Luận văn Đóng góp của Tự Lực Văn Đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh và Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng

MỤC LỤC

Trang

1. Lý do chọn đề tài . 1

2. Lịch sử vấn đề . 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .10

3.1. Đối tượng .10

3.2. Phạm vi nghiên cứu.11

4. Phương pháp nghiên cứu .11

5. Đóng góp của luận văn .11

6. Cấu trúc luận văn .12

NỘI DUNG . 13

Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM. . 13

1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội cho sự ra đời của Tự lực văn đoàn .13

1.1.1. Những cơ sở lịch sử - văn hóa- xã hội của công cuộc hiện

đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. .13

1.1.2. Sự ra đời của Tự lực văn đoàn .17

1.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn .20

1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết, tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết luận

đề của Tự lực văn đoàn.20

1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng .24

1.3. Vai trò của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn

học dân tộc .30

1.3.1. Cổ vũ cho phong trào thơ mới.32

1.3.2. Hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết .33

Chương 2: BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NHẤT LINH VÀ KHÁI HƯNG . 36

2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực

văn đoàn .36

2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong nghiên cứu văn học.36

2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực

văn đoàn .39

2.2. Con người theo mô hình đạo đức lễ giáo phong kiến.42

2.2.1. Mâu thuẫn giữa con người cá nhân với đại gia đình phong

kiến .42

2.2.2. Nhân vật đại diện cho nền luân lý phong kiến cũ .46

2.3. Con người theo mô hình phương Tây hiện đại .53

2. 3.1. Nhân vật trí thức Tây học.53

2.3.2. Nhân vật phụ nữ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân .60

Chương 3: NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG ĐOẠN TUYỆT

VÀ NỬA CHỪNG XUÂN . 72

3.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện và kết cấu .72

3.1.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện: .73

3.1.2. Hiện đại hóa trong kết cấu .78

3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật .84

3.2.1. Miêu tả tâm lý nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại .86

 

3.2.2. Miêu tả tâm lý qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm: .92

3.3. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ và giọng điệu .96

3.3.1. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ .96

3.3.2. Hiện đại hóa trong giọng điệu .102

KẾT LUẬN . 109

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 113

 

 

doc121 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3857 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đóng góp của Tự Lực Văn Đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh và Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i hiểu rồi, cô chẳng yêu con tôi đâu. Chẳng qua cô chỉ muốn làm bà lớn đấy thôi. Phải, bà tham ít nữa lại bà huyện… To lắm!” [25, 133]. Tiến công từ cả hai phía, bà Án tìm cách gieo vào lòng con trai sự nghi ngờ vì bà biết rằng Lộc là người rất đa nghi. Tất cả hành động của bà Án đều nhằm chia rẽ hạnh phúc của đôi uyên ương nhưng được bao biện bởi lí do vì con, vì lễ giáo gia phong. Thực chất những việc làm của bà ta đều xuất phát từ bản chất ích kỉ, tàn nhẫn biểu thị cho những quan niệm luân lý cũ đã không còn hợp thời. Nhân vật này cũng có đôi lúc đáng thương, có đôi lúc bà ta cũng cảm thấy ăn năn về những việc mình đã làm. Nhưng vì quá mang nặng quan niệm lạc hậu về tình yêu và hôn nhân nên những việc bà ta làm đã mất đi tính “nhân” của đạo làm người. Chính vì lẽ đó mà Lộc – một người con rất mực tôn kính mẹ đã vô cùng đau đớn với nỗi dằn vặt về sự cay nghiệt của mẹ mình: “Chàng tưởng tượng mẹ chàng là một người đàn bà cay nghiệt, cứng cỏi trong khuôn phép lễ nghi, không bao giờ cảm động trong khi đứng trước những sự thương tâm như ở ngoài vòng luân lý cổ” [25, 207 – 208]. Mặc dù đáng trách, nhưng bà Án cũng là một người đàn bà đáng thương, bởi bà đã quá mang nặng tư tưởng bảo thủ của chế độ đại gia đình phong kiến, tất cả những việc bà làm cũng chỉ vì quá suy tôn cổ tục, quá thiên trọng tập quán. Xuất hiện không nhiều trong tác phẩm, nhưng nhân vật Hàn Thanh cũng để lại những ấn tượng khó phai trong lòng người đọc. Là đại diện cho lớp trọc phú ở nông thôn Việt Nam xưa, lão ta chuyên cậy tiền của để ức hiếp, bóc lột người dân quê ngây thơ, thật thà. Chỉ qua một đoạn miêu tả rất ngắn, Khái Hưng đã lột tả một cách đầy đủ và sinh động chân dung một tên trọc phú nông thôn giàu có, hợm của: “Vả ông thành thực hoàn toàn là một cụ Hàn, vì rằng các cụ Hàn thường đẫy đà mà ông thì phì nộn phương phi lắm, mặc dầu ông ta có nghiện thuốc phiện. Ông ta cũng nghiện chơi nghiện bời cho vui ngày tháng đó mà thôi… một lẽ nữa khiến ông ta ham chơi thú á phiện, là ông ta giàu, giàu lắm, giàu nhất trong hàng huyện và thứ nhì thứ ba hàng tỉnh; nên ông ta phải hút để tiện thức mà coi lấy của” [25, 60 -61]. Hàn Thanh có tới ba bà vợ, dẫu vậy ông vẫn muốn kén thêm một cô vợ xinh đẹp nữa để hưởng thú vui nhàn: “Ông Hàn lại cũng không phải là người không biết thưởng thức cái đẹp, nên tuy đã có ba vợ rồi mà còn muốn kén một bực tiểu tinh diễm lệ để vui thú cảnh nhàn, vì ông Hàn vẫn tự phụ là người hào hoa phong nhã” [25, 61]. Trong gia đình, ông Hàn như một vị quan toàn quyền quyết định cuộc sống của các bà vợ. Mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, nên khi bà ba sinh hạ được cậu quý tử nối dõi cho ông thì được ông yêu chiều cung phụng như một cô tiểu thiếp nhà quan. Trong gia đình phong kiến, người phụ nữ hầu như không có quyền hành gì, thân phận bé nhỏ của họ phụ thuộc hoàn toàn vào những người đàn ông, vì thế hai bà vợ cả và bà hai của ông Hàn: “tuy cũng có ghen, nhưng không dám hé môi vì ông Hàn oai nghiêm lắm, khắp trong hàng tổng còn sợ ép một bề nữa là các bà vợ” [25, 61]. Lão tìm mọi cách để có thể chiếm đoạt được những thứ mà mình muốn. Bộ mặt trơ trẽn cùng những hành động đểu giả vô liêm xỉ của hắn đã phần nào nói lên tính chất bảo thủ, xấu xa của chế độ đại gia đình phong kiến. Chỉ vì lấy tranh nhau một cô vợ bé mà Hàn Thanh đã sai đầy tớ đốt nhà ông ấm cả. Đến khi gặp Mai, thấy cô xinh đẹp thì tìm mọi cách chiếm đoạt. Dụ dỗ ngon ngọt không được thì quay sang dọa nạt, ép buộc: “Thế cô ngẫm nghĩ đi nhé. Chớ đổi ý kiến mà rầy rà đấy. Nhà cô mà tôi đã không mua thì tôi đố đứa nào ở vùng này dám mua nổi. Không những thế còn khốn khổ cực nhục với tôi nữa kia” [25, 73]. Chế độ đại gia đình với nền luân lý cũ đã sản sinh ra những con người bỉ ổi như Hàn Thanh và những kẻ vô học chỉ thích cạnh khóe, bới móc tật xấu của người khác: “Hễ có dịp gặp nhau là họ nói cạnh nói khóe nhau, đem những chuyện riêng tư nói cho hả dạ. Ngoài những công việc ấy ra, họ cũng không còn việc gì khác nữa” [41, 137]. Các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã khắc họa rất chân thực và sinh động chân dung những nhân vật đại diện cho sự lạc hậu, cổ hủ của xã hội phong kiến. Qua đó lên tiếng tố cáo và phủ nhận nền luân lý với những tư tưởng bảo thủ của chế độ đại gia đình đã không còn hợp thời và cần phải phá bỏ để tiến tới những quan niệm sống mới tốt đẹp hơn. 2.3. Con người theo mô hình phương Tây hiện đại 2. 3.1. Nhân vật trí thức Tây học Đầu thế kỉ XX, nền văn hóa phương Tây hiện đại đã tràn vào nước ta, tác động mạnh mẽ và làm chuyển biến một cách sâu sắc trong tinh thần của người dân Việt Nam. Từ đây trong xã hội đã xuất hiện những lối sống mới và những mẫu người mới. Điều này đặc biệt thể hiện rõ trong đời sống của lớp thanh niên trí thức thành thị. Xã hội ngày càng trở nên phức tạp, cuộc sống trở nên gấp rút hơn, nhộn nhịp hơn, đòi hỏi con người phải có những “chuyển động” để bắt kịp với cuộc sống mới. Trong xã hội lúc bấy giờ xuất hiện những quan niệm sống khác nhau, những mẫu người khác nhau, thậm chí đối lập nhau một cách gay gắt. Hệ thống đạo lý cứng nhắc của xã hội phong kiến giờ đây không còn phù hợp với lớp thanh niên trí thức tiến bộ. Họ nhận thấy nhiều quan niệm cũ không còn phù hợp với thời đại mình. Vì thế họ mong muốn thoát ly khỏi đại gia đình phong kiến, đòi quyền tự do cá nhân, tự do kết hôn, giải phóng phụ nữ, đòi quyền làm chủ cuộc sống của mình. Đối lập với những quan niệm thủ cựu, lạc hậu của nền giáo lý phong kiến là những quan niệm sống mới mẻ, hiện đại của lớp thanh niên trẻ tuổi được các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nhiệt tình ủng hộ. Được học hành, được tiếp xúc với đời sống văn minh đô thị, được “tắm” mình trong bầu không khí dân chủ phương Tây hiện đại, họ thường là những sinh viên đại học, cao đẳng, những ông đốc tờ, ông tham, ông huyện… sinh ra trong những gia đình giàu có, quyền chức, có học vấn cao, có tiền tài danh vọng và được thừa hưởng những điều kiện vật chất đầy đủ. Nhưng chính những con người này lại không bao giờ cảm thấy thoải mái với cuộc sống hiện có của mình. Sống trong gia đình phong kiến với những đạo lý cứng nhắc khiến người trí thức cảm thấy tù túng, ngột ngạt. Không bao giờ nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ một cách dễ dàng, họ tìm mọi cách thoát ly khỏi sự kìm kẹp của gia đình. Văn hóa phương Tây đã thấm nhuần trong suy nghĩ và hành động của lớp trí thức Tây học. Sống trong chế độ đại gia đình, những con người này luôn khao khát được sống cuộc đời tự do. Vì vậy họ đã đấu tranh quyết liệt đòi quyền tự do cá nhân cho bản thân và cho sự tiến bộ của xã hội. Lễ giáo phong kiến với những quy tắc khắt khe đã giam hãm biết bao ước mơ, khát vọng của tuổi trẻ. Đặc biệt là đối với tầng lớp thanh niên trí thức có hiểu biết, có những khát vọng, hoài bão lớn. Gia đình phong kiến như một nhà tù giam hãm chí khí, ước vọng của người trí thức. “Ao ước sống cái đời tự do rộng rãi không gì bó buộc” đã trở thành mục đích sống của họ. Các nhân vật này đã nêu lên một quan niệm sống tự do hết sức mới mẻ và táo bạo: “Mình sống, mình muốn sống thì không thể một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng” [41, 20]. Để thực hiện được mục đích của mình, con đường duy nhất là phải đấu tranh. Là một cô gái được học hành, được tiếp xúc với văn hóa phương Tây nên Loan có những quan niệm sống hết sức mới mẻ và có ý thức sâu sắc về quyền cá nhân của mình: “Em có quyền lập thân em”. Trong cuộc xô xát với mẹ chồng, bị xúc phạm, đánh đập, Loan đã vuốt tóc ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt mẹ chồng và tuyên bố: “Bà cũng là người, tôi cũng là người, không ai hơn kém ai” [41, 44]. Quyết liệt hơn cả phải kể tới nhân vật Dũng trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt. Để thoát khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Dũng đã rời bỏ cuộc sống giàu sang với sự sắp đặt của cha mẹ để ra đi, sống trong một căn phòng trọ tồi tàn ở một xóm lao động nghèo khổ. Nhưng với Dũng được sống tự do, thoải mái, được thực hiện lẽ sống của đời mình là niềm hạnh phúc của chàng. Không chỉ dừng lại ở việc đấu tranh cho quyền tự do cá nhân mà việc tiếp nhận và truyền bá những tư tưởng của văn minh phương Tây đã trở thành niềm tự hào của những thanh niên trí thức Tây học trong các sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng. Lộc đã từng nói với Mai : “Từ nhỏ anh đã theo một nền giáo dục Âu tây, anh hiểu, anh yêu, anh trọng cái quyền tự do cá nhân… Từ ngày anh biết em, từ ngày anh yêu em, lúc nào anh cũng muốn chôn sâu vào tâm trí em những tư tưởng cao thượng ấy” [25, 103 - 104]. Vấn đề quyền cá nhân được đặc biệt quan tâm và đề cập một cách trực tiếp trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng. Tuy nhiên, sự đòi hỏi giải phóng bản ngã trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đôi khi lại bộc lộ một cách quá cực đoan. Một số nhân vật đã bất chấp mọi quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp để có được một cuộc sống tự do, thoải mái theo sở thích cá nhân ích kỷ. Một trong những phương diện thể hiện quyền cá nhân trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là quyền được tự do yêu đương, tự do kết hôn. Có lẽ phải đến tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn thì vấn đề tự do yêu đương, tự do kết hôn mới được đề cập một cách mạnh mẽ và quyết liệt đến như vậy. Trước đó, tình yêu của Tố Tâm và Đạm Thủy trong tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ra đời vào những năm 20 của thế kỉ XX đã được ví như quả bom ném vào thành trì phong kiến, mặc dù vấn đề tự do luyến ái trong tác phẩm trước khi trình bày đã được tác giả của nó rào đi đón lại bằng những trang thuyết lý dài dòng. Đến Nửa chừng xuân thì tình yêu giữa Mai và Lộc đã thực sự thoải mái và tự do hơn rất nhiều. Sự gắn kết của họ xuất phát từ một tình yêu chân thành và mãnh liệt. Cuộc hôn nhân của họ dựa trên sự tự nguyện gắn bó giữa hai tâm hồn. Tình yêu trong sáng giữa một cô thôn nữ nghèo là Mai với chàng tham tá Lộc trong Nửa chừng xuân đã vượt lên trên mọi sự ràng buộc về luân lý, bất chấp quan niệm “môn đăng hộ đối”, sự phân biệt giai cấp, địa vị xã hội. Tuy là đứa con hết lòng kính yêu mẹ, nhưng Lộc đã bất chấp sự ngăn cản quyết liệt của bà Án, tìm mọi cách vượt qua những rào cản của quan niệm môn đăng hộ đối để được yêu và chung sống với người mình yêu. Bị ép buộc phải lấy con quan tuần, Lộc đã thưa rằng: “Bẩm mẹ, con đã xin mẹ đừng hỏi đám ấy cho con, con không bằng lòng” [25, 84]. Tình yêu trong quan niệm của lớp thanh niên trí thức trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã vượt lên trên những thông lệ xã hội, những ràng buộc của luân lý cổ. Tình yêu, với họ là niềm hạnh phúc chính đáng mà tuổi trẻ xứng đáng được hưởng. Hôn nhân chỉ có hạnh phúc khi dựa trên nền tảng của tình yêu. Đây là một suy nghĩ tiến bộ và hoàn toàn đúng đắn của lớp thanh niên trí thức thấm nhuần văn hóa phương Tây. Chính vì thế, khi bị ép lấy Thân, Loan một thiếu nữ sống trong chế độ đại gia đình đã dũng cảm tuyên bố: “Vâng, xin me để tùy con, và nhân thể me để con định có nên lấy chồng hay không nên lấy chồng. Con đã nhiều lần thưa với me rằng con không thể [41, 38]. Sự đấu tranh của các nhân vật trí thức Tây học trong tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng là sự đấu tranh cho tự do, đúng nghĩa với sự đấu tranh cho quyền được hưởng hạnh phúc chính đáng của con người và gắn với ý thức về đạo đức của người trí thức có văn hóa: “Thưa thầy me, thầy me cho con đi học, thầy me không thể cư xử với con như con vô học được nữa… nếu con không cắp sách đi học, con sẽ cho lời me là cái lệnh không trái được, con sẽ như mọi người khác bị ép uổng, rồi liều mình tự tử. Đó mới là bất hiếu… Vâng con nhận rằng con mới quá, nhưng con đã đi học, con không thể không cư xử theo sự học của con được” [41, 39 – 40]. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn khi mới ra đời đã trở thành đề tài nóng bỏng được nhiều người quan tâm tranh luận. Người khen thì khen hết lời, người chê thì chê thậm tệ, điều ấy đã phản ánh tình trạng xung đột mới – cũ đang diễn ra gay gắt trong xã hội. Nhưng có thể nói rằng, vấn đề tự do hôn nhân, tự do yêu đương vì hạnh phúc cá nhân trong các sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng đã tấn công vào lễ giáo phong kiến với những hủ tục lạc hậu trên tư cách của chính nghĩa nhân văn, của văn minh tiến bộ đã mang tới những giá trị tinh thần mới mẻ và tích cực. Không chỉ dừng lại ở việc đấu tranh cho quyền tự do cá nhân, cho hạnh phúc của riêng bản thân mình, các nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn còn mong muốn đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Họ ấp ủ trong mình những hoài bão, lý tưởng lớn. Mong muốn đem đến sự thay đổi trong cuộc sống của người dân quê, mang đến những “gam” màu tươi sáng cho bức tranh ảm đạm trong cuộc sống của những người nghèo khổ. Dũng nhận thấy cuộc sống của người dân quê chỉ là: “Cái đời lạnh lẽo, vô vị kéo dài đã mấy nghìn năm. Đã mấy nghìn năm, họ sống như bám lấy mảnh đất già cỗi, xưa thế nào giờ vẫn thế, vui ít, khổ nhiều, bao giờ cũng thảm đạm như buổi chiều đông này. Không hề khao khát một cảnh đời sáng sủa hơn, mong ước một ngày mai tốt đẹp hơn ngày hôm nay”. [41, 92 - 93]. Mong muốn thức tỉnh họ và Dũng cũng tin vào sự tiến bộ của họ: “Tôi không nghĩ như anh, vì tôi tin ở sự tiến bộ. Ta có thể làm cho họ hơn lên được” [41, 93]. Dũng có niềm tin như vậy bởi chàng hiểu sâu sắc nguyên nhân vì sao mà người dân quê cứ phải chịu khổ mãi: “Có lẽ họ đã quen với cái khổ lắm rồi nên họ không biết khổ nữa, hay họ có biết cũng không tỏ ra được” [41, 94]. Vì vậy, việc những trí thức như chàng phải làm là: “Ta phải diễn tả cho họ thấy, và những sự ta mong ước cho họ, ta phải làm cho họ mong ước như ta. Tôi hằng mong ước dân quê đỡ phải chịu hà hiếp, ức bách. Ta phải tin rằng sự ao ước ấy có thể thành sự thực và làm cho dân quê ước mong một cách tha thiết như ta” [41, 94]. Người đọc nhận ra trong tâm hồn Dũng chất chứa tinh thần yêu nước, yêu dân: “Dũng như cảm thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân” [41, 93]. Nhất Linh đã xây dựng hình ảnh nhân vật Dũng rất đẹp đẽ, giàu sức hấp dẫn. Dù ở Dũng có những biểu hiện của tinh thần yêu nước, yêu dân, nhưng hành tung của nhân vật này hết sức bí ẩn, người ta không biết Dũng đang làm công việc gì và chàng có phải là một chiến sĩ cách mạng hay không: “ Tôi về đây bằng thuyền. ở bãi Yên Phụ lên thì vào ngay đây. Vợ chồng ông giáo Lâm ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. - Anh ngạc nhiên cũng phải. Rồi Dũng bảo hai người ghé lại gần rồi nói nhỏ. Lâm nói: - Anh mà cũng làm việc này à? Dũng cười: - Việc gì mà chẳng làm được. Việc nào có thể ra tiền giúp được bạn đồng chí, tôi đều coi là tốt cả” [41, 52]. Hình ảnh người chiến sĩ chỉ thoáng xuất hiện trong tác phẩm vài lần. Một lần cái bóng của Dũng in trên khung cửa toa tầu trong một chuyến tàu đêm đi Yên Bái. Một lần Dũng bị tai nạn ô tô giữa rừng rồi gặp xe Loan và đi nhờ rồi phóng đi một cách vội vã bất chấp nguy hiểm. Một lần vào dịp tết, dừng chân bên đồn điền của Độ, thưởng thức vài cốc rượu trong một tòa nhà gạch sang trọng để tiễn năm cũ và tưởng đến nỗi khổ của người dân. Một lần khác lại ngồi trên thuyền và tưởng nhớ đến người yêu cũ. Hình ảnh của Dũng giống với hình ảnh một khách chinh phu thích sống một cuộc đời phiêu bạt khắp bốn phương trời hơn là hình ảnh của một chiến sĩ cách mạng: “Dũng hình như đi chơi một chuyến thực xa và rất nguy hiểm, thế thôi. Hình ảnh Dũng ở đây chỉ gợi lên cái mộng phiêu lưu giang hồ! Tính chất hiệp sĩ ở đây là tính chất suy tàn: động cơ yếu ớt, cái nhìn bi quan, tấm lòng phiền não” [23, 323]. Mặc dù ấp ủ trong mình những ý tưởng cao đẹp nhưng hoạt động của Dũng còn hết sức mơ hồ: “Quanh năm xuôi ngược, dừng chân lại ít ngày ở đồn điền một người bạn thân, ngồi nhàn nhã uống cốc rượu tiễn năm trong một tòa nhà gạch sang trọng, Dũng vẫn thấy mình là một người dân và càng cảm thấy cái thú man mác được hòa với đám dân không tên tuổi, sống cái đời của họ sống, mong ước như họ mong ước, khác nào một cây cỏ lẫn vào trong muôn nghìn cây cỏ ngoài nội” [41, 93]. Trong tác phẩm cũng có một số đoạn nói lên được chí hướng cách mạng của Dũng nhưng còn rất trừu tượng: “Dũng có đi hoạt động đấy, song nhân vật ấy mờ ảo quá không thể trở thành một người chân chính cách mạng được” [23, 324]. Mong ước được cống hiến cho xã hội, đem lại hạnh phúc cho người dân cũng là suy nghĩ của Lộc trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân của Khái Hưng: “Nhưng em ạ, sao anh không nghĩ tới xã hội, đem hết nghị lực tài trí ra làm việc cho đời” [25, 326]. Nhưng chí hướng đem hết tài lực ra giúp ích cho đời của Lộc cũng hết sức chung chung, mờ nhạt, chỉ là những câu hô hào yếu ớt: “Trời ơi! Anh sung sướng quá. Anh trông thấy rõ rệt con đường tương lai sáng sủa của anh rồi. Đời anh từ nay thế nào cũng đổi khác hẳn. Đời anh từ nay sẽ không riêng của anh nữa. Anh sẽ vì người khác, anh sẽ bỏ cái đời an nhàn phú quý mà dấn thân vào cuộc đời gió bụi. Anh đã trông thấy hiện ra trước mắt những sự cay cực lầm than đang đợi anh” [25, 262]. Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn thường có những vấn đề riêng, những băn khoăn đau khổ riêng. Tâm sự của nhân vật cũng chính là tâm sự của tác giả: “Nhất Linh thường ký thác tâm sự của mình vào nhân vật nên trong tiểu thuyết luận đề của ông thường có một cái tôi chân thành và cảm động” [24, 73]. Điều đáng nói là các nhân vật trí thức ấy đã nắm bắt được tư tưởng tiến bộ của thời đại, họ căm ghét những hủ tục lạc hậu của chế độ đại gia đình. Vì thế, họ đấu tranh đòi phá bỏ nền giáo lý phong kiến khắt khe nghiệt ngã, mong cải cách xã hội để hướng con người tới lý tưởng sống cao đẹp, nhưng tiếc rằng chí hướng của họ lại mang tính chất ảo tưởng và đậm màu sắc cải lương tư sản. 2.3.2. Nhân vật phụ nữ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân Các tác giả Tự lực văn đoàn dành tình cảm đặc biệt cho người phụ nữ trong chế độ đại gia đình phong kiến. Nhìn vào hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, chúng ta dễ dàng nhận thấy hầu hết các nhân vật chính trong các tác phẩm đều là những người phụ nữ và phần lớn họ là những nhân vật chính diện. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn là nạn nhân, là đối tượng bị chèn ép, áp chế. Xã hội phong kiến chỉ có cái ta chung chứ không chấp nhận sự tồn tại của cái tôi cá nhân. Con người không có quyền sống riêng mà phải tuân thủ những nguyên tắc nghiệt ngã của nền giáo lý lạc hậu mà trong đó người phụ nữ là nạn nhân trực tiếp, chịu nhiều đau khổ nhất vì những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Nếu như các nhà văn thuộc trường phái hiện thực chỉ chú ý tới cuộc sống của con người trên phương diện vật chất với những thiếu thốn đói khổ thì các nhà văn Tự lực văn đoàn lại quan tâm đến cuộc sống của con người trên phương diện tinh thần với những tình cảm sâu kín, những ước mơ khát vọng về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Giải phóng người phụ nữ là vấn đề được các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn rất quan tâm. Những nhân vật phụ nữ của Tự lực văn đoàn sống trong thời kỳ xã hội đang có nhiều biến động lớn và bản thân họ cũng đang có những thay đổi đáng kể về mặt nhận thức. Bởi lúc này họ đã được cắp sách tới trường, được tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây, được tiếp thu những tư tưởng hết sức văn minh, tiến bộ. Vì vậy họ đã mơ ước về một cuộc sống dân chủ, một cuộc sống mà họ được sống tự lập, được quyết định hạnh phúc của chính mình. Nàng Tố Tâm đã nhận thức được mình có quyền tự do yêu đương, có quyền tự do lựa chọn hôn nhân. Nhưng rồi Tố Tâm đã không có khả năng vượt qua những ràng buộc và quy tắc khắt khe của xã hội phong kiến nên kết cục là chết dần chết mòn trong đau đớn, xót xa. Đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì vấn đề quyền cá nhân, quyền tự do yêu đương đặc biệt là vấn đề giải phóng người phụ nữ đã được đề cập một cách mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Các tác giả Tự lực văn đoàn đã công khai bênh vực quyền cá nhân của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung trong xã hội. Ra đời vào năm 1934, Nửa chừng xuân đã ca ngợi tình yêu tự do, lên tiếng bảo vệ nhân phẩm của người phụ nữ và tấn công mạnh mẽ vào lễ giáo phong kiến với những tập tục lạc hậu đã đầy đọa, kìm hãm hạnh phúc cá nhân của con người. Nhân vật chính của tác phẩm là Mai, một người con gái xinh đẹp, nết na, nhân hậu, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. Là một người phụ nữ đoan trang, dám nghĩ, dám làm, trọng tự do yêu đương nhưng không hề phóng túng. Vượt lên hoàn cảnh, Mai luôn giữ được tấm lòng trong sạch của một cô gái giàu lòng tự trọng. Để có tiền nuôi em ăn học, Mai đã quyết định bán nhà ra Hà Nội buôn bán làm ăn, chấp nhận vất vả chứ kiên quyết không chịu làm lẽ Hàn Thanh – tên trọc phú giàu có nhất vùng. Đây có thể xem như hành động phản kháng đầu tiên của cô đối với xã hội phong kiến ô trọc, đồi bại. Mặc dù lâm vào cảnh túng bấn, thiếu thốn nhưng Mai không vì thế mà buông xuôi, chấp nhận số phận, mặc cho hoàn cảnh đưa đẩy. Biết bao người đàn ông giàu có, lịch lãm đã cầu hôn, mong được chăm sóc mẹ con Mai đầy đủ đến trọn đời nhưng cô vẫn một mực từ chối, bởi với cô tình yêu thì không thể san sẻ, như cô đã yêu Lộc rồi thì không thể yêu ai được nữa. Mai cho rằng không có tình yêu thì không thể chung sống hạnh phúc. Điều này cho thấy Mai không chỉ là một người phụ nữ thủy chung trong tình yêu mà còn là người phụ nữ có quan niệm hết sức tiến bộ về vấn đề tình yêu và hôn nhân. Sẵn sàng hi sinh vì người khác nhưng không vì thế mà dễ bị khuất phục. Lúc cần đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc cá nhân, bảo vệ danh dự và nhân phẩm của bản thân và gia đình, Mai cũng thể hiện là một người phụ nữ sắc sảo và không kém phần đáo để trong những cuộc đối đầu với bà Án. Khi bị bà ta chất vấn, mỉa mai xúc phạm: “Cô không biết thế nào là người hoàn toàn? Điều thứ nhất là phải trai không trộm cắp, gái không đĩ thõa” [25, 128]. Mai chẳng vừa đã rất lễ phép đáp lại: “Bẩm bà lớn nếu chỉ cần có thế thì ông Tham nhà hẳn là một người hoàn toàn” [25, 128]. Vì yêu Lộc, Mai đã tìm mọi lời lẽ thuyết phục bà Án mong nhận được sự cảm thông, thương xót của bà. Nhưng bà ta là người quá lạnh lùng sắt đá, không chút mảy may động lòng trước tình cảnh đáng thương của chị em Mai. Lòng tự trọng bị tổn thương, Mai đã quyết định ra đi và thẳng thắn chỉ ra bà ta chỉ là một kẻ ích kỉ: “Tôi không ngờ bà lớn lại là người sắt đá. Bẩm bà lớn, xin mạn phép bà lớn…bà lớn chỉ một người ích kỉ. Bà lớn theo Nho giáo mà bà lớn không nhớ câu “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” [25, 134]. Không bao giờ chấp nhận phận lẽ mọn, Mai đã tuyên bố với bà Án rằng: “Bẩm bà lớn, nhà con không có mả đi lấy lẽ” [25, 131]. Trong cuộc gặp gỡ lần đầu, Mai đã nói lên tất cả những suy nghĩ của mình về đạo đức, quan niệm sống cũng như những tư tưởng hoàn toàn mới mẻ, đối lập với quan niệm đã cũ kỹ, lạc hậu của bà Án và lớp người như bà ta. Cô đã từ chối làm lẽ Lộc, từ chối số tiền giúp đỡ mà bà Án đề nghị: “Cám ơn bà lớn, nhưng tôi không phải hạng ăn xin” [25, 135]. Tất cả những điều kiện bà Án đưa ra nhằm thỏa hiệp, dụ dỗ đều bị Mai chối từ. Lòng tự trọng của một người có nhân cách và nghị lực phi thường đã giúp chị em Mai vượt qua bao gian khổ, thử thách. Ra đi với hai bàn tay trắng, không người thân thích, không chốn nương thân, em trai lại đang đau yếu, bệnh tật… Tất cả gánh nặng đều trút cả lên đôi vai bé nhỏ của Mai. Nhưng điều đáng quý ở nhân vật này là sự tự tin, niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống, tin tưởng vào chính mình và động viên em cùng vượt qua khó khăn: “Nếu em còn thương chị thời em không được buồn, phải nhớ lời sau cùng của thầy: giữ lòng vui, linh hồn trong sạch và đem hết nghị lực ra làm việc. Ngày nay chị em ta càng cần có nghị lực” [25, 164]. Đặc biệt phẩm chất tốt đẹp của Mai còn thể hiện ở lòng biết ơn những người đã giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, khó khăn: “Bẩm nếu không có nơi thô lậu tục tằn này thì chắc đâu chị em tôi còn sống sót đến ngày nay. Bẩm vì thế, không bao giờ chúng tôi lại quên được cái nhà này cùng là những người nhân đức ở cái nhà này” [25, 168]. Vượt qua khuôn khổ hạn hẹp của lễ giáo phong kiến, Mai đã dũng cảm đến với tình yêu của Lộc bất chấp những hố sâu ngăn cách giữa hai người. Việc đấu tranh chống lại những quan niệm cũ kỹ, lạc hậu của xã hội phong kiến đã khẳng định được bản sắc của cái tôi cá nhân, Mai đã thay mặt cho lớp người theo quan niệm sống mới lên tiếng đòi quyền tự do mưu cầu hạnh phúc cho người phụ nữ. Trong suy nghĩ của cô, việc đi làm lẽ tức là đã lấy tranh chồng người khác là một hành động vô nhân đạo, trái với chữ “nhân” mà cô vẫn coi trọng: “Vì con xin thú thực với bà lớn, con không thể nào yêu chồng người khác được. Thà con chết còn hơn đi lấy lẽ. Lương tâm con không cho con làm những điều vô nhân đạo như thế” [25, 132]. Sau nhiều năm gặp lại, Mai vẫn giữ vững thái độ và lập trường của mình khi bà Án đến tìm và dụ cô về làm lẽ huyện Lộc. Khác với lần trước, bà Án giờ không còn thể hiện thái độ khinh bỉ và dọa nạt Mai. Ngược lại, bà ân cần quan tâm, ngon ngọt phỉnh nịnh cô, ca ngợi tiết giá sạch trong và tấm lòng độ lượng của cô, đồng thời bày tỏ thái độ ân hận và xin Mai tha thứ. Nhưng tất cả những chiêu thức dụ dỗ đó cũng không làm Mai lay chuyển: “Thưa cụ, 6 năm về trước, hình như tôi đã trình cụ biết rằng nhà tôi không có mả lấy lẽ” [25, 224]. Phản đối chế độ đa thê là quan điểm nhân đạo của lớp th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐóng góp của Tự Lực Văn Đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh và Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng.doc
Tài liệu liên quan