Luận văn Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I 5

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÃN HIỆU 5

1.1. Khái niệm nhãn hiệu 5

1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu theo quy định của Hiệp định TRIPs 5

1.1.2. Khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Liên minh Châu Âu 7

1.1.3. Khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Hoa Kỳ 9

1.1.4. Khái niệm nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam 11

1.2. Các loại nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam 16

1.2.1. Nhãn hiệu hàng hóa (trademarks) 16

1.2.2. Nhãn hiệu dịch vụ (Service marks) 17

1.2.3. Nhãn hiệu tập thể (Collective marks) 18

1.2.4. Nhãn hiệu chứng nhận (Certification marks) 19

1.2.5. Nhãn hiệu liên kết 20

1.2.6. Nhãn hiệu nổi tiếng 21

1.3. Phân biệt nhãn hiệu với một số đối tượng sở hữu công nghiệp khác 23

1.3.1. Phân biệt nhãn hiệu với tên thương mại (Trade names) 23

1.3.2. Phân biệt nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý (Geographical Indications) 24

1.3.3. Phân biệt nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp (Industrical Designs) 25

CHƯƠNG II 29

ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM 29

2.1. Điều kiện thứ nhất: Là dấu hiệu nhìn thấy được 29

2.1.1. Dấu hiệu là chữ cái, chữ số 30

2.1.2. Dấu hiệu từ ngữ 31

2.1.3. Dấu hiệu hình vẽ 32

2.1.4. Dấu hiệu hình ảnh, hình ảnh ba chiều 33

2.1.5. Dấu hiệu kết hợp cả dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc 35

2.2. Điều kiện thứ hai: Khả năng phân biệt của nhãn hiệu 37

2.2.1. Nhãn hiệu phải có khả năng tự phân biệt 39

2.2.2. Nhãn hiệu phải không trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với một trong các đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của người khác 45

CHƯƠNG III 51

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ 51

ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 51

KẾT LUẬN 57

 

 

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5309 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu có “dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ”. Ngược lại, theo khoản 3 Điều 78 Luật SHTT thì tên thương mại chỉ được coi là có khả năng phân biệt nếu “không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác”. Một nhãn hiệu không bắt buộc phải đọc, phải phát âm được, còn tên thương mại yếu tố này là bắt buộc. Đối với tên thương mại, yếu tố màu sắc cũng không được đặt ra. Hơn nữa về cấu tạo, tên thương mại bao giờ cũng gồm phần mô tả (chỉ loại hình tổ chức hoặc hình thức tồn tại của chủ thể kinh doanh hoặc xuất xứ địa lý) và thành phần phân biệt (chỉ tên riêng của chủ thể kinh doanh), còn nhãn hiệu không có phần mô tả mà chỉ có tính phân biệt [7, tr 58]. Ví dụ: Công ty cổ phần chế biến dịch vụ thủy sản Cát Hải. Địa chỉ: Thị trấn Cát Hải, Huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa: “CAT HAI”. Vì vậy, tên thương mại và nhãn hiệu là hai khái niệm khác nhau nhưng thành phần phân biệt của tên thương mại có thể được sử dụng làm nhãn hiệu, nếu nó bảo đảm các yêu cầu của nhãn hiệu. Một doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều loại hàng hóa hoặc kinh doanh nhiều loại dịch vụ khác nhau; do đó doanh nghiệp đó có thể có một hoặc nhiều nhãn hiệu. Tuy nhiên, một doanh nghiệp chỉ có một tên thương mại. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam thường lấy tên thương mại để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn hóa mỹ phẩm Mỹ Hảo sử dụng thành phần phân biệt trong tên thương mại là “Mỹ Hảo” để đăng ký nhãn hiệu cho các sản phẩm của mình như: nước rửa chén Mỹ Hảo, nước giặt đậm đặc Mỹ Hảo. 1.3.2. Phân biệt nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý (Geographical Indications) Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đều là đối tượng SHCN được bảo hộ và đều được dùng để chỉ dẫn nguồn gốc sản phẩm. Khoản 22 Điều 4 Luật SHTT 2005 quy định: “Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”. Như vậy, chỉ dẫn địa lý là để thông tin về nguồn gốc, xuất xứ địa lý của sản phẩm, do đó nó cũng có khả năng phân biệt nên việc phân biệt nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý là cần thiết. Nhãn hiệu giúp người tiêu dùng xác định doanh nghiệp nào cung cấp hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu hàng hoá trên thị trường. Trong khi đó, chỉ dẫn địa lý giúp người tiêu dùng xác định một khu vực địa lí cụ thể mà trên đó một hoặc một số doanh nghiệp đóng trụ sở và các doanh nghiệp này sản xuất hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý đó và các sản phẩm của họ có chất lượng đặc thù. Chỉ dẫn địa lý có thể là các dấu hiệu từ ngữ, tuy nhiên khác với nhãn hiệu có thể là những từ ngữ bất kỳ, kể cả các từ không có nghĩa, dấu hiệu từ ngữ chỉ có thể sử dụng làm chỉ dẫn địa lý nếu nó chỉ dẫn đến một khu vực địa lý nhất định, ví dụ: nước mắm Phú Quốc, gạo tám xoan Hải Hậu. Chỉ dẫn địa lý cũng có thể là các dấu hiệu hình ảnh hoặc biểu tượng mô tả một khu vực địa lý. Chúng gián tiếp thông tin về nguồn gốc của sản phẩm, có khả năng làm người tiêu dùng liên tưởng đến một khu vực địa lý nhất định, mà khu vực đó lại có mối liên hệ với những đặc điểm riêng biệt của hàng hóa. Tuy nhiên, những hình ảnh hoặc biểu tượng này phải thực sự nổi tiếng và được biết đến rộng rãi thì mới bảo đảm được chức năng chỉ dẫn về nguồn gốc sản phẩm [2, tr 109, 110]. Một nhãn hiệu có thể hàm chứa chỉ dẫn địa lý hoặc một chỉ dẫn địa lý được bảo hộ như một loại nhãn hiệu. Khoản 3 Điều 80 Luật SHTT quy định :“không bảo hộ những chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang được bảo hộ nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện sẽ gây nhầm lẫn về nguồn gốc sản phẩm”. Đối với nhãn hiệu, người chủ sở hữu nhãn hiệu được độc quyền sử dụng, có quyền định đoạt đối với nhãn hiệu và nghiêm cấm người khác sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu mà mình đã đăng ký bảo hộ. Còn chỉ dẫn địa lý là đối tượng không được độc quyền sử dụng, vì vậy người sử dụng chỉ dẫn địa lý không được quyền chiếm hữu, định đoạt mà chỉ có quyền sử dụng.. 1.3.3. Phân biệt nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp (Industrical Designs) Là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, định nghĩa kiểu dáng công nghiệp được quy định tại Khoản 13 Điều 4 Luật SHTT 2005: “Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc kết hợp các yếu tố này”. Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện: có tính mới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp (Điều 63 Luật SHTT). Như vậy, kiểu dáng công nghiệp là những hoạt động sáng tạo nhằm tạo ra một hình dáng trang trí bên ngoài cho những hàng hóa được sản xuất hàng loạt, đảm bảo được điều kiện là hàng hóa đó phải hấp dẫn người tiêu dùng về thị giác và phải thể hiện một cách có hiệu quả chức năng kỹ thuật đã định trước. Trong khi đó, nhãn hiệu là các dấu hiệu nhìn thấy được và có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Kiểu dáng công nghiệp thuộc nhóm các đối tượng sở hữu công nghiệp phải đáp ứng điều kiện nhất định về tính sáng tạo, còn nhãn hiệu thuộc nhóm các đối tượng sở hữu công nghiệp có tính thương mại. Tuy nhiên, cũng giống nhãn hiệu, hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó cũng dùng để thể hiện hình dáng bên ngoài của kiểu dáng công nghiệp. Những kiểu dáng chỉ là sự kết hợp đơn thuần các đặc điểm tạo dáng đã biết hoặc các hình học đơn giản (hình vuông, hình tròn, elip…) hoặc sao chép hình dáng các sản phẩm, công trình đã nổi tiếng hoặc được biết đến rộng rãi ở Việt Nam và thế giới thì không được bảo hộ. Có thể nhận thấy, giữa nhãn hiệu và một số đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và kiểu dáng công nghiệp có nhiều điểm tương đồng, do đó nếu không có sự phân biệt rõ ràng dễ dẫn đến tình trạng nhầm lẫn hàng hóa, dịch vụ giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do có sự tương đồng đó mà các chủ thể kinh doanh có thể quyết định lựa chọn một dấu hiệu để đăng ký làm nhãn hiệu hoặc kiểu dáng công nghiệp hoặc tên thương mại, tùy vào điều kiện kinh doanh của chủ thể đó. Ngoài ra, tại Việt Nam, bên cạnh khái niệm nhãn hiệu, trong nhiều năm trở lại đây, thuật ngữ “thương hiệu” được sử dụng rộng rãi và phổ biến. Nếu như nhãn hiệu đóng vai trò phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác nhau thì thương hiệu tạo ra ấn tượng về uy tín sản phẩm, dịch vụ, về hình ảnh riêng, bản sắc riêng hoặc dấu ấn riêng trong trí nhớ người tiêu dùng, gắn liền với chất lượng hàng hoá và phong cách kinh doanh, phục vụ của doanh nghiệp. Bởi vậy nhà sản xuất, kinh doanh có thể lựa chọn nhiều yếu tố khác nhau làm thương hiệu cho mình trên cơ sở xem xét về thuộc tính của sản phẩm, thị hiếu và hành vi tiêu dùng của những khách hàng mục tiêu và các yếu tố khác như pháp luật, văn hoá, tín ngưỡng… Những yếu tố được chọn làm thương hiệu có thể được gọi là yếu tố thương hiệu, ví dụ: tên gọi, logo, biểu tượng, màu sắc, kiểu dáng thiết kế, bao bì… Chính sách bảo hộ thương hiệu hoặc phát triển thương hiệu của một doanh nghiệp gắn với chính sách bảo hộ nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý. Về nội hàm, thương hiệu là một khái niệm rộng hơn nhãn hiệu bởi nó hàm chứa một số chỉ dẫn thương mại khác ngoài nhãn hiệu. Xét dưới góc độ pháp lý, thương hiệu không được bảo hộ như một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ nhưng nội hàm của nó bao gồm các thành tố như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý hay tên thương mại mà các thành tố này lại được bảo hộ với tư cách là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp [14, tr 56]. Vì vậy, thuật ngữ thương hiệu không phải là thuật ngữ pháp lý. Tuy nhiên, giữa nhãn hiệu và thương hiệu cũng có mối quan hệ với nhau, chứ không phải là hoàn toàn độc lập với nhau. Mối quan hệ này được thể hiện ở chỗ khi thương hiệu được gắn với sản phẩm và đáp ứng các điều kiện bảo hộ, được đăng ký bảo hộ thì thương hiệu trở thành nhãn hiệu hàng hóa. Trong trường hợp này thương hiệu được pháp luật bảo hộ dưới dạng cụ thể của đối tượng quyền SHCN là nhãn hiệu. Ngoài ra, cũng cần phân biệt khái niệm nhãn hiệu và nhãn hàng hóa. Nếu nhãn hiệu là một trong những đối tượng được pháp luật về sở hữu trí tuệ bảo hộ thì nhãn hàng hóa lại là một khái niệm sử dụng trong thương mại và được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại. Theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/08/2006 của Chính phủ về Nhãn hàng hóa thì:“Nhãn hàng hóa là bản viết, bản in, bản vẽ, bản chụp của chữ, hình vẽ, hình ảnh được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực tiếp trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của hàng hóa hoặc trên các chất liệu khác được gắn trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của hàng hóa”. Chức năng chính của nhãn hàng hóa là thông tin, trong đó ghi rõ các nội dung bắt buộc nhằm cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cơ bản để nhận biết hàng hóa, làm căn cứ để người mua quyết định việc lựa chọn và sử dụng hàng hóa. Nhãn hàng hóa phải được trình bày theo những yêu cầu bắt buộc như chữ số, chữ cái, hình ảnh và phải ghi rõ ràng, đúng bản chất của hàng hóa. Còn nhãn hiệu lại có chức năng chính là phân biệt. Do đó, những dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu phải có tính độc đáo, riêng biệt, có khả năng phân biệt cao, dễ nhận biết. Những dấu hiệu này không có nội dung mô tả hàng hóa, chỉ dẫn công dụng hay xuất xứ hàng hóa như nhãn hàng hóa. Các thông tin của nhãn hàng hóa không được bảo hộ riêng rẽ như nhãn hiệu. Hơn nữa, một nhãn hiệu có thể được sử dụng cho nhiều loại hàng hóa khác nhau của cùng một chủ sở hữu, nhưng đối với nhãn hàng hóa thì chỉ sử dụng cho một loại hàng hóa cụ thể duy nhất [7, tr 55]. Ngay cả việc hàng hóa mang nhãn hiệu hay không là tùy thuộc vào ý chí của nhà sản xuất kinh doanh chứ không bắt buộc về phía cơ quan quản lý Nhà nước, nhưng luôn bắt buộc phải có nhãn hàng hóa theo đúng tiêu chuẩn Nhà nước quy định. Tóm lại, việc xem xét và phân biệt nhãn hiệu với một số đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp nêu trên hay thương hiệu và nhãn hàng hóa có ý nghĩa rất quan trọng, khi mà trong thực tế việc nhầm lẫn các đối tượng này với nhau xảy ra rất phổ biến. Hiện nay thị trường hàng hóa, dịch vụ rất phong phú nên việc hiểu đúng bản chất của nhãn hiệu là cần thiết, giúp cho người tiêu dùng có thể dễ dàng phân biệt và lựa chọn được các hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu của mình. CHƯƠNG II ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu là các yêu cầu cụ thể đối với đối tượng của sở hữu công nghiệp để đối tượng này nhận được sự bảo hộ về mặt pháp lý, do vậy điều kiện bảo hộ được xác định rõ ràng trong luật. Cụ thể điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu được quy định tại Mục 4 Chương VII Phần thứ ba Luật SHTT 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Điều 72 Luật SHTT 2005, nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện: (1) là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc và (2) có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. 2.1. Điều kiện thứ nhất: Là dấu hiệu nhìn thấy được Tại Khoản 2 Điều 15 mục 2 Hiệp định TRIPs quy định như sau: “Các thành viên có thể quy định rằng để được đăng kí là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được”. Như vậy, điều kiện của nhãn hiệu: “dấu hiệu nhìn thấy được” được Hiệp định TRIPs quy định một cách rất linh hoạt, không cứng nhắc. Các nước thành viên có thể quy định trong pháp luật quốc gia rằng đây là một điều kiện bắt buộc mà một dấu hiệu phải đáp ứng được hoặc không quy định. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì không quy định về điều kiện “nhìn thấy được” này. Trong đó, Luật SHTT Việt Nam 2005 thì lại quy định dấu hiệu “nhìn thấy được” là một trong các điều kiện để nhãn hiệu đuợc bảo hộ. Sở dĩ có sự quy định khác biệt như vậy là do trình độ phát triển về kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật của mỗi nước khác nhau, chi phối đến khả năng bảo hộ của từng quốc gia đối với các dấu hiệu được đăng kí bảo hộ nhãn hiệu. Đối với Việt Nam - một quốc gia đang phát triển, việc bảo hộ các dấu hiệu “không nhìn thấy được” vượt quá khả năng của chúng ta trong thời điểm hiện tại, khi mà điều kiện về cơ sở vật chất và khoa học kỹ thuật chưa cho phép. Vì thế Luật SHTT 2005 đã vận dụng rất linh hoạt Hiệp định TRIPs, khi quy định dấu hiệu trước tiên để nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam phải thoả mãn, đó là nhãn hiệu phải “nhìn thấy được”. Quy định này rất hợp lí trong thời điểm hiện nay, vì nó vừa không trái với TRIPs vừa phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Dấu hiệu nhìn thấy được có nghĩa là con người chỉ có thể nhận thức được, nắm bắt được về chúng qua khả năng thị giác của con người. Người tiêu dùng qua quan sát nhìn ngắm để phát hiện ra loại hàng hóa, dịch vụ có gắn với nhãn hiệu đó để lựa chọn [1, tr 126]. Ở Việt Nam, các dấu hiệu liên quan đến đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu được quy định cụ thể tại Luật SHTT, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật SHTT. Theo quy định tại điểm 39.2 Thông tư của Bộ khoa học và Công nghệ số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp (sau đây gọi là Thông tư 01/2007) thì dấu hiệu nhìn thấy được được thể hiện dưới các dạng chữ cái, chữ số, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc một số màu sắc nhất định. 2.1.1. Dấu hiệu là chữ cái, chữ số Theo từ điển Tiếng Việt, chữ cái được hiểu là dấu hiệu dùng để ghi âm vị trong chữ viết ghi âm, còn chữ số là ký hiệu cơ bản dùng để viết các số. Chữ cái nói đến ở đây là chữ cái Latinh được sử dụng phổ biến ở Việt Nam và thế giới. Đây là những dấu hiệu được sử dụng phổ biến để đăng ký nhãn hiệu. Bởi sự dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và điều quan trọng là dấu hiệu thông dụng, quen thuộc không chỉ đối với người tiêu dùng mà còn đối với các thương nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Thực tế hiện nay cho thấy đa số các nhãn hiệu được bảo hộ dưới hình thức chữ số, chữ cái hoặc sự kết hợp giữa chúng. Tập hợp các chữ cái, chữ số có thể ghép lại thành từ hoặc ngữ có nghĩa hoặc không có nghĩa. Nhãn hiệu chữ có thể chỉ bao gồm chữ viết (như Omo, Trung Nguyên), có thể bao gồm cả chữ và số (Phở 24). 2.1.2. Dấu hiệu từ ngữ Theo từ điển Tiếng Việt thì từ ngữ phải “bao gồm tập hợp các chữ cái có thể ghép lại thành từ và ngữ có nghĩa hoàn chỉnh và nói lên ý nghĩa nhất định”. Thông thường, các chuyên gia thường sử dụng bốn cách đặt tên nhãn hiệu: Thứ nhất là sử dụng từ tự tạo, đó là từ được kết hợp từ các kí tự thành một từ mới phát âm được và không có trong từ điển, ví dụ: NOKIA, SAMSUNG, Vitan. Mặc dù đều là những từ ngữ không có nghĩa nhưng chúng lại được đánh giá là có tính phân biệt cao nên đáp ứng được yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu. Thứ hai là sử dụng từ thông dụng, là những từ hiện dùng và thực sự có ý nghĩa trong một ngôn ngữ nào đó, như: Duy Lợi, Rạng Đông. Thứ ba là sử dụng từ ghép tức là sử dụng các từ hiện dùng và các âm tiết dễ nhận biết, như Thinkpad. Thứ tư là sử dụng các từ viết tắt là những từ thông thường được tạo thành từ chữ cái đầu tiên của tên công ty, từ viết tắt có thể phát âm được và mang một thông điệp nào đó như: AIA, IBM, LG. Ở đây, cũng cần có sự phân biệt rõ ràng giữa nhãn hiệu và tên thương mại được viết tắt (tên giao dịch). Như đã phân tích tại Chương I mục 1.3.1, nếu nhãn hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ do các chủ thể khác nhau cung cấp, thì tên thương mại để phân biệt, cá thể hóa chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực, khu vực kinh doanh, và tên thương mại được viết tắt cũng chỉ nhằm mục đích tạo thuận lợi cho việc giao dịch trong kinh doanh. Tên giao dịch mà doanh nghiệp thường sử dụng trong hoạt động thương mại bắt buộc vẫn phải có thành phần phân biệt. Phần phân biệt trong tên thương mại có thể được sử dụng làm nhãn hiệu nếu nó đáp ứng được điều kiện bảo hộ nhãn hiệu. Ví dụ: Công ty Cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk, có tên giao dịch là Công ty Vinamilk, và công ty cũng đã đăng ký VINAMILK là nhãn hiệu của mình (số bằng: 4-0013675-000, ngày cấp bằng: 10/10/1994). Như vậy, khi xác định từ ngữ là dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu không nhất thiết phải bó hẹp trong khái niệm “từ ngữ” trong từ điển Tiếng Việt đã chỉ ra, mà chỉ cần là các chữ cái, chuỗi chữ cái có thể phát âm được và đạt được khả năng phân biệt thì nhãn hiệu đó vẫn được bảo hộ. Dấu hiệu từ ngữ được dùng làm nhãn hiệu bao gồm tên công ty, tên địa danh, họ, tên, khẩu hiệu hay các từ bất kỳ hoặc chuỗi từ bất kỳ do chủ nhãn hiệu sáng tạo ra. Tên gọi, tên công ty là một dấu hiệu có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu. Đây chính là sự kết hợp của các chữ cái được ghép lại với nhau tạo thành từ có nghĩa hoàn chỉnh. Tuy nhiên, tên gọi, tên công ty chỉ được sử dụng làm nhãn hiệu, khi bản thân nó đạt được tính phân biệt giữa tên gọi này với tên gọi khác khi gắn liền với hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Ngoài ra, tên địa danh và tên người cũng có xu hướng được sử dụng nhiều làm nhãn hiệu. Tuy nhiên, khi sử dụng hai dấu hiệu này làm nhãn hiệu đều có những điểm bất cập như tên địa danh có nguy cơ khó phân biệt với việc bảo vệ tên gọi xuất xứ hàng hoá hay chỉ dẫn địa lý vì nó chỉ đến những khu vực địa lý mà người tiêu dùng thường nghĩ rằng đó là nơi xuất xứ gốc của sản phẩm, ví dụ như sản phẩm Kẹo dừa Bến Tre hay Bia Hà Nội. Trong khi đó, tên người thì rất dễ gây nhầm lẫn cho khách hàng, bởi có rất nhiều người tên giống nhau, vì vậy không phải chủ hàng hoá, dịch vụ nào sử dụng tên người để đăng kí nhãn hiệu cũng được chấp nhận. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã thể hiện sự tiến bộ khi không công nhận dấu hiệu này. 2.1.3. Dấu hiệu hình vẽ Theo từ điển Tiếng Việt, hình vẽ được hiểu là tập hợp các đường nét, mảng màu theo những nguyên tắc hội họa nhất định trên mặt phẳng, phản ánh hình dạng một vật thể nào đó trong tự nhiên. Đây là loại dấu hiệu bao gồm các hình vẽ trang trí, các nét vẽ, biểu tượng hoặc hình họa hai chiều của hàng hóa hoặc bao bì hàng hóa. Các hình vẽ, biểu tượng có tính phân biệt đều có khả năng đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, bản thân dấu hiệu phải được trình bày một cách đặc biệt, ấn tượng tạo ra được sự phân biệt và gây ấn tượng đối với người tiêu dùng. Ví dụ: HONDA (số bằng: 4-0020130-000, số bằng: 26/02/1996), nhãn hiệu POND’s và hình (số bằng: 4-0118146-000, ngày cấp bằng: 20/01/2009) [26]. 2.1.4. Dấu hiệu hình ảnh, hình ảnh ba chiều Theo từ điển Tiếng Việt, hình ảnh là hình người, vật, cảnh tượng thu được bằng khí cụ quang học (như máy ảnh) hoặc để lại ấn tượng nhất định và tái hiện được trong trí nhớ. Dấu hiệu hình ảnh là cả dấu hiệu hai chiều và ba chiều. Dấu hiệu hình ảnh ba chiều là loại dấu hiệu hình khối có khả năng được sử dụng làm nhãn hiệu, dạng điển hình nhất của dấu hiệu này là hình dáng hàng hóa hoặc hình dáng bao bì. Việc đăng ký nhãn hiệu là chính hình dáng hàng hóa hay bao bì sản phẩm rất phổ biến vì khả năng phân biệt đạt được cao, như nhãn hiệu Vinamilk sữa chua và hình (số bằng: 4-0066998-000, ngày cấp bằng: 03/10/2005), nhãn hiệu Vina Acecook Phở Gà Xưa & Nay Phở Ăn Liền và hình (số bằng: 4-0096825-000, ngày cấp bằng: 03/03/2008) [26]. Dấu hiệu hình ảnh có tác dụng thu hút sự chú ý của người tiêu dùng thông qua thị giác, các dấu hiệu hình ảnh, đặc biệt là hình ảnh ba chiều có xu hướng được ưa chuộng vì chúng thường tạo được ấn tượng mạnh mẽ, có sức lôi cuốn và thu hút, dễ tác động và in sâu vào tâm trí của người tiêu dùng vì chúng có khả năng phân biệt rất cao như: ngôi sao ba cánh nổi nằm trong vòng tròn của xe Mercedes, ba hình thoi chụm vào của Mishubishi là hai nhãn hiệu hình ảnh nổi tiếng. Có thể nói, hình ảnh này đã thể hiện việc sử dụng ngôn ngữ tạo hình hết sức khái quát, tiếp cận khách hàng một cách nhanh mạnh và làm cho khách hàng liên tưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần có sự phân biệt rõ ràng giữa nhãn hiệu hình ảnh với logo. Logo là yếu tố đồ họa của nhãn hiệu, góp phần quan trọng trong nhận thức của khách hàng về nhãn hiệu, nhằm củng cố ý nghĩa của nhãn hiệu theo một cách nào đó. Logo là dấu hiệu để nhận biết sản phẩm, dịch vụ mà nó đại diện, vì vậy logo được xem xét bảo hộ với tư cách là nhãn hiệu. Bên cạnh việc thể hiện những thông tin về chủ sở hữu, logo còn mang đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo ra nó. Đây là điểm khác biệt hoàn toàn so với nhãn hiệu. Tính cá nhân của logo chứa đựng sự sáng tạo về mặt nghệ thuật tạo cho nó một bề ngoài hoàn chỉnh của một tác phẩm nghệ thuật. Như vậy, trong một logo tồn tại hai thuộc tính: tính phân biệt và tính sáng tạo. Điều này tạo cho logo đặc tính riêng, vừa mang những đặc điểm, dấu hiệu để nhận biết của chủ sở hữu, vừa mang những dấu ấn sáng tạo của người thiết kế logo (tác giả). Logo thường gồm các yếu tố hình độc đáo, riêng có tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Với đặc tính đa dạng của các yếu tố đồ họa, logo có thể là một hình vẽ, một cách trình bày chữ viết (tên doanh nghiệp, sản phẩm), hoặc kết hợp cả hình vẽ và chữ viết. Logo tạo ra một bản sắc riêng, là biểu tượng đặc trưng cho doanh nghiệp sở hữu logo. Pháp luật Việt Nam lần đầu tiên quy định cụ thể về hình ảnh ba chiều được sử dụng làm nhãn hiệu. Trước đây, Điều 785 BLDS 1995 của Việt Nam không quy định rõ về loại dấu hiệu ba chiều hay hình ảnh ba chiều mà chỉ đề cập đến dấu hiệu hình ảnh, nên người thi hành có thể hiểu dấu hiệu hình ảnh được đề cập đó bao gồm hình ảnh hai chiều và cả hình ảnh ba chiều. Tuy nhiên, BLDS 1995 và các văn bản dưới luật hướng dẫn về SHCN đã không quy định rõ về điều kiện để một dấu hiệu ba chiều có thể được đăng ký làm nhãn hiệu. Mặc dù pháp luật Việt Nam không liệt kê một cách cụ thể các dấu hiệu hình ảnh có khả năng được sử dụng làm nhãn hiệu, nhưng trên thực tế đã thừa nhận và bảo hộ dấu hiệu hình ảnh hai chiều và ba chiều là nhãn hiệu. 2.1.5. Dấu hiệu kết hợp cả dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc Dấu hiệu kết hợp là sự kết hợp của hai hay nhiều dấu hiệu, kết hợp giữa dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình, theo đó pháp luật bảo hộ cho đồng thời cả hai dấu hiệu. Sự kết hợp giữa dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình tạo thành một tổng thể độc đáo, dễ nhận biết và có khả năng phân biệt như: nhãn hiệu Tiger với biểu tượng con hổ, nhãn hiệu Halida với biểu tượng con voi… Các dấu hiệu trên có thể được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Theo quy định này màu sắc chỉ được coi là phương thức thể hiện của nhãn hiệu. Theo điểm 39.2 Thông tư 01/2007 thì dấu hiệu chỉ là màu sắc mà không được kết hợp với dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình hoặc không được thể hiện thành dạng dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình thì không được bảo hộ với danh nghĩa là nhãn hiệu. Một màu sắc đơn lẻ không thể sử dụng làm nhãn hiệu, trừ khi kết hợp với dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình (như màu đỏ của Coca-Cola). Hiệp định TRIPs quy định không những dấu hiệu cụ thể có thể được đăng ký là nhãn hiệu với những màu sắc nhất định, mà bản thân sự kết hợp các màu sắc với nhau cũng có thể được đăng ký làm nhãn hiệu. Hiệp định Thương Mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng quy định tổ hợp màu sắc là một loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu. Điều 785 BLDS 1995 không quy định cụ thể loại dấu hiệu màu sắc có thể được đăng ký là nhãn hiệu hay không, mà chỉ xác định màu sắc là phương thức thể hiện các loại dấu hiệu khác. Như vậy, quy định này tương đồng với quy định tại Luật SHTT 2005. Trong thực tế, vấn đề được đặt ra: nếu chỉ có sự kết hợp đơn thuần giữa các màu sắc với nhau có được công nhận và đăng ký làm nhãn hiệu hay không? [10, tr 20]. Vấn đề này cần được pháp luật Việt Nam xem xét cho phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Những dấu hiệu trên nếu thuộc vào trường hợp quy định tại điểm 39.2b Thông tư 01 thì không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu: “- Dấu hiệu chỉ là màu sắc mà không được kết hợp với dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình hoặc không được thể hiện thành dạng dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình; - Dấu hiệu thuộc đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa là nhãn hiệu theo quy định tại Điều 73 của Luật Sở hữu trí tuệ; - Dấu hiệu trái với trật tự xã hội, có hại cho an ninh quốc gia”. Điều 73 Luật SHTT 2005 đã xác định các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu bao gồm: *) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với: - Hình quốc kỳ, quốc huy của các nước ; - Biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép. Ví dụ: WIPO là tên viết tắt của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization) hay WTO là tên viết tắt của Tổ chức Thương Mại thế giới (World Trade Organization) sẽ không được dùng để làm nhãn hiệu. - Tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐiều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan