Luận văn Đánh giá tính đa dạng sinh học động vật không xương sống thuộc hệ sinh thái nước ngọt trong khu bảo tồn thiên nhiên sông Thanh, tỉnh Quảng nam làm cơ sở khoa học cho bảo tồn và phát triển hợp lý

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .i

MỤC LỤC.iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .vi

DANH MỤC BẢNG.vii

DANH MỤC HÌNH .viii

MỞ ĐẦU.1

Chương 1. TỔNG QUAN .3

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐVKXS NưỚC NGỌT TRÊN THẾ GIỚI .3

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐVKXS NưỚC NGỌT Ở VIỆT NAM.8

1.3. ẢNH HưỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ MÔI TRưỜNG ĐẾN SỰ SINH

TRưỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐVKXS .19

1.4. SƠ LưỢC VỀ ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI

KHU VỰC NGHIÊN CỨU.20

1.4.1. Khái quát về đặc điểm điều kiện tự nhiên.20

1.4.2. Khái quát về đặc điểm kinh tế - xã hội .24

1.4.3. Rừng và ĐDSH .25

Chương 2. ĐỐI TưỢNG, NỘI DUNG VÀ PHưƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

2.1. ĐỐI TưỢNG, NỘI DUNG NGHIÊN CỨU . .

2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU . .

2.2.1. Thời gian nghiên cứu . .

2.2.2. Địa điểm nghiên cứu . .

2.3. PHưƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. .

2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu và tài liệu. .

2.3.2. Thu thập mẫu ngoài tự nhiên . .

2.3.3. Phân tích vật mẫu. .

2.3.4. Xử lý số liệu. .

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU . .

3.1. ĐẶC ĐIỂM SINH CẢNH CÁC THỦY VỰC NGHIÊN CỨU.

3.1.1. Đặc điểm sinh cảnh các điểm nghiên cứu. .

pdf46 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá tính đa dạng sinh học động vật không xương sống thuộc hệ sinh thái nước ngọt trong khu bảo tồn thiên nhiên sông Thanh, tỉnh Quảng nam làm cơ sở khoa học cho bảo tồn và phát triển hợp lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45 đến nay các nghiên cứu về ĐVKXS chủ yếu là đề cập đến các nhóm Trùng bánh xe (Rotatoria), lớp Giáp xác (Crustacea), ngành Thân mềm (Mollusca), lớp Côn trùng (Insecta), lớp Hình nhện (Arachnida). Các công trình này nghiên cứu về thành phần loài, đặc trƣng phân bố, miêu tả thêm loài mới hoặc tu chỉnh vị trí phân loại nhiều nhóm ĐVKXS nƣớc ngọt đã đƣợc công bố. Trong đó công trình “Thủy sinh học các thủy vực nƣớc ngọt nội địa Việt Nam” của Đặng Ngọc Thanh và cộng sự năm 2002 thống kê số lƣợng loài ĐVKXS nƣớc ngọt đã biết ở nƣớc ta đƣợc xem là có tính tổng hợp về các nghiên cứu thủy sinh học thủy vực Việt Nam [37]. Ngoài công trình này còn có một số công trình chuyên khảo về một số nhóm ĐVKXS nƣớc ngọt đƣợc công bố nhƣ: “Động vật chí Việt Nam, tập 5” (Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh Hải, 2001), “Tôm, cua nƣớc ngọt Việt Nam” (Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh Hải, 2012) [31, 35]... Các nghiên cứu nổi bật về các nhóm ĐVKXS cụ thể nhƣ sau: Ngành Trùng bánh xe (Rotatoria) đƣợc nghiên cứu đầu tiên bởi Shirota và Hoàng Quốc Trƣơng vào thời kỳ những năm 1966 [88]. Tiếp theo đó và những năm 1980, Đặng Ngọc Thanh và cộng sự đã mô tả 54 loài Trùng bánh xe có trong các thủy vực nƣớc ngọt Bắc Việt Nam. Vào năm 2009, Trần Đức Lƣơng và cộng sự đã bổ sung 3 loài Rotaria mới cho khu hệ ĐVN Việt Nam, bao gồm Lecane ungulata (Gosse), Brachious bidentata Aderson và Euchlanis triquetra Ehrenbgerg [19]. Năm 2012, các nghiên cứu của Trần Đức Lƣơng ở các thủy vực nƣớc ngọt nội địa Việt Nam đã xác định 66 loài Trùng bánh xe đồng thời cũng phân tích khá rõ về sự phân bố của các loài theo các vùng sinh thái khác nhau [18]. 11 Đối với lớp Giáp xác (Crustacea), những nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu về Giáp xác chân khác, Giáp xác râu ngành, Giáp xác chân chèo, Tôm nƣớc ngọt, Cua nƣớc ngọt và một số loài khác. Các nghiên cứu nổi bật trong giai đoạn này đƣợc tóm lƣợc nhƣ sau: Năm 2007, Lê Hùng Anh và Đặng Ngọc Thanh đã tổng hợp đƣợc 71 loài Giáp xác chân khác thuộc nhóm Amphipoda – Gammaridea ở vùng biển ven bờ Việt Nam. Đến năm 2011, Lê Hùng Anh đã xác định 5 loài giáp xác chân khác thuộc nhóm loài rộng muối đã gặp ở một số thủy vực nƣớc ngọt (hang động) ở Tam Cốc, Bích Động; Tràng An- Ninh Bình [2,3]. Các nghiên cứu về Giáp xác râu ngành (Cladocera), nổi bật có các công trình nghiên cứu của Đặng Ngọc Thanh (1980), Đặng Ngọc Thanh và cộng sự (1980) đã định loại đƣợc 45 loài giáp xác râu ngành ở các thủy vực nƣớc ngọt nội địa Bắc Việt Nam. Từ năm 1975 đến nay, dẫn liệu của 50 loài giáp xác râu ngành trong các thủy vực nƣớc ngọt nội địa Việt Nam thuộc các họ Daphniidae, Sididae, Macrothricidae, Bosminidae, Chydoridae đã đƣợc mô tả và định loại. Năm 2011, Korovchinsky đã ghi nhận loài Sarsilatona cf. fernandoi (Rane, 1983) thuộc họ Sididae ở Nam Việt Nam [33, 37, 71]. Nghiên cứu về Giáp xác chân chèo (Copepoda) có các công trình tiêu biểu nhƣ Đặng Ngọc Thanh (1965, 1977); Đặng Ngọc Thanh và cộng sự (1980); Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (1991, 1992, 2001); Hồ Thanh Hải (1996) nghiên cứu ở Bắc Việt Nam; Shirota, Hoàng Quốc Trƣơng (1963- 1964); Phạm Văn Miên (1978); Đặng Ngọc Thanh, Phạm Văn Miên (1979); Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (1985, 1996, 1997) nghiên cứu ở Nam Việt Nam. Các công trình này đã đƣa ra nhiều dẫn liệu về thành phần loài và phân bố của Copepoda. Tổng hợp các nghiên cứu đến năm 2001, giáp xác chân chèo Calanoida nƣớc ngọt ở nội địa Việt Nam đã biết đƣợc 33 loài thuộc 3 hộ Diaptomidae, Centropagidae và Pseudodiaptomidae [31]. Cho đến nay đã có thêm nhiều loài mới đƣợc bổ sung cho khu hệ Copepoda ở nƣớc ta nhƣ: năm 2007, Hồ Thanh Hải và Trần Đức Lƣơng đã bổ sung 6 loài Copepoda (Cyclopoida, Harpacticoida) dựa trên các vật mẫu đƣợc tìm thấy tại sông Cả và các thủy vực khác thuộc tỉnh nghệ An; năm 2008, Hồ Thanh Hải và cộng sự tiếp tục bổ sung dẫn liệu về 2 loài giáp xác Copepoda thuộc họ Diaptomidae cho Việt Nam [19]. Đến năm 2012 Trần Đức Lƣơng đã xác định tổng số 105 loài giáp xác chân chèo phân bố ở các thủy vực nội địa Việt Nam, đồng thời cũng đã phân 12 tích rất cụ thể về phân bố của các loài này theo vùng địa lý sinh thái tự nhiên, vùng cảnh quan, phân bố Bắc – Nam và theo các loại hình thủy vực [18]. Tôm nƣớc ngọt (Macrura) có thể kể đến các công trình của Đặng Ngọc Thanh (1961, 1976, 1975), Đặng Ngọc Thanh và Nguyễn Huy Yết (1972) đã bổ sung một số loài mới cho miền Bắc Việt Nam, đồng thời các tác giả xem lại vấn đề danh pháp và vị trí phân loại của nhiều loài tôm trƣớc đây. Ở miền Nam Việt Nam, có công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Xuân (1978, 1979, 1981, 1992) về họ Palaemonidea. Thành phần loài Tôm nƣớc ngọt liên tục đƣợc bổ sung với các nghiên cứu của Đặng Ngọc Thanh năm 1998, Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh Hải (2001) đã miêu tả và định loại thành phần loài họ Palaemonidae ở Việt Nam bao gồm 24 loài thuộc 6 giống [29, 31, 37]; Cai và cộng sự (1999) công bố một loài tôm Atyidae mới cho khoa học ở Việt Nam với tên khoa học là Caridina clinata [54]. Đặng Ngọc Thanh và Đỗ Văn Tứ (2007) đã công bố danh sách 14 loài tôm thuộc họ Atyidae đã biết ở Việt Nam, trong đó có 2 loài mới đƣợc ghi nhận cho Việt Nam, thêm vào đó là mô tả 4 loài mới thuộc họ này đó là Caridina pseudoserrata, C. rubropunctata, C. uminensis và C. vietriensis, nâng tổng số loài tôm Atyidae ở Việt Nam lên 18 loài [38-40]. Các nghiên cứu về Cua nước ngọt (Brachyura) gần đây đƣợc quan tâm nhiều hơn. Năm 1999, Yeo và Nguyễn Xuân Quýnh mô tả một loài cua mới cho khoa học ở Việt Nam, đó là Somanniathelphusa dangi [93]. Năm 2001 Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh Hải đã công bố 19 loài thuộc 8 giống và 2 họ Potamidae và Parathelphusidae. Đến năm 2002, các tác giả đã bổ sung hai loài cua mới thuộc họ Potamidae ở Việt Nam nâng tổng số loài cua ở nƣớc ta lên con số 21 [31, 32]. Mới đây nhất, năm 2011, Nguyễn Xuân Quýnh cùng với các nhà khoa học nƣớc ngoài đã mô tả 3 loài cua mới thuộc giống Indochinamon Yeo & Ng., 2007 (Crustacea: Brachyura: Potamoidea: Potamidae) ở Việt Nam là các loài I. bavi, I. phongnha và I. dangi. Bên cạnh đó, các tác giả cũng mô tả lại loài Ranguna kimboiensis Dang, 1975 do mẫu gốc của R. kimboiensis đã bị thất lạc (đây là loài rất hiếm gặp ở nƣớc ta) [89]. Đối với các nhóm giáp xác nƣớc ngọt khác có số lƣợng loài và vật mẫu tƣơng đối hiếm, vì vậy đến nay không có nhiều dẫn liệu công bố ở Việt Nam. Các nhóm này thƣờng xuất hiện trong các nghiên cứu cùng với các nhóm khác chứ chƣa có nghiên cứu riêng biệt. Trong nghiên cứu của Đặng Ngọc Thanh và 13 cộng sự (2002) đã thống kê đƣợc nhóm Conchostraca có 2 loài thuộc 2 họ, Ostracoda 8 loài thuộc 7 giống và một họ, Isopoda 2 loài và 2 họ và Tanaidacea 1 loài và 1 họ [37]. Nguyễn Quang Huy (2010) nghiên cứu về ĐDSH ĐVKXS ở sông Đáy, sông Nhuệ thuộc địa phận tỉnh Hà Nam đã xác định và bàn luận về phân bố của 3 loài Ostracoda [14]. Ngoài các nghiên cứu về Trùng bánh xe và Lớp Giáp xác, ngành Thân mềm cũng đƣợc các nhà khoa học tập trung nghiên cứu. Các nghiên cứu nổi bật về trai và ốc nƣớc ngọt của giai đoạn này có thể kể đến nhƣ sau: Năm 1980, Đặng Ngọc Thanh và cộng sự đã công bố 47 loài ốc thuộc 14 họ và 52 loài trai thuộc 6 họ ở miền Bắc Việt Nam. Có thể coi đây là công trình nghiên cứu đầy đủ nhất về trai ốc nƣớc ngọt Bắc Việt Nam [37]. Cũng trong năm 1980, Đặng Ngọc Thanh đã ghi nhận 2 loài ốc nhồi ở Bắc Việt Nam là Pila conica và Pila polita. Các nghiên cứu sau đó tiếp tục bổ sung nhiều dẫn liệu về thành phần loài cũng nhƣ phân bố của các loài trai ốc nƣớc ngọt Việt Nam. Năm 2003 Đặng ngọc Thanh và cộng sự đã xác định thành phần loài ốc Ampullariidea ở Việt Nam gồm 2 giống Pila và Pomacea với 5 loài; năm 2004, Đặng Ngọc Thanh và cộng sự đã công bố 9 loài thuộc 5 giống ốc vặn ở Việt Nam cùng với đó là khóa định loại, bàn luận về phân loại học và xác định vùng phân bố của từng loài ốc vặn Viviparidea [36]. Đặng Ngọc Thanh và cộng sự đã xác định danh sách các loài trai, ốc nƣớc ngọt Việt Nam bao gồm 138 loài thuộc 63 giống, 21 họ với số loài có chiều hƣớng giảm nhƣng số giống lại tăng lên so với những công bố trƣớc đó. Các tác giả cũng lƣu ý việc thu mẫu bổ sung ở Tây Bắc, Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cần đƣợc chú ý nhiều hơn [34, 37]. Năm 2013, Đỗ Văn Tứ và Hoàng Thị Thanh Nhàn đã phân tích, đánh giá và đƣa ra một số nhận định về tình trạng bảo tồn các loài trai nƣớc ngọt (Bộ Unionoida) ở Việt Nam, cụ thể là với khoảng 50% số loài bị đe dọa, trai nƣớc ngọt Việt Nam sẽ trở thành một trong những nhóm loài thân mềm nƣớc ngọt bị đe dọa và thiếu dữ liệu [43]. Các nghiên cứu về nhóm Côn trùng nƣớc (Insecta) đƣợc quan tâm nhiều trong giai đoạn này với các nghiên cứu về thành phần loài. Đặng Ngọc Thanh và cộng sự (1980, 2002) đã xác định 46 loài ấu trùng bộ Diptera [29, 37]. Công trình nghiên cứu về Ephemeroptera của Nguyễn Văn Vịnh (2003) ở 55 điểm của Việt Nam đã mô tả 102 loài thuộc 50 giống, 14 họ thuộc bộ Ephemeroptera (Phù du), đồng thời, tác giả cũng xây dựng khóa định loại đến loài của bộ Ephemeroptera 14 [81]. Đến năm 2005, tác giả cùng cộng sự đã mô tả thêm 2 loài mới thuộc họ Heptageniidae, bộ Ephemeroptera ở Việt Nam [82]. Năm 2006, tác giả đã bổ sung 3 loài thuộc họ Ephemerellidae, các nghiên cứu trƣớc cũng đã xác định đƣợc 5 loài mới thuộc họ Ephemerellidae tại Việt Nam [83]. Năm 2005, Hoàng Đức Huy đã xác định 198 loài (14 loài mới, 25 loài lần đầu ghi nhận, 28 loài đã xác định tên khoa học và 131 loài chƣa xác định ở dạng ấu trùng) thuộc 58 giống và 24 họ của bộ Trichoptera ở Việt Nam [66]. Năm 2008, Trần Anh Đức đã nghiên cứu về họ Gerridae (Heteroptera: Gerromorpha), bƣớc đầu xác định đƣợc 64 loài thuộc 26 giống có ở Việt Nam. Từ các kết quả nghiên cứu, tác giả đã xây dựng khóa định loại đến loài cho họ Gerridae ở Việt Nam [90]. Về nhóm Giun ít tơ (Oligochaeta) có kết quả nghiên cứu của Đặng Ngọc Thanh và cộng sự vào các năm 1980 và 2000, đã thống kê đƣợc 46 loài giun ít tơ, 2 loài giun nhiều tơ nƣớc ngọt chính thức, 5 loài tơ nƣớc lợ, 1 loài giun biển dị nhập vào theo nƣớc triều và 9 loài đỉa. Các tác giả nhận định số lƣợng loài thực tế chắc chắn còn nhiều hơn nữa [29, 37]. Về Nhện (Arachnida) có công trình của Phạm Đình Sắc (2005) đã thống kê 275 loài, 144 giống thuộc 33 họ, trong đó có nhiều họ có đời sống gắn liền với cây thủy sinh nhƣ Tetragrathidae (12 loài, 4 giống), Pisauridae (3 loài, 3 giống) [27]. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu ĐDSH các nhóm ĐVKXS ở nước. Các kết quả nghiên cứu này không những cung cấp các dẫn liệu khoa học phục vụ nghiên cứu cơ bản mà còn sử dụng để đánh giá tổng hợp về tài nguyên thiên nhiên. Góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết của đời sống. Có thể kể đến các công trình của Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2004) đã đƣa đến dẫn liệu về thành phần ĐVKXS tại một số thủy vực thuộc VQG Phong Nha – Kẻ Bàng với 116 loài thuộc 93 họ và 9 lớp. Trong đó, Insecta là nhóm phong phú và đa dạng hơn cả, bao gồm 67 họ trong tổng số 93 họ đã gặp (chiếm 72,1%). Thành phần loài chủ yếu là ĐVĐ (chiếm 93,5% tổng số họ), ĐVĐ chiếm rất ít (chỉ chiếm 6,5% tổng số họ đã gặp) [26]. Công trình tiếp theo của Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự vào năm 2007 và 2008 với nghiên cứu về thành phần ĐVKXS ở nƣớc sông Đáy, sông Nhuệ (thuộc địa phận tỉnh Hà Nam) đã xác định đƣợc 150 loài thuộc 70 họ, 11 lớp, 6 ngành ĐVKXS (Rotatoria, Arthropoda, Mollusca, Annelida, Coelenterata, Tardigrada) [84]. Cũng trong năm 15 2006-2007, Nguyễn Quang Huy và cộng sự đã xác định 45 loài ĐVN và 74 loài ĐVĐ tại cùng cửa sông Bạch Đằng [80]. Kết quả nghiên cứu của Hoàng Ngọc Khắc (2010) về Giáp xác lớn và Thân mềm ở sông Hồng (từ Phú Thọ đến cửa Ba Lạt) đã các định 248 loài giáp xác lớn, thân mềm ở khu vực nghiên cứu, 38 loài cho khu vực miền Bắc và 26 loài lần đầu đƣợc ghi nhận ở Việt Nam. Tác giả cũng phân tích các đặc trƣng phân bố, biến động số lƣợng của đối tƣợng nghiên cứu bƣớc đầu đánh giá hiện trạng nguồn lợi sinh vật và những yếu tố tác động tới nguồn lợi của những loài này trong khu vực nghiên cứu [17]. Năm 2010 Nguyễn Quang Huy nghiên cứu về ĐDSH ĐVKXS ở sông Đáy, sông Nhuệ thuộc địa phận tỉnh Hà Nam và sự biến đổi của nó dƣới ảnh hƣởng của các hoạt động kinh tế, xã hội đã xác định 210 loài thuộc 7 ngành, 12 lớp, 29 bộ và 81 họ. Trong đó, chiếm ƣu thế là các nhóm Arthropoda (27,6%), Rotatoria (21%), Insecta (19,5%) và Gastropoda (11,9%); ĐVN có 93 loài và ĐVĐ là 117 loài. Khu hệ ĐVKXS thu đƣợc mang tính chất khu hệ vùng đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là các loài phân bố rộng, phổ biến ở các sông vùng đồng bằng Bắc Việt Nam. Tác giả đã đi sâu phân tích biến động thành phần loài ĐVKXS theo mùa, theo các tuyến thu mẫu; đánh giá hiện trạng ĐDSH ĐVKXS tại khu vực nghiên cứu thông qua các chỉ số đa dạng; Đánh giá mức độ ô nhiễm của sông thông qua hệ thống BMWP và ASPT đã bƣớc đầu xác định xu thế biến đổi ĐDSH ĐVKXS khu vực nghiên cứu dƣới ảnh hƣởng của các hoạt động kinh tế, xã hội [14]. Đối với khu vực miền Trung, Hoàng Thị Bình Minh và cộng sự (2011) đã khảo sát, đánh giá đa dạng và tài nguyên sinh vật các thủy vực nƣớc ngọt nội địa tỉnh Thừa Thiên Huế qua đó xác định 65 loài ĐVN và 51 loài ĐVĐ phân bố trong các thủy vực nƣớc ngọt khu vực nghiên cứu. Thành phần loài của các thủy vực có sự khác nhau theo mùa và theo các dạng thủy vực. Đối với ĐVN, thủy vực sông và hồ chứa có số lƣợng loài mùa khô cao hơn mùa mƣa, trong khi đó, hồ tự nhiên, ao và ruộng lại có số lƣợng loài mùa mƣa cao hơn mùa khô. Đối với ĐVĐ, thủy vực sông, hồ chứa và ao có số lƣợng loài mùa khô cao hơn mùa mƣa. Trong khi đó, hồ tự nhiên lại có xu hƣớng ngƣợc lại. Riêng ruộng có số lƣợng loài ĐVĐ không thay đổi theo mùa [20]. Kết quả nghiên cứu về ĐDSH ĐVKXS cùng cửa sông Cả và một số đầm nuôi tôm phụ cận ven biển Nghệ An, Hà Tĩnh của Nguyễn Huy Chiến (2007) đã 16 phát hiện 328 loài thuộc 211 giống, 126 họ, 46 bộ. Trong đó có 131 loài nƣớc ngọt, ĐVN: 70 loài (Copepoda và Cladocera có số loài nƣớc ngọt bằng nhau với 26 loài, Rotatoria: 22 loài, các nhóm khác: 6 loài), ĐVĐ có 61 loài (Gastropoda có số loài lớn nhất với 26 loài, Bivalvia: 12 loài, Polychaeta: 2 loài, Crustacea: 17 loài, các nhóm khác: 4 loài) [9]. Năm 2013, các nghiên cứu về thành phần loài động ĐVKXS ở nƣớc đƣợc thực hiện tại một số khu BTTN của tỉnh Thanh Hóa. Tại khu BTTN Pù Luông, Nguyễn Quốc Huy và cộng sự đã xác định đƣợc 33 loài thuộc 20 giống, 15 họ, 2 ngành. Trong đó, Trùng bánh xe (Rotatoria) có số loài nhiều nhất với 21 loài thuộc 10 giống, 7 họ; Giáp xác râu ngành (Cladocera) có 10 loài thuộc 9 giống, 6 họ; Giáp xác chân chèo (Copepoda) có 2 loài thuộc 2 giống, 2 họ [15]. Tại khu BTTN Pù Hu, Ngô Xuân Nam và cộng sự đã xác định 38 loài thuộc 22 giống, 16 họ của 2 ngành là ngành Trùng bánh xe (Rotatoria) và ngành Chân khớp (Arthropoda) [21]. Đối với khu vực Tây nguyên có nghiên cứu của Lê Hùng Anh và cộng sự (2013) về đa dạng ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực Tây Nguyên và các loài có nguy cơ bị đe dọa. Kết quả cho thấy ở Tây Nguyên có 60 loài ĐVĐ, bao gồm 17 loài giáp xác và 43 loài trai ốc, trong đó đáng chú ý có 5 loài đƣợc coi là đặc hữu ở Việt Nam. Các tác giả cũng xác định nguy cơ đe dọa làm suy giảm quần thể và thu hẹp vùng phân bố thủy sinh vật [4]. Tại Nam bộ, Hồ Thanh Hải và cộng sự năm 2005 đã xác định đƣợc 70 loài ĐVN thuộc 22 họ của các nhóm Trùng bánh xe, Chân chèo, Râu ngành, Có bao, Chân lá, Chân đều ở các thủy vực trong vùng đầm lầy than bùn U Minh Thƣợng – Vồ Dơi. Ngoài ra còn thấy 9 – 10 nhóm ĐVN khác chủ yếu có nguồn gốc nƣớc lợ ven biển [13]. Cũng trong năm 2005, Hồ Thanh Hải và Đặng Ngọc Thanh nghiên cứu các thủy vực nƣớc ngọt nội địa Đồng bằng sông Cửu Long xác định đƣợc 98 loài giáp xác, trong đó nhóm Cladocera: 30 loài, tôm cua nƣớc ngọt: 25 loài, 65 loài trai ốc, 24 loại giun nhiều tơ, 16 loài giun giun ít tơ, 83 loài trùng bánh xe, 27 họ ấu trùng côn trùng ở nƣớc. Các tác giả đã nhận xét: Khu hệ ĐVKXS ở đây mang nhiều sắc thái của vùng Ấn Độ - Mã Lai. Do sự sai khác về chế độ khí hậu, chế độ thủy văn giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam đã tạo nên đặc trƣng phân bố Bắc Nam của khu hệ thủy sinh vật các thủy vực nội địa Việt Nam, đặc trƣng này thể hiện rõ ở các nhóm động vật giáp xác và thân mềm [12]. 17 Kết quả nghiên cứu của Ngô Xuân Nam (2014) về đa dạng sinh học ĐVKXS ở một số thủy vực thuộc khu Bảo tồn Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, đã xác định 244 loài ĐVKXS ở nƣớc thuộc 177 giống, 97 họ, 24 bộ, 8 lớp, 5 ngành. Arthropoda là ngành có số loài nhiều nhất với 185 loài (chiếm 75,8%), tiếp đến là Rotatoria: 38 loài, Mollusca: 15 loài, hai ngành có số loài ít nhất là Annelida: 5 loài và Nemathelminthes: 1 loài. ĐVN có 66 loài thuộc 42 giống, 20 họ, 5 bộ, 2 lớp, 2 ngành, chiếm 27% tổng số loài; ĐVĐ có 178 loài thuộc 135 giống, 77 họ, 19 bộ, 7 lớp, 4 ngành, chiếm 73% tổng số loài. Tác giả cũng kết luận thành phần loài ĐVKXS ở thủy vực nƣớc chảy và thủy vực nƣớc đứng có khác biệt rõ rệt, đối với ĐVN thì số lƣợng loài ở thủy vực nƣớc chảy ít hơn nƣớc đứng, đối với nhóm ĐVĐ thì số lƣợng loài ở thủy vực nƣớc chảy lại phong phú hơn thủy vực nƣớc đứng [22]. Nghiên cứu sử dụng sinh vật chỉ thị để đánh giá chất lượng nước cũng là một hƣớng nghiên cứu mới đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm. Đây là một trong những nghiên cứu ứng dụng ĐVKXS vào thực tiễn, dễ sử dụng và mang lại nhiều lợi ích về kinh tế. Công trình khoa học về quan trắc và đánh giá chất lƣợng nƣớc ngọt bằng ĐVKXS cỡ lớn ở Việt Nam của Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) với quy mô đƣợc tiến hành ở cả hai miền đã đƣa ra một hệ thống tính điểm phù hợp với điều kiện Việt Nam - BMWPVIET (dựa trên hệ thống tính điểm của Anh). Ở phía Bắc, quy trình quan trắc bằng phƣơng pháp sinh học này đƣợc tiến hành với suối bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo chảy xuống sông Cà Lồ và đổ ra sông Cầu, còn phía Nam thực hiện ở các thủy vực thuộc Thành phố Đà Lạt, suối Đac Ta Dun đổ ra sông Đa Nhim. Các tác giả đã công bố một quy trình quan trắc và đánh giá chất lƣợng nƣớc ngọt bằng việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm chỉ thị [11, 14]. Các nghiên cứu theo hƣớng này có thể kể đến: Đặng Thị Thanh Huyền (2007) [16] nghiên cứu một số thủy vực thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội; Nguyễn Quang Huy (2010) [14] về chất lƣợng nƣớc sông Đáy và sông Nhuệ đoạn qua địa bàn tỉnh Hà Nam; Lê Đức Thọ (2011) [41] nghiên cứu sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm sinh vật chỉ thị đánh giá chất lƣợng nƣớc sông Nhuệ. Từ kết quả nghiên cứu, nhìn chung các khu vực trên đều đã và đang ô nhiễm ở mức độ bẩn vừa đến rất bẩn. Nghiên cứu của Hoàng Đình Trung và cộng sự (2011) về đa dạng thành phần loài ĐVKXS cỡ lớn và chất lƣợng nƣớc mặt ở sông Hƣơng đã xác định 37 loài trong 25 họ ĐVKXS cỡ lớn, trong đó, côn trùng nƣớc chiếm ƣu thế, phần lớn các 18 họ này là các nhóm chỉ thị cho vùng nƣớc sạch, có điểm số BMWP từ 5-10 điểm. Từ các chỉ số ASPT theo hệ thống tính điểm BMWPVIET cho thấy chất lƣợng nƣớc sông Hƣơng ở hạ lƣu bị ô nhiễm hữu cơ mức khá lớn. Hầu hết các chỉ số ASPT thu đƣợc đều thuộc mức bẩn vừa (α-mesosaprobe). Điều này cũng phù hợp với kết quả phân tích hóa học chất lƣợng môi trƣờng nƣớc [42]. Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên quần xã ĐVKXS ở nước cũng là hƣớng nghiên cứu đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm. Theo hƣớng nghiên cứu này, Đặng Ngọc Thanh (1980) đã nghiên cứu ảnh hƣởng của nƣớc thải tại thành phố Nam Định đối với thủy sinh vật trong đầm nuôi cá. Kết quả cho thấy, thành phần loài nhóm Rotatoria chiếm ƣu thế cả về số lƣợng loài và thành phần ĐVN. Về ĐVĐ, trong các đầm có nƣớc thải chỉ thấy chủ yếu là giun ít tơ và ấu trùng Chironomidae (Insecta: Diptera), gồm các loài ƣa sống trong môi trƣờng nhiễm bẩn, giàu chất hữu cơ [24]. Năm 1985, Nguyễn Xuân Quýnh nghiên cứu về sông Tô Lịch đã kết luận tình trạng ô nhiễm của sông theo các đoạn khác nhau. Năm 1995, tác giả cũng đã xếp loại một số thủy vực Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa [24, 25]. Các nghiên cứu khác có thể kể đến nhƣ: Jung và cộng sự (2007) nghiên cứu về thành phần loài và phân bố theo độ cao của quần xã côn trùng nƣớc ở suối tại Sapa, Lào Cai [70]; Nguyễn Huy Chiến (2007) nghiên cứu mối quan hệ giữa nồng độ muối và độ đục với khu hệ ĐVKXS ở vùng cửa sông Cả và các đầm nuôi tôm phụ cận [9]; Phan Thị Anh Đào và cộng sự (2006) về thành phần thủy sinh vật ở một số nhánh sông trong lƣu vực trung lƣu sông Cầu [10]; Nghiên cứu của Võ Văn Phú và cộng sự (2009) về ĐVKXS ở hồ Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam [23]; Hồ Thanh Hải (2006) về thành phần ĐVKXS ở nƣớc hệ thống sông Vu Gia, sông Bung, sông Thanh, sông Cái (Quảng Nam)[1]. Tóm lại trong nhiều năm qua, rất nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu về ĐVKXS ở nƣớc tại Việt Nam, không những nghiên cứu về phân loại học mà còn nhiều nghiên cứu ứng dụng, từng bƣớc đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học công nghệ, góp phần bảo tồn, phát triển bền vững ĐDSH và kinh tế xã hội. Quảng Nam là tỉnh thuộc khu vực duyên hải Nam Trung bộ, có địa hình đa dạng gồm đồi núi, vùng bán sơn địa và đồng bằng ven biển. Hiện nay ở tỉnh đã thành lập đƣợc 03 khu bảo tồn: Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh (2000), Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm (2005), Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Sao la (tháng 02/2011) và có 2 khu rừng đặc dụng là Tây Quế Sơn và Ngọc Linh. Đã có nhiều 19 nghiên cứu, khảo sát ĐDSH đƣợc thực hiện trên địa bàn tỉnh. Đến năm 2010, hiện trạng ĐDSH đã đƣợc nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đƣợc thống kê trong “Kế hoạch hành động ĐDSH tỉnh Quảng Nam đến năm 2015 và định hƣớng đến năm 2020” [45]. Hệ sinh thái ĐNN cũng đƣợc quan tâm nghiên cứu với các đề tài “Điều tra, đánh giá tài nguyên sinh vật khu vực hồ Phú Ninh phục vụ xây dựng khu bảo tồn sinh vật nƣớc ngọt” của Võ Văn Phú và cộng sự năm 2009; “Khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp bảo vệ phục hồi các HST đất ngập nƣớc ven biển Quảng Nam” do Phạm Viết Tích và cộng sự thực hiện năm 2009. Qua đó, xác định khu vực ĐNN ven biển tỉnh Quảng Nam có 128 loài cá, 20 loài thân mềm và 6 loài giáp xác [45]. Ngoài ra, ĐDSH tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm cũng đƣợc điều tra làm rõ. Theo kết quả điều tra, khảo sát của Viện Hải dƣợng học Nha Trang cho thấy, tại đây có 282 loài San hô các loại, 47 loài Rong biển, 200 loài cá, 66 loài thân mềm, 16 loài Da gai, 4 loài tôm và 1 loài cua. Các loài tập trung chủ yếu ở khu vực rạn san hô ở phía bắc Hòn Khô, Hòn Lá, Hòn Tai và Vũng Cây Chanh – Tây Bắc Hòn Mồ [45]. Có thể thấy, Quảng Nam có hệ động thực vật đa dạng, phong phú. Các nhóm sinh vật trên cạn nhìn chung đã đƣợc nghiên cứu nhiều, từ đó đƣa ra đƣợc dẫn liệu về các nhóm này. Trong khi đó, HST dƣới nƣớc chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ khi chỉ có các dẫn liệu thành phần loài tại các khu vực ven biển và đảo mà chƣa có nhiều nghiên cứu về HST nƣớc ngọt nội địa. 1.3. ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ MÔI TRƢỜNG ĐẾN SỰ SINH TRƢỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐVKXS Yếu tố môi trƣờng là các yếu tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của sinh vật. Các yếu tố này có thể là vô sinh hoặc hữu sinh. Một số yếu tố môi trƣờng ảnh hƣởng đến nhóm ĐVKXS ở nƣớc có thể kể đến là nồng độ oxy hòa tan (DO), độ pH của môi trƣờng, nồng độ các chất tan trong nƣớc, kích thƣớc vật chất nền đáy, nhiệt độ môi trƣờng, tốc độ dòng chảy... Theo nghiên cứu của Hunt (2003) [67] các yếu tố có ảnh hƣởng đến sự sinh trƣởng và phát triển của ĐVKXS là độ cao, nồng độ oxy hòa tan (DO), kích thƣớc vật chất tạo nền đáy, độ pH của môi trƣờng. + Độ cao: tùy thuộc vào thủy vực ở suối đầu nguồn hay vùng cửa sông mà có các nhóm ĐVKXS thích nghi khác nhau. Vị trí thủy vực sẽ ảnh hƣởng tới các 20 yếu tố khác nhƣ nhiệt độ nƣớc, thành phần cơ học đáy thủy vực, thành phần thực vật thủy sinh.... do tính chất cuốn trôi của dòng chảy. Thủy vực thƣợng lƣu sẽ có nền đáy đá, vùng trung lƣu có nền đáy cát bùn, vùng hạ lƣu có nền bùn cát và bùn [37]. + DO: oxy trong nƣớc có nguồn gốc từ không khí, từ hoạt động quang hợp của thực vật trong tầng quang hợp. Ngoài ra, oxy ở tầng đáy đƣợc chuyển từ oxit Mangan (Mn) khó hòa tan trong nƣớc đƣợc lắng xuống tầng đáy. Nồng độ oxy trong nƣớc biến đổi theo mùa, độ sâu, các quá trình chuyển hóa vật chất trong nƣớc, đặc tính chuyển động của các khối nƣớc....[37]. + Kích thƣớc vật chất nền đáy: nền đáy của thủy vực là điều kiện tồn tại và phát triển của các sinh vật đáy, đồng thời cũng cung cấp nguồn thức ăn và nơi cƣ trú của nhiều sinh vật trong tầng nƣớc, do đó đặc tính của nền đáy có ý nghĩa quyết định với đời sống thủy vực. Đặc tính nền đáy phụ thuộc vào thành phần cơ học của nền đáy và các chất lắng đọng. Trong đó, thành phần cơ học của nền đáy sẽ do đặc tính địa chất, thổ nhƣỡng của khu vực quyế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf01050003355_7121_2002655.pdf
Tài liệu liên quan