Luận văn Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC THUỘC LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM - MỘT BỘ PHẬN CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM HIỆN NAY 7

1.1. Khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 7

1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. 22

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC THUỘC LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 31

2.1. Khái quát về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam 31

2.2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 38

2.3. Xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 67

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC THUỘC LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 77

3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam 77

3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 84

KẾT LUẬN 99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104

PHỤ LỤC 109

 

 

doc108 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1782 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình yêu đối với đất nước, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được một số thành tựu bước đầu góp phần đem lại nhiều lợi ích cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngay từ đầu những năm 90, khi đất nước đứng trước hoàn cảnh rất khó khăn, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức đóng góp ý kiến cho một số dự thảo văn kiện của Đảng và Nhà nước. Tại cuộc gặp gỡ với các đồng chí lãnh đạo cấp cao do Liên hiệp Hội tham gia tổ chức (11-1991), các nhà khoa học đã nhất trí cao trong việc đánh giá tình hình đất nước trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khẳng định những thành quả về chính trị, kinh tế, xã hội của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Nhiều đại biểu của các hội thành viên đã đề xuất những ý kiến quý báu về việc khắc phục những khó khăn trước mắt và tiếp tục vững bước đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tiếp theo, việc đóng góp ý kiến của trí thức thuộc Liên hiệp Hội tập trung vào dự thảo các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, như Pháp lệnh Kiểm soát phóng xạ (12-1993), Luật về hội (4-1995), Bộ luật Dân sự (4-1995), Báo cáo chính trị trình Đại hội VIII của Đảng (9-1995), Luật KH&CN (9-1996), Nghị quyết Hội nghị Trung ương hai (10-1996), Báo cáo chính trị trình Đại hội IX (10-2000), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 (10-2000). Trong năm 1997, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức thẩm định và phản biện 09 bản quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng thời kỳ 1996-2010: Vùng đồng bằng sông Hồng; vùng Tây Bắc; vùng Bắc Trung Bộ; vùng Đông Nam Bộ; vùng đồng bằng sông Cửu Long; vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung; vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Nam; vùng duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên. Trong năm 1999, đã có 9 trong số 11 dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng đến năm 2010 nhận được ý kiến thẩm định và phản biện của trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Đặc biệt, Liên hiệp Hội đã tổ chức tư vấn, phản biện và thẩm định hồ sơ của 15 dự án đầu tư phát triển quan trọng, trong đó lớn nhất là thủy điện Sơn La trên sông Đà, với những đóng góp quan trọng cho công trình này, ngày 02 tháng 01 năm 2004, Chủ tịch Hội đồng thẩm định Nhà nước Dự án thủy điện Sơn La đã ra quyết định số 04/QĐ/HĐTĐSL khen thưởng Liên hiệp Hội "đã có nhiều thành tích tham gia trong công tác thẩm định dự án thủy điện Sơn La từ năm 1998 đến năm 2003". Đó là sự ghi nhận và khẳng định vai trò, năng lực của trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Để từng bước đưa các văn kiện của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, trong năm 2001, 19 Hội đồng tư vấn chuyên ngành và Ban công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội thuộc Liên hiệp Hội đã được thành lập. Cũng trong năm 2001, trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tích cực tham gia góp ý kiến cho nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, trong đó phải kể đến các văn kiện và nhân sự Đại hội IX của Đảng, Hiến pháp sửa đổi (5-2001), "Chiến lược phát triển KH&CN năm 2001-2010", "Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010", thẩm định Dự án "Đường Hồ Chí Minh đoạn đi qua vườn Quốc gia Cúc Phương... Đặc biệt, đội ngũ trí thức thuộc Hội Xây dựng Việt Nam cùng với các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức nhiều hội thảo góp ý kiến đối với biện pháp nâng cao chất lượng nước Hồ Tây thuộc Dự án "Xây dựng hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây", mà kết quả của nó đã giúp ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định đình chỉ kịp thời tiểu dự án "Nâng cao chất lượng nước Hồ Tây" - một dự án không có cơ sở chắc chắn và tốn kém nhiều tiền của. Từ năm 2002 đến nay, nhiều dự án, văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp từ phía các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội. Tính riêng trong năm 2003 và hai tháng đầu năm 2004, đã có 12 cuộc hội thảo đóng góp ý kiến về các vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bảo tồn và phát huy di sản lịch sử, di chỉ Hoàng thành Thăng Long, quy chế giám sát đầu tư của công cộng, bảo vệ nguồn thực vật quý hiếm, bảo vệ động vật hoang dã, các biện pháp cứu chữa các giống gà gốc Việt Nam, công nghệ sinh học, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, chống sạt lở bờ sông, môi trường biển Hải Phòng, địa hóa với môi trường và đời sống. Trong số các công trình khoa học mà trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức để đóng góp ý kiến gần đây, đặc biệt phải kể đến việc bảo tồn di chỉ Hoàng thành Thăng Long. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ xây dựng Bảo tàng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay thành Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam bên cạnh Cột cờ Hà Nội, trong khu vực thành Hà Nội. Để bảo tồn các công trình kiến trúc trên mặt đất và di chỉ dưới mặt đất - nơi có bề dày các tầng văn hóa trải qua mười ba thế kỷ, là duy nhất độc đáo trên thế giới, nơi còn chứa đựng nhiều di tích, di vật của Hoàng thành thời Lý, Trần, Lê - các nhà khoa học thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Khoa học khảo cổ, Hội dân tộc học Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hội kiến trúc sư Việt Nam, Hội Quy hoạch đô thị Việt Nam, Hội Khoa học lịch sử Hà Nội, Hội các ngành sinh học Việt Nam và Viện nghiên cứu và phát triển phương Đông đã nghiên cứu và kiến nghị không xây Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam phía sau Cột cờ và trước Đoan môn, gấp rút xây dựng quy hoạch tổng thể bảo tồn di tích Hoàng thành Thăng Long, thành Hà Nội kéo dài cho đến các di tích cách mạng và kháng chiến thời đại Hồ Chí Minh. Sự kiện này không phải các nhà khoa học thực hiện theo đề nghị từ phía Chính phủ, mà do các nhà khoa học chủ động kiến nghị. Điều này thể hiện sự tâm huyết, trách nhiệm đối với dân tộc, trách nhiệm của thế hệ này đối với thế hệ mai sau của các nhà khoa học trong Liên hiệp Hội. Những cổ vật còn nằm dưới mặt đất là tư liệu vô cùng quý giá đối với nhiều ngành khoa học, là cơ sở để khẳng định bề dầy, giá trị lịch sử và văn hóa của Thành Thăng Long nói riêng, của dân tộc ta nói chung. Những kiến nghị trên là cơ sở khoa học, là căn cứ khách quan đã có tác động đến việc xây dựng Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, hiện nay dự án đó tạm thời ngừng triển khai. Mới đây nhất là những ý kiến đóng góp về "Một số biện pháp nhằm tiến tới cải cách triệt để và toàn diện nền giáo dục Việt Nam" (ngày 09 tháng 5 năm 2005) của trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Trên cơ sở đánh giá khái quát về thực trạng ngành giáo dục của nước ta hiện nay và chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại trong ngành giáo dục, các nhà khoa học đã kiến nghị sáu giải pháp trước mắt với mong muốn đưa sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước ta phát triển. Ngoài các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội mang tính liên ngành, thì hoạt động mang tính chuyên ngành của trí thức thuộc Liên hiệp Hội cũng có những đóng góp quan trọng. Tiêu biểu là trí thức của một số Hội ngành như: Hội Vô tuyến - Điện tử với dự án phóng vệ tinh nhân tạo VINASAT của Việt Nam; Hội Khoa học - Kỹ thuật nhiệt đới với các nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, Cẩm Phả,Quảng Ninh; Hội Đúc - Luyện kim đối với chương trình nghiên cứu vật liệu luyện kim đen, sản xuất gang trong lò cao nhỏ; Hội Hóa học đối với đề án xây dựng nhà máy lọc dầu và phương hướng phát triển công nghiệp hóa dầu; Tổng hội y - Dược học đối với đề án về hành nghề y, dược tư nhân; Hội Luật gia đối với công tác xây dựng pháp luật và hoạt động tư pháp; Hội Khoa học lịch sử đối với việc đánh giá một số sự kiện và nhân vật lịch sử; Hội Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam đã tham gia tư vấn, nghiên cứu thiết kế đề án quy hoạch chi tiết cho thành phố Hà Nội và các địa phương khác, 03 đề án nghiên cứu quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh 2001 - 2020; Hội khoa học kỹ thuật xây dựng Việt Nam những năm gần đây đã tham gia phản biện các vấn đề như: Dự án xa lộ Bắc - Nam; Dự án đường hầm qua đèo Hải Vân; Chiến lược phát triển giao thông của cả nước; Luật xây dựng... Những kết quả tiêu biểu trên của Liên hiệp Hội đã mang lại những lợi ích to lớn trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, khẳng định việc tư vấn, phản biện và giám định xã hội ngày càng trở thành hoạt động quan trọng. Một mặt, nó đã góp phần vào việc nâng cao chất lượng soạn thảo và thực hiện các chính sách, các chương trình, dự án, đề án về phát triển kinh tế - xã hội, GD&ĐT, khoa học, công nghệ và môi trường. Mặt khác, hoạt động này càng khẳng định rõ hơn vai trò của lý luận khoa học trong hoạt động thực tiễn, khẳng định vị trí quan trọng của tầng lớp trí thức trong CNH, HĐH đất nước nói riêng, xây dựng CNXH nói chung. Tuy vậy, những thành tựu trên mới chỉ là bước đầu, trước những yêu cầu của việc phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cần phải nỗ lực hơn nữa trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ này trong những năm qua của Liên hiệp Hội cũng đã bộc lộ một số hạn chế và khó khăn nhất định. Hạn chế trước hết là sự lúng túng của một số thành viên thuộc Liên hiệp Hội, do đây là hoạt động mới, chưa có tiền lệ ở nước ta. Bên cạnh đó, năng lực, kỹ năng thực tiễn của các chuyên gia thuộc Liên hiệp Hội nói chung còn hạn chế, thiếu năng động, chủ động và quyết tâm, chưa tạo được niềm tin lớn đối với các cơ quan sử dụng tư vấn. Nhìn chung, Liên hiệp Hội còn thiếu một đội ngũ chuyên gia có kỹ năng và trình độ chuyên môn tương ứng. Mặc dù có nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước đã khẳng định vai trò và khuyến khích hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, nhưng việc thực hiện nhiệm vụ này còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều Bộ, Ban, ngành ở Trung ương và ủy ban nhân dân các địa phương chưa thực sự vào cuộc, chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của hoạt động tư vấn độc lập trong việc xây dựng và thực hiện các dự án phát triển, nên chưa chủ động giao cho Liên hiệp Hội thực hiện các nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội về các đề án xây dựng cơ chế, chính sách và phát triển kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương. Việc ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động này của Liên hiệp Hội còn chưa đồng bộ, thiếu sự thống nhất cần thiết. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg (ngày 30 tháng 01 năm 2002) về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhưng lại chưa có quy định cụ thể về những loại công trình, đề án thuộc cấp cao nhất định phải qua tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Do vậy, hoạt động này chủ yếu được thực hiện trên cơ sở các quan hệ trực tiếp, phần lớn các dự án là do các cơ quan có quen biết đề nghị Liên hiệp Hội nghiên cứu, đóng góp ý kiến, đa số nội dung các dự án mới chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực nhất định. Do vậy, Nghị định số 88/2003/NĐ-CP (ngày 30/7/2003) của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội, theo đó các Hội có phạm vi hoạt động trong cả nước hoặc liên tỉnh sẽ chịu sự quản lý của Bộ Nội vụ là rất cần thiết, nó tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để các thành viên trong Liên hiệp Hội hoạt động. Tuy nhiên, một số nội dung trong Nghị định, xét ở góc độ nào đó có thể hạn chế hoạt động của các Hội ngành Trung ương, đặc biệt là hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Nếu các đơn vị thành viên của Liên hiệp Hội thuộc sự quản lý của các Bộ ngành Trung ương thì không những làm cho bộ máy hành chính cồng kềnh, mà hoạt động của đội ngũ trí thức lại phụ thuộc vào cơ chế "xin - cho", điều này rất dễ tạo ra kẽ hở cho tiêu cực, bất hợp tác nảy sinh khi Hội do cơ quan quản lý lại thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các đề án, công trình của chính cơ quan này. Điều này thiếu thống nhất với tinh thần của Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về hoạt động này của Liên hiệp Hội. Nghị định có thể sẽ làm giảm tính độc lập, khách quan trong việc thực hiện nhiệm vụ này của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, nhất là hiện nay còn tồn tại tâm lý "ngại", "sợ" bị tư vấn, phản biện và giám định xã hội, bởi họ lo sợ để lộ ra những điểm yếu, bất cập trong các đền án của mình. Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện quan điểm nhất quán và niềm tin sâu sắc đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, nhưng cũng cần phải tạo những điều kiện thuận lợi cần thiết cả về mặt pháp lý và cơ chế, chính sách đối với đội ngũ này. Mặt khác, bản thân trí thức thuộc Liên hiệp Hội phải tự ý thức về vai trò, trách nhiệm cũng như những yêu cầu của nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, phấn đấu thực hiện tốt vai trò của mình để xứng đáng với niềm tin của Đảng và nhân dân, tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc đem trí tuệ, tâm sức cống hiến cho sự nghiệp phát triển đất nước. 2.2.4. Hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật và hoạt động xã hội hóa công tác giáo dục - đào tạo Nước ta tiến hành CNH, HĐH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ dân trí thấp, do vậy gặp không ít những khó khăn, thách thức. Cho nên nhiệm vụ cơ bản và lâu dài trước hết là phải nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhận thức của người dân được nâng cao sẽ là điều kiện thuận lợi để đưa các tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất và đời sống đạt hiệu quả. Việc phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ của trí thức thuộc Liên hiệp Hội, đồng thời cũng là chức năng của người trí thức nói chung. Nhằm góp phần nâng cao trình độ về khoa học và kỹ thuật cho quần chúng, đồng thời đưa nhanh những tiến bộ khoa học vào sản xuất và đời sống, những năm qua đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã có nhiều cống hiến quan trọng với nhiều hình thức khác nhau trong việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật, góp phần quan trọng vào thành quả bước đầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Do Liên hiệp Hội là nơi tập hợp đội ngũ trí thức với nhiều chuyên ngành khác nhau, nên nội dung kiến thức mà đội ngũ này truyền tải đến quần chúng là rất phong phú, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhân dân. Thông qua hình thức mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho hội viên và quần chúng nhân dân, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ cho hàng trăm nghìn người. Tại cơ quan thường trực Liên hiệp Hội, năm 1999 đã mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, tập huấn nghiệp vụ công tác Đảng, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý các tổ chức KH&CN... cho 665 học viên; năm 2000 mở 10 lớp về công tác Đảng và phổ biến các văn kiện Đảng, công tác quản lý các đề tài khoa học... cho 685 học viên; năm 2001 mở 10 lớp bồi dưỡng cho nhiều người về Luật KH&CN, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam, sử dụng mạng Internet...; năm 2002, mở các lớp về xây dựng khung lôgíc cho một dự án, nghiệp vụ văn phòng... cho 480 học viên; năm 2003 mở các lớp về bồi dưỡng tư tưởng Hồ Chí Minh, tập huấn nâng cao năng lực tư vấn... cho 630 học viên (xem phụ lục 4). Hình thức đào tạo ngắn hạn cũng được tổ chức các Hội ngành Trung ương và Liên hiệp Hội địa phương áp dụng rộng rãi nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của hội viên và người lao động. Chỉ tính riêng kết quả đào tạo, tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ về các lĩnh vực chuyên môn khác nhau trong năm 2001 của 12 Hội ngành Trung ương và một số Liên hiệp Hội địa phương đã tổ chức được 50 lớp và hơn 6.000 người tham gia. Nhờ đó, trong những năm gần đây, hội viên và quần chúng nhân dân đã có thêm nhiều kiến thức khoa học và kỹ thuật cần thiết cho sản xuất và đời sống. Kết quả đó là công sức, trí tuệ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, đặc biệt là trí thức thuộc các hội ngành Trung ương - những người có tri thức chuyên ngành mang tính chuyên sâu. Trong số đó, các Hội ngành có đóng góp tích cực tiêu biểu như Hội Kế toán Việt Nam, mở 230 khóa bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về tài chính, kế toán, kiểm toán cho 21312 học viên; Hội Cơ khí mở các khóa đào tạo, tập huấn về máy tính, CAD, CAm,... cho 3590 học viên; Hội Vô tuyến điện tử Việt Nam đã tổ chức các lớp viễn thám, y tế viễn thông, công nghệ thông tin... cho 1250 học viên, v.v... (xem phụ lục 5). Hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn thể hiện thông qua các ấn phẩm, sách báo, các kênh thông tin đại chúng với nhiều hình thức, nội dung đa dạng đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của mọi tầng lớp nhân dân, phục vụ đến mọi miền của đất nước. Lực lượng nòng cốt trong công tác này là hệ thống gần 150 tờ báo, tạp chí và các ấn phẩm định kỳ khác nhau chiếm trên 1/3 tổng số báo chí khoa học của cả nước, trong đó số ấn phẩm định kỳ của Liên hiệp Hội là 6, chiếm 4,15%, của các Hội ngành Trung ương là 82, chiếm 56,16%, của các liên hiệp hội tỉnh, thành phố là 43, chiếm 29,45%, và của các đơn vị trực thuộc là 15%, chiếm 10,27%. Ngoài ra, sự xuất hiện các trang Web của Liên hiệp Hội www.vusta.org.vn, của Thời báo kinh tế Việt Nam www.vneconomy.com.vn và của một số Hội thành viên là một nét mới trong công tác phổ biến kiến thức, tạo điều kiện cho các thông tin có thể lan tỏa rộng hơn, xa hơn ở trong nước và trên thế giới. Bên cạnh các ấn phẩm định kỳ nêu trên, các tổ chức hội khoa học và kỹ thuật đã xuất bản được hàng trăm đầu sách có giá trị. Tiêu biểu như "Khoa học - công nghệ Việt Nam: Những sắc mầu tiềm năng" và "Khoa học và Công nghệ Việt Nam: các công trình và sản phẩm được giải thưởng khoa học - công nghệ Việt Nam". Hầu hết các Hội ngành Trung ương đều có các sách chuyên khảo, kỷ yếu hội nghị, từ điển chuyên ngành, tài liệu hướng dẫn, tờ rơi phục vụ công tác nghiên cứu, tham khảo, tuyên truyền và phổ biến kiến thức. Câu lạc bộ là hình thức quan trọng và hữu hiệu để phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng. Mạng lưới rộng khắp bao gồm hơn 40 câu lạc bộ của Liên hiệp Hội và các hội thành viên thu hút khoảng 11 nghìn hội viên. Câu lạc bộ Thời sự - Khoa học tại cơ quan thường trực Liên hiệp Hội sinh hoạt đều đặn hàng tháng với chương trình và nội dung phong phú, có buổi thu hút hơn 100 người dự. Nhiều hội thành viên cũng duy trì được hoạt động thường xuyên của các câu lạc bộ như Câu lạc bộ Chuyên gia xây dựng lão thành, Câu lạc bộ Kế toán trưởng, Câu lạc bộ Người tiêu dùng. Một kênh quan trọng khác được Liên hiệp Hội và các hội thành viên sử dụng có hiệu quả là các phương tiện thông tin đại chúng. Liên hiệp Hội đã phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam mở các chuyên mục hỏi đáp về khoa học - kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Đáng chú ý là các chuyên mục "Cùng nông dân bàn cách làm giàu", "Bạn của nhà nông", phát đều kỳ trên sóng truyền hình. Mặt khác, cùng với các hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cũng đặc biệt quan tâm và tích cực tham gia xã hội hóa giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Điều này được phản ánh cụ thể ở các mặt sau: - Bảo trợ cho các trường cao đẳng, đại học và các trường phổ thông dân lập. Đến nay đã có ba trường đại học, một trường cao đẳng và nhiều trường phổ thông dân lập các cấp ra đời dưới sự bảo trợ hoặc quản lý của các hội thành viên của Liên hiệp Hội. - Phối hợp với các trường cao đẳng, đại học công lập tổ chức nhiều khóa đào tạo ở bậc cao đẳng và đại học về luật, công nghệ thông tin, ngoại ngữ và y tế. Đến nay trên 4,5 vạn sinh viên đã và đang được đào tạo tại các trường đại học dân lập và các khóa đào tạo dài hạn. - Hỗ trợ và khuyến khích học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, học giỏi và học sinh, sinh viên là con em thương binh liệt sĩ và đồng bào dân tộc thiểu số. Từ năm học 1998 - 1999 đến (6/2003), bằng nguồn vốn huy động từ các tổ chức trong và ngoài nước, hơn 1.300 suất học bổng trị giá trên 1,25 tỷ đồng đã được cấp cho học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, học giỏi thuộc 24 tỉnh, thành phố và 20 trường đại học và cao đẳng. Bên cạnh đó, trí thức thuộc Liên hiệp Hội thông qua Liên hiệp Hội để trao nhiều phần thưởng cho các tập thể và cá nhân đạt giải tại các kỳ thi quốc tế về toán học, tin học, hóa học, vật lý và cho các học sinh, sinh viên học giỏi là con thương binh, liệt sĩ. - Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Liên tục trong nhiều năm qua, Liên hiệp Hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học, tuyển chọn và tặng thưởng cho các đồ án tốt nghiệp xuất sắc. Nhiều Hội ngành Trung ương và Liên hiệp Hội địa phương đã giới thiệu các tài năng trẻ đi dự các Hội nghị quốc tế và đi du học ở nước ngoài. Chỉ tính riêng Giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam dành cho sinh viên xuất sắc trong các trường đại học từ năm 1998 đến năm 2003, gần 500 tài năng trẻ đã được trao giải thưởng với số tiền trên 900 triệu đồng. Những đóng góp của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong lĩnh vực này đã góp phần nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội, càng củng cố vững chắc hơn khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và trí thức. Song, trước những yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, việc phổ biến kiến thức khoa học, công nghệ, phát triển giáo dục, đào tạo cần phải được triển khai sâu rộng đến khắp các vùng, miền trong nước, đặc biệt là những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa - nơi rất cần thông tin, tri thức KH&CN. Ngoài ra, nội dung của hoạt động thông tin, phổ biến kiến thức, Liên hiệp Hội chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, nhất là khoa học quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, mới chỉ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khoa học công nghệ. Mặt khác, hiện còn thiếu cơ chế, chính sách động viên trí thức làm công tác phổ biến kiến thức, chuyển giao công nghệ, do vậy, chưa tạo ra được động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà khoa học say mê thực hiện công việc này. Phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng và xã hội hóa giáo dục là yêu cầu khách quan của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, là quá trình biến tri thức khoa học thành sức mạnh vật chất để tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Do vậy, hoạt động này cần phải được đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chú trọng cả về nội dung, hình thức truyền đạt thông tin và tham gia tích cực hơn nữa trong việc xây dựng xã hội học tập. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải có cơ chế hỗ trợ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi để công tác này đạt hiệu quả cao hơn. 2.2.5. Hoạt động phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo Mục đích cuối cùng của quá trình CNH, HĐH đất nước chính là nhằm đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, tạo những điều kiện tốt nhất để mọi người dân đều được chăm sóc, phát triển toàn diện. Do đó, trong khi đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng việc phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng cao, vùng sâu, vùng xa nhằm cải thiện đời sống của đồng bào, đặc biệt là đồng bào các dân tộc ít người, từng bước nâng cao trình độ các vùng, miền đặc biệt khó khăn. Xóa đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản và ưu tiên của Đảng và Nhà nước ta, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ mục tiêu "phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo". Tuy nhiên, để nhanh chóng đưa kinh tế - xã hội phát triển, tiến tới xóa hết đói nghèo, không chỉ là công việc của Đảng, Nhà nước hay của riêng những người nghèo phải phấn đấu, mà là trách nhiệm chung của cả cộng đồng, của mỗi tổ chức xã hội, cá nhân và quốc tế. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức thực hiện xúc tiến rất mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Khoảng 30% số đơn vị khoa học - công nghệ trực thuộc Liên hiệp Hội đã triển khai các hoạt động phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo. Nội dung chủ yếu trong hoạt động này của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội là tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vấn đề giới và bình đẳng giới, xây dựng quy chế cộng đồng, phát huy dân chủ cơ sở, xây dựng các mô hình phát triển bền vững gắn với xóa đói giảm nghèo, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đào tạo, bồi dưỡng nông dân tiêu biểu, nòng cốt... Với sự ủng hộ của nhiều đơn vị, tổ chức trong và ngoài nước cả về vật chất và tinh thần, những năm qua đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo. Theo các số liệu thống kê chưa đầy đủ của hơn 20 đơn vị KH&CN thuộc Liên hiệp Hội, có 35 dự án đã được triển khai, trong đó có 16 dự án dành cho công tác y tế và chăm sóc sức khỏe ban đầu, 5 dự án cho công tác giáo dục và văn hóa, 4 dự án cho vấn đề giới và bình đẳng giới, 4 dự án cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, 6 dự án cho việc xây dựng các mô hình phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo (phụ lục 6). Các dự án được triển khai tại nhiều địa phương, 15 tỉnh, thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Tây, Nghệ An, Quảng Bình, Cần Thơ, An Giang. Trải qua 5 năm hoạt động, Liên hiệp Hội với các dự án đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia, đặc biệt là chị em phụ nữ, già làng, trưởng bản, nông dân nòng cốt trong các vùng dân tộc ít người. Th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van - chinh thuc.doc
  • docBia- ThS.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan