Ta cùng bóng với nguyệt ba người”. Thơ ông viết về trăng rất nhiều, sáu mươi hai lần mà lần nào trăng hiện lên cũng đẹp, cũng trong sáng và gần gũi, trăng đến với nhà thơ khi ông gánh nước, khi uống rượu, lúc ngâm thơ…, khi vui cũng như khi buồn trăng đều nồng nàn tha thiết. “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén Ngày vắng xem hoa bợ cây” (Ngôn chí, bài 10) Sự tương giao với thiên nhiên không chỉ giúp Nguyễn Trãi chạm đến được nhịp thở nằm sâu trong lớp vỏ bề ngoài tưởng chừng như vô tri vô giác của cảnh vật mà còn gọi dậy năng lực cảm thụ đặc biệt nơi tâm hồn vốn đã vô cùng tinh tế và nhạy cảm của thi nhân. Đó là khi Ức Trai nhận ra sự diệu kì của âm nhạc có thể tương giao được với vũ trụ: “Ngư ca tam xướng yên hồ khoát Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao” (Tiếng hát của ông chài ba lần cất lên làm cho mặt hồ phủ khói như mở rộng ra. Trẻ mục đồng thổi một tiếng sáo làm cho trăng trên trời như cao hơn) (Chu trung ngẫu thành) Hai câu thơ tuyệt vời này dễ làm người đọc liên tưởng đến những bài thơ Haikư độc đáo của nhà thơ Basho: “Từ bốn phương trời xa cánh hoa đào lả tả gợn sóng hồ Bi – wa” “Vắng lặng u trầm thấm sâu vào đá tiếng ve ngâm” Hai nhà thơ ở hai đất nước khác nhau đã gặp nhau trong một triết lý về thiên nhiên vô cùng sâu sắc. Trước thiên nhiên, một nhà thơ bình thường thì chụp ảnh lại nó, chỉ những thi sĩ tài hoa và thật sự rung động mới nắm bắt được cái thần thái của cảnh vật. Nguyễn Trãi chính là nhà thơ như thế, với ông, một tiếng chim kêu, một làn gió thoảng, một thoáng hương bay, mấy hạt mưa thu rơi nhẹ… tất cả đều có thể chạm đến tơ lòng thi nhân khiến trái tim ông cứ run lên thổn thức trước những biểu hiện âm thầm và vi diệu nhất của tạo vật: “Am rợp chim kêu hoa xảy động Song im hương tịn khói sơ tàn Mưa thu rưới ba đường cúc Gió xuân đưa một lảnh lan” (Ngôn chí, bài 16) Cái thần thái của bức tranh nằm ở sự chuyển động hài hòa của mọi bộ phận, tất cả hiện lên đều trong sáng, tinh khôi, tịnh không vướng bụi trần. Đó chính là vẻ đẹp ban sơ của thiên nhiên đủ sức thanh lọc tâm hồn con người. Yêu thiên nhiên, Ức Trai nâng niu và trân trọng từng khoảnh khắc bình yên của chúng. Nhà thơ không dám có bất kì một hành động sơ suất nào khiến chúng bị ảnh hưởng: “Đìa tham nguyệt hiện chăng buông cá Rừng tiếc chim về ngại phát cây” (Mạn thuật, bài 6) “Chẳng cài cửa tiếc non che khuất Sá để thuyền cho nguyệt chở nhờ” (Tự thán, bài 38) Trái tim đa cảm của thi nhân còn biết rung lên thương xót cả xác hoa rơi “Viện có hoa tàn chăng quét đất Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo” (Mạn thuật, bài 10) Những tình cảm nồng nàn và sâu sắc như thế không phải ai cũng có được, chỉ khi con người thật sự yêu thiên nhiên, hòa điệu cùng thiên nhiên bằng nhịp đập con tim và hơi thở của mình mới cảm nhận được hoa lá cỏ cây cũng biết đau, cũng cần được yêu thương, bảo vệ. Có thể nói thiên nhiên đối với Nguyễn Trãi có một mối tương thông đặc biệt, lực hút của thiên nhiên đối với tâm hồn thi nhân thật lạ kì. Giải thích về vấn đề này, Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Ở Nguyễn Trãi, thiên nhiên là nơi con người tiếp giáp với vũ trụ, và ở đó không có một đường chân trời nào cả. Và với Nguyễn Trãi, Côn Sơn không phải là một cảnh đẹp kêu gọi mà chính là môi trường tiếp giáp của tâm hồn ông với cái vô cùng” [65. tr59]. Tác giả này cũng cho rằng hình ảnh non xanh đeo đẳng mãi chính là hoài niệm về căn nhà vũ trụ kín ẩn giữa tâm hồn Nguyễn Trãi. Nhìn nhận vấn đề từ góc độ tâm linh, có thể Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có lý chăng? Chỉ biết rằng, với Nguyễn Trãi về với núi rừng Côn Sơn là trở về với ngôi nhà mà tâm hồn mình vẫn ở. Về đó, ông đã hòa nhập vào lòng núi non, trăng gió như một thành viên không thể thiếu: “Côn Sơn hữu tuyền Kỳ thanh linh linh nhiên Ngô dĩ vi cầm huyền Côn Sơn hữu thạch Vũ tẩy đài phô bích Ngô dĩ vi đạm tịch Nham trung hữu tùng Vạn cái thúy đồng đồng Ngô ư thị hồ yển tức kì trung Lâm trung hữu trúc Thiên mẫu ấn hàn lục Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kì trắc” (Côn Sơn có suối Tiếng nước chảy róc rách Côn Sơn có đá Mưa rửa rêu phô biếc Ta lấy làm đệm chiếu Trong núi có thông Muôn chiếc lộng biếc um tùm Ta nằm nghỉ ngơi ở trong đó Trong rừng có trúc Nghìn mẫu in màu xanh mát lạnh Ta ngâm nga ở bên cạnh…) (Côn Sơn ca) Côn Sơn hiền hòa bao dung như lòng mẹ, đón nhà thơ như đón đứa con xa trở về. Nơi đó cũng chính là hình ảnh quê hương trọn vẹn trong nỗi nhớ của Nguyễn Trãi suốt những năm tháng đi xa. Gắn bó với thiên nhiên cũng là một biểu hiện của tình yêu quê hương tha thiết. Tình yêu ấy kết hợp với con mắt quan sát tinh tế, nhạy bén và óc liên tưởng phong phú, độc đáo đã xây dựng nên những bức tranh quê đặc biệt sinh động, thi vị: “Tằm ươm lúc nhúc, thuyền đầu bãi Hàu chất so le, khóm cuối làng” (Ngôn chí, bài 8) Hình ảnh quê hương giản dị là thế mà khiến người xa quê cứ nhớ nhung đến nao lòng. Đặc biệt là mùa xuân nơi quê nhà bao giờ cũng gợi lên một vẻ đẹp yên ả, sâu lắng khiến lòng người không khỏi bâng khuâng: “Độ đầu xuân thảo lục như yên Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên Dã kính hoang lương hành khách thiểu Cô chu trấn nhật các sa miên” (Cỏ xuân ở bến đò đầu trại xanh như khói Lại thêm có mưa xuân, nước vỗ vào nền trời Đường đồng nội vắng tanh ít người đi lại Con thuyền đơn chiếc gác đầu lên bãi cát ngủ suốt ngày) (Trại đầu xuân độ) Và trong cảnh quê hương thanh bình, lòng người cũng lắng lại. Có những ngày ngồi trong thư phòng đóng chặt cửa, một mình chìm vào cái tĩnh lặng của thiên nhiên, lại càng cảm nhận rõ hơn bước đi âm thầm của mùa xuân, thấu được từng chuyển động tế vi của đất trời và vạn vật: “Nhàn trung tận nhật bế thư trai Môn ngoại toàn vô tục khách lai Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai” (Trong lúc nhàn nhã suốt ngày khép cửa phòng văn Ngoài cửa không có một khách tục nào tới Trong tiếng cuốc kêu, xuân sắp tàn Dầy sân mưa phùn nhẹ rơi khi hoa xoan đang nở) (Mộ xuân tức sự) Hai tuyệt phẩm trên không chỉ là những bức tranh quê mà còn là những mảnh hồn quê mà chỉ những ai gắn bó máu thịt với quê hương bằng một tình yêu tha thiết mới có thể cảm nhận được những nét đẹp thuần hậu đó. Dạo qua một vòng trong vườn thơ Nguyễn Trãi viết về thiên nhiên, đến đâu cũng bắt gặp những cảnh vật hiện lên thật đẹp, thật sống động, và cảnh nào cũng in bóng dáng của thi nhân, cảnh và người giao hòa thẩm thấu vào nhau trong niềm say mê bất tận. Và cũng chính niềm say mê đó đã chắp cánh cho ngọn bút tài hoa của hồn thơ Ức Trai, giúp ông khám phá ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của thiên nhiên một cách đầy bất ngờ. Cây chuối là loài cây bình dị và rất đỗi quen thuộc với mỗi chúng ta, nhưng khi hiện lên trong Nguyễn Trãi thì mang một vẻ đẹp rất khác lạ. Cây chuối vào mùa xuân, bén hơi xuân nên tốt tươi hơn trước, cái nõn chuối được thể vươn lên nhưng vẫn cuộn tròn trông giống như một bức thư tình còn phong kín, và vì còn phong kín nên lại càng khiêu khích trí tò mò của thi nhân. Ông xui gió hãy đến “gượng mở xem” trong thư viết gì. Một liên tưởng thật độc đáo mà cũng rất Nguyễn Trãi – tài tình và phong tình. Có thể nói, thiên nhiên tươi đẹp đã đánh thức tài hoa nơi hồn thơ Ức Trai, để rồi đến lượt mình, thơ ông lại tô vẽ cho thiên nhiên thêm phần quyến rũ và hữu tình.Cặp mắt Nguyễn Trãi không phải là mắt thường nên nhìn vào đâu cũng có những phát hiện kì lạ. Đến thăm núi Dục Thúy, một thắng cảnh thuộc tỉnh Ninh Bình, nhìn bóng tháp in trên mặt nước tác giả liên tưởng nó như đang cài cây trâm ngọc lên dòng sông xanh, còn ngọn núi cứ như búi tóc xanh soi mình bên chiếc gương sông để làm duyên làm dáng : “Tháp ảnh trâm thanh ngọc Ba quang kính thúy hoàn” (Bóng tháp cài cái trâm màu xanh Ánh sáng của làn sóng nước soi gương búi tóc xanh biếc) (Dục Thúy sơn) Trong bài Vân Đồn tác giả cũng có liên tưởng tương tự : “Nhất bàn lam bích trừng minh kính Vạn hộc nha thanh đọa thúy hoàn” (Mặt nước như một mâm lam biếc lắng tấm gương trong Muôn hộc núi đen xanh tựa những búi tóc màu thúy rũ xuống) (Vân Đồn) So sánh bóng núi soi lên mặt nước như búi tóc của người đàn bà ngắm mình trong gương thật sự là tư duy rất tân kì, sao lại là hình ảnh búi tóc mà không phải là bất kì một hình ảnh nào khác? Có lẽ hình ảnh đó đến với ông bằng trực giác mẫn cảm của người nghệ sĩ, nhưng để có được cái trực giác tuyệt vời đó lại phải dựa trên một tâm hồn vô cùng tinh tế và rất đỗi tài hoa. Dưới ngọn bút của Ức Trai, cảnh vật bao giờ cũng trở nên diễm lệ và có hồn hơn. Thiên nhiên đã giúp Nguyễn Trãi tìm lại được sự cân bằng trong cuộc sống, khôi phục lại những cảm xúc ban sơ để lại thấy tin yêu hơn cuộc đời. Với Nguyễn Trãi thiên nhiên là môi trường di dưỡng tinh thần đánh thức con người và thanh lọc tâm hồn khỏi những vinh nhục ở đời – “trong hiên nhìn mây núi thì không có vinh nhục nữa”. Con người trở nên an nhiên tự tại, song cần thấy là Ức trai tìm về với sự trong sạch của thiên nhiên không phải để luyện thành một cái tâm rỗng không vô vi, mà là để đạt đạo của một con người hành động. Giữa cuộc đời đầy bụi bặm, trở về với thiên nhiên để được thanh lọc tâm hồn là một lối sống thanh cao, trong sáng, thấm đẫm chất nhân văn của Nguyễn Trãi. Chỉ tiếc rằng trong ông, tình quân thân còn rất nặng, nên dẫu “cốt lạnh hồn thanh” vẫn không muốn hóa: “Cốt lạnh hồn thanh chăng khứng hóa Âu còn nợ chúa cùng cha” (Thuật hứng, bài 9) Và thế là Nguyễn Trãi đã quay trở lại. Như vậy, khi tự soi vào mình, Nguyễn Trãi cần đến người bạn lớn – thiên nhiên, đó chính là tấm gương trong sáng soi tỏ tâm hồn nhà thơ, giúp ta nhìn rõ nguyên vẹn, đầy đủ con người Ức Trai, con người trong trắng, cao cả, con người có những tư tưởng hùng vĩ, rộng lớn, vô biên. 2. Nguyễn Bỉnh Khiêm với những suy nghiệm quy luật cuộc đời từ thiên nhiên Trong bài tựa tập thơ “Am Bạch Vân” – Nguyễn Bỉnh Khiêm tự bạch: “Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chí thích nhàn dật, lấy cảnh núi non song nước làm vui…Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca ngợi cảnh đẹp đẽ của sơn thủy hặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngộ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thay thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí…”[49, tr 36,37]. Như vậy, thơ nói về chí lại là thơ tức cảnh, tức sự, phô bày cái đẹp của thiên nhiên; cái

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN067.pdf