Luận văn Giải pháp để ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty Unimex Hà Nội

Nhìn chung, các sản phẩm TCMN đều thể hiện mảng đời sống hiện thực, văn hoá tinh thần với màu sắc đa dạng, hoà quyện, mang tính nghệ thuật đặc sắc. Do đó, chúng không chỉ là những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn là những vật phẩm phục vụ đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của các dân tộc.

Hơn thế, với sự phát triển của khoa học công nghệ đời sống con người ngày càng được nâng cao, nhu cầu về sản phẩm không chỉ dừng lại ở tính năng sử dụng của nó mà còn xét đến cả yếu tố thẩm mỹ nghệ thuật của nó. Chính vì thế nhu cầu về sản phẩm TCMN ngày càng cao mặc dù khoa học công nghệ ngày càng cho phép sản xuất ra nhiều sản phẩm đa dạng phong phú và đẹp nhưng các sản phẩm này thường được sản xuất hàng loạt mang tính đồng nhất, chính xác đến từng chi tiết nên biểu cảm tính nghệ thuật không nhiều. Bởi vậy, các sản phẩm TCMN dù tinh xảo hay mộc mạc vẫn luôn khẳng định được chỗ đứng trong đời sống con người.

 

doc91 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1991 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp để ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty Unimex Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tìm tòi mẫu mã, kiểu dáng mới… đã góp phần làm tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ. Còn lại tất cả các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác như: đồ lưu niêm, đồ chơi với đủ các kích cỡ, hình dáng, màu sắc… được công ty xếp chung vào nhóm các mặt hàng khác. Các sản phẩm này thường là những sản phẩm xuất khẩu có giá trị nhỏ, không thường xuyên. Tuy nhiên trong nhóm hàng này phải nói đến mặt hàng tơ tằm, là mặt hàng được thị trường Pháp rất ưa chuộng. Trong hai năm 2002, 2003 công ty đã chú trọng trong việc phát triển mặt hàng này, kết quả là kim ngạch hàng tơ tằm xuất sang Pháp của công ty ngày càng tăng. 2.2.3.Thị trường xuất khẩu Trong những năm gần đây, hàng thủ công mỹ nghệ của công ty được xuất đi hơn 30 nước trên thế giới. Công ty đã không ngừng cũng cố và duy trì những thị trường lớn như Đông Âu, Mỹ, SNG, Nhật, bước đầu thâm nhập vào thị trường Pháp, Hà Lan và khu vực Bắc Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty theo thị trường ( xem phụ lục) Hình 2.4: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN vào một số thị trường chính năm 2003 Nguồn: Báo cáo xuất khẩu trực tiếp của công ty Qua hình trên ta thấy thị trường xuất khẩu lớn nhất hiện nay của công ty là thị trường Đông Âu và thị trường các nước SNG. Đây là thị trường rộng lớn, mặc dù trong những năm vừa qua khu vực thị trường này có những biến đổi sâu sắc về kinh tế và chính trị gây khó khăn cho xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Nhưng đây lại là thị trường xuất khẩu lớn của công ty, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường này liên tục tăng, thị trường Đông Âu: từ 54.796USD(năm 2001) tăng đến 891.945USD (năm 2003); thị trường SNG: từ 182.521 USD (năm 2001) đến 203.260 USD (năm 2003); thị trường SNG: từ 182.521 USD (năm 2001) đến 203.260 USD (năm 2003). Đạt được thành công lớn này là do công ty đã biết khai thác tốt nguồn hàng xuất khẩu với những mẫu mã sản phẩm mới, chất lượng sản phẩm tốt và giá cả có sức cạnh tranh cao, phương thức bán lại phù hợp. Thị trường Mỹ, đối với Việt Nam nói chung và UNIMEX nói riêng thì đây là thị trường tiềm năng và đầy triển vọng, nhất là khi hai Chính phủ thông qua hiệp định thương mại Việt Mỹ năm 2000. Hiện nay Mỹ là thị trường rộng lớn tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty như các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ, các hàng mây tre đan. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này là 425.577 USD đứng thứ hai sau các nước Đông Âu. Tuy đây là thị trường có sức mua lớn với tất cả các mặt hàng (trung bình mỗi năm Mỹ phải nhập khẩu trên 1000 tỷ USD) song phải là những mặt hàng chất lượng tốt nếu là gốm sứ thì men phải đẹp không bi rạn nứt, nếu là hàng mây tre thì mây tre phải mềm dẻo, óng chuốt. Nắm bắt những đặc điểm trên UNIMEX đã không ngừng tăng cường quản lý chất lượng trong khâu mua hàng, điều này đưa đến cho công ty những hợp đồng lớn từ những khách hàng Mỹ. Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ lớn thứ 3 của UNIMEX đứng sau thị trường Đông Âu, SNG và Mỹ. Tuy không phải là khách hàng lớn nhất song Nhật là khách hàng lâu năm của công ty. Có thể nói thị trường Nhật Bản là mảnh đất màu mỡ mà hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung, hàng thủ công mỹ nghệ của UNIMEX nói riêng có thế mạnh khi thâm nhập thị trường này. Hàng năm, Nhật nhập khẩu trên 50 triệu USD, mặc dù đây là thị trường nhập khẩu lớn nhưng Việt Nam chỉ chiếm 1,45% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Nhật. Đây là con số khiêm tốn, nhưng theo các chuyên gia Nhật Bản hiện nay người tiêu dùng Nhật Bản rất ưa chuộng hàng thủ công mỹ nghệ và đồ lưu niệm nhập khẩu tử Việt Nam, thậm chí đã hình thành “mốt” mua hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam tại Nhật. Tuy nhiên năm 2002 Nhật đã gặp phải suy thoái kinh tế rất nghiêm trọng đã có lúc nền kinh tế tăng trưởng âm nên hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đã gặp rất nhiều khó khăn khi vào thị trường này vì nhu cầu nhập khẩu giảm thể hiện kim ngạch xuất khẩu của công ty năm 2003 chỉ còn 96.108 USD (giảm 45%). Riêng đối với khu vực EU, hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đã có mặt ở 3 nước Anh, Pháp, Đức…tuy kim ngạch xuất khẩu vào những nước này chưa cao và không ổn định nhưng đây là thị trường lớn gồm 15 nước thành viên với gần 400 triệu người. Đây là khối liên minh kinh tế chặt chẽ và sâu sắc nhất thế giới đồng thời cũng là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. Việt Nam và EU đã chính thức ký hiệp định hợp tác kinh tế và Việt Nam đã được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế ưu đãi phổ cập (GSP) và đặc biệt là những ưu đãi của thị trường này đối với các nước nghèo đang phát triển như Việt Nam. Đây là lợi thế rất lớn cho hàng thủ công mỹ nghệ của công ty. Trong những năm qua, UNIMEX Hà Nội mới chỉ xuất khẩu một số lô hàng có giá trị nhỏ sang một số nước trong khu vực Đông Nam Á. Nguyên nhân chính là do các nước Đông Nam Á như Inđônexia, Thái lan, Singapore cũng là những nước có hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống với nhiều mặt hàng đã được xuất khẩu cạnh tranh với hàng Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy vậy khách hàng Đông Nam Á vẫn ưa thích hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vì sự thanh nhã tinh xảo của mặt hàng này. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất sang thị trường này chủ yếu là đồ trang trí nội thất với kim ngạch dưới 7.000 USD/năm. Ngoài ra công ty còn xuất khẩu sang một số thị trường khác nhưg với số lượng không đáng kể. Qua sự phân tích trên có thể thấy, thị trường thủ công mỹ nghệ của công ty phân bố rải rác khắp thế giới. Đây là lợi thế của công ty khi triển khai kế hoạch mở rộng thị trườngthông qua phương thức kinh doanh mới- TMĐT. 2.3. Sù cÇn thiÕt ph¶i øng dông TM§T vµo kinh doanh xuÊt khÈu hµng thñ c«ng mü nghÖ cña c«ng ty UNIMEX 2.3.1.Sự cần thiết phải ứng dụng TMĐT vào kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty UNIMEX. 2.3.1.1. Nh÷ng thuËn lîi trong kinh doanh xuÊt khÈu hµng thñ c«ng mü nghÖ Hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng truyền thống: Được coi là cái nôi về sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Châu Á, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam từ xa xưa đã có mặt và được ưa chuộng trên thị trường Thế giới. Hàng thủ công mỹ nghệ được làm từ những nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên. Dưới bàn tay khéo léo của người thợ thủ công, những nguyên liệu trở thành những sản phẩm độc đáo mang đầy tính nghệ thuật thể hiện được truyền thống bản sắc văn hoá của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá riêng và có cách thể hiện riêng qua hình thái, sắc thái của sản phẩm. Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt giữa các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ các quốc gia khác nhau. Hàng thủ công mỹ nghệ của ta không chỉ quý ở giá trị sử dụng mà điều đặc biệt trong mỗi sản phẩm thể hiện một bề dày lịch sử lao động học tập của dân tộc Việt Nam. Những người nước ngoài sống và làm việc ở Việt Nam đều rất thích các mặt nạ, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được bày bán ở phố Hàng Mã, Hàng Gai. Sức lôi cuốn của các sản phẩm này đó là được sản xuất thủ công và từ những nguyên liệu tự nhiên là cái không tìm thấy ở các nước phát triển. Bởi vậy, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam dù tình xảo hay mộc mạc vẫn luôn khẳng định được chỗ đứng trên thị trường Thế giới. Hàng thủ công mỹ nghệ được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế của nước ta. Do vậy, trong những năm vừa qua đã có hàng loạt các chính sách khuyến khích xuất khẩu và đầu tư sản xuất chế biến hàng xuất khẩu nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng như: Quyết định số 132/200/QĐ_TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ quy định rõ là giảm 50% chi phí thuê gian hàng tại hội chợ triển lãm cho các cơ sở làng nghề nông thôn tham gia hội chợ trong nước, tài trợ một phần chi phí cho các cơ sở ngành nghề nông thôn và nghệ nhân đi thăm quan, học tập, tham gia triển lãm, giới thiệu sản phẩm, tình hình thị trường ở nước ngoài. QĐ 02_2001/TTg cũng quy định các dự án sản xuất chế biến hàng xuất khẩu đều được vay vốn tín dụng đầu tư từ Quỹ đầu tư phát triển với lãi suất ưu đãi 5,4%/năm hoặc được lãnh đến 100% khoản vay từ các tổ chức tín dụng. Thông tư số 60 của Bộ tài chính, kể từ 01/01/2001 các doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hỗ trợ chi phí hoạt động xúc tiến thương mại bằng 0,2% kim ngạch xuất khẩu trực thu trong năm. Tiếp theo thông tư số 62 của Bộ này cũng tháo gỡ các khó khăn của doanh nghiệp về chi phí hoa hồng môi giới xuất khẩu. Theo đó các chi phí này sẽ được hạch toán vào chi phí bán hàng của doanh nghiệp. Đối tượng hưởng hoa hồng xuất khẩu gồm tất cả các doanh nghiệp, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, chủ thể xuất khẩu trực tiếp theo Nghị quyết 05/2001/NQ_CP ngày 25/05/2001 đã được mở rộng: “khuyến khích thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế xuất khẩu các loại hàng hoá mà pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh.Các cơ sở sản xuất kinh doanh kể cả vừa và nhỏ đều được quyền lựa chọn tham gia trực tiếp xuất khẩu, hoặc uỷ thác”. Bên cạnh đó Nhà nước cũng đã tạo điều kiện thuận lợi như giảm các thủ tục hành chính, mở rộng quyền hoạt động xuất nhập khẩu cho các đối tượng, thiết lập các văn phòng thương mại ở một số nước khu vực hoặc thông qua đại sứ quán nước ngoài cung cấp các thông tin về khách hàng và thị trường cho các doanh nghiệp. Đặc biệt, việc ký kết các hiệp định kinh tế với các nước như Mỹ, EU, đàm phán gia nhập WTO đã giúp khả năng cạnh tranh của hàng hoá tăng gấp bội. Hơn nữa trong những năm gần đây Nhà nước ta cũng chú trọng đến khôi phục và phát triển những làng nghề truyền thồng là một tín hiệu thuận lợi cho công ty phát triển mặt hàng này vì nó có một nguồn cung ổn định đầy đủ kịp thời cho công ty. Thuận lợi từ phía Công ty: Nguồn nhân lực cũng là một lợi thế lớn của Công ty XNK và đầu tư Hà Nội. Mặc dù chưa xây dựng được các chiến lược bạn hàng và mặt hàng kinh doanh ổn định, lâu dài nhưng luôn đưa ra được các quyết định đúng đắn, giải quyết các khó khăn vướng mắc trong quá trình kinh doanh, hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Ban lãnh đạo Công ty cũng đã gắn kết được các bộ phận, các cá nhân trong Công ty với nhau tạo nên khối thống nhất, đoàn kết cùng nhau phấn đấu thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp. Thêm nữa, Công ty còn một thuận lợi là tạo dựng được một hệ thống các mối quan hệ kinh tế rộng khắp với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trong suốt thời gian hoạt động Công ty đã tạo dựng được uy tín với bạn hàng, từ đó sẽ nhận được những ưu tiên, ưu đãi trong công tác kinh doanh, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm mở rộng thị trường. Là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, công ty giành được những đơn hàng của Chính phủ trả nợ nước ngoài (Nga, Iraq..) hoặc cung cấp hàng cho chương trình viện trợ, cứu trợ trong và ngoài nước. Công ty được sự giúp đỡ của UBND thành phố, Bộ thương mại trong việc thu thập thông tin cần thiết về thị trường. Vốn và sự ổn định tài chính cũng là thuận lợi của Công ty. Với nguồn vốn dồi dào (khoảng 42 tỷ), tình hình tài chính lành mạnh ổn định Công ty có thuận lợi trong việc huy động vốn từ phía ngân hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh. 2.3.1.2. Những khó khăn trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty. Khó khăn xuất phát từ đối thủ cạnh tranh. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá như hiện nay, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh tranh do vậy mà thị phần, lợi nhuận luôn có nguy cơ bị chia sẻ. Là một trong những công ty kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp, hàng TCMN chỉ là một mặt hàng kinh doanh của UNIMEX chính vì thế công ty luôn gặp phải sự cạnh tranh rất lớn từ phía các doanh nghiệp chuyên sản xuất xuất khẩu hàng TCMN trong và ngoài nước. Hiện tính riêng tại Hà nội có khoảng 131 doanh nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, đây là một bất lợi lớn cho công ty bởi các công ty này có thể chủ động về mẫu mã nguồn hàng. Trong đó, có một số ít doanh nghiệp tập trung vào sản xuất một loại hàng đặc thù như: gốm sứ (làng gốm sứ Bát Tràng; công ty cổ phần Quang và mỹ nghệ xuất khẩu); lụa tơ tằm (công ty Tùng Thư, công ty AQ Silk); mây tre đan (công ty Barotex Việt Nam).Đặc biệt có nhiều doanh nghiệp đã tiến hành ứng dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh như 27 doanh nghiệp đã tham gia sàn giao dịch TMĐT Vnemart. Điều này làm cho kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của công ty trong những năm qua không được ổn định, kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường chính của công ty bị giảm sút cụ thể như thị trường Hàn Quốc năm 2002 là 846.740 USD (chiếm 33,88% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN), năm 2003 chỉ còn 36.481 USD (tương đương 1,91%); thị trường Đức cũng tương tự tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường này giảm từ 18,88% (năm 2001) xuống còn 0,42% (năm 2003). Một khó khăn nữa xuất phát từ sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu hàng TCMN. Hiện nay, hàng TCMN của UNIMEX nói riêng và của Việt Nam nói chung đã tìm được vị trí của mình trên thị trường thế giới song vẫn đang phải cạnh tranh khốc liệt với hàng TCMN của Trung Quốc, Indonexia, Italy, Philipin. Đây là cuộc đấu tranh không dễ dàng cho hàng TCMN của UNIMEX cũng như của Việt Nam bởi hàng TCMN của các nước này có những mặt ưu việt hơn hẳn hàng TCMN của ta về mẫu mã, về chất lượng,về giá thành..Hơn nữa, một số mặt hàng xuất khẩu của ta như thảm, gốm sứ cũng là những mặt hàng rất mạnh của họ và được thị trường thế giới rất ưa chuộng, chưa kể đó còn là những nước đi trước ta trong việc ứng dụng thương mại điện tử. Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đời sống con người ngày càng được cải thiện người tiêu dùng mong muốn được thoả mãn nhu cầu mới ở cấp độ cao hơn. Vì thế, nhu cầu tiêu dùng giữa các khu vực, giữa các quốc gia, các vùng vốn rất đa dạng và khác biệt này càng biến đổi phong phú hơn. Ngoài ra, khoa học kỹ thuật phát triển sẽ tạo ra vô vàn các sản phẩm mới, các sản phẩm có khả năng thay thế có tính ưu việt hơn hẳn các loại sản phẩm hiện tại, có chi phí thấp hơn. Do đó, Công ty sẽ gặp phải nguy cơ bị thu hẹp khả năng tiêu thụ nếu không theo kịp với sự phát triển của nhu cầu và sản xuất. Sự mâu thuẫn giữa cung và cầu ngày càng lớn, cung vượt xa cầu. Xu hướng dỡ bỏ rào cản thương mại giúp các doanh nghiệp gia nhập thị trường dễ dàng hơn. Vì thế, số lượng đối thủ cạnh tranh sẽ tăng gấp nhiều lần, cạnh tranh gay gắt tỷ suất lợi nhuận càng giảm. Khi đó, chỉ có những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh để đầu tư về công nghệ, có khả năng khai thác tốt điều kiện về môi trường mới có thể tồn tại được. Trong xu thế đó các doanh nghiệp nhỏ như Công ty phải kết hợp với nhau tạo sức mạnh tổng hợp hay chỉ có thể xâm nhập, tìm kiếm các khoảng trống nhỏ trên thị trường. Khó khăn về thị trường tiêu thụ Ngoài ra Công ty còn gặp nhiều khó khăn trở ngại trên thị trường mà Công ty đang hướng tới. Thị trường Nga, các bạn hàng phần lớn là những bạn hàng cũ, Công ty mới nối lại quan hệ. Nhu cầu nhập khẩu hàng của thị trường này khá lớn nhưng họ đang gặp nhiều khó khăn trong khâu thanh toán tiền hàng nên tình hình rất bấp bênh. Còn thị trường Nam Mỹ là thị trường mới mở của công ty nhưng cũng gặp nhiều khó khăn tương tự trong khâu thanh toán. Các bạn hàng nước này thường không muốn thanh toán bằng L/C vì chi phí rất cao, tối thiểu là 5% giá trị hợp đồng nên thường thanh toán bằng điện chuyển tiền. Ngược lại, các công ty Trung Quốc, Hàn Quốc thường cho họ trả chậm từ 60-90 ngày điều này cũng khiến cho công ty bỏ lỡ không ít những cơ hội tại thị trường này. Khó khăn do hạn chế về nguồn lực của công ty. Mặt khác, với chiến lược đa dạng hoá mặt hàng, công ty có một danh mục mặt hàng kinh doanh khá lớn điều này làm cho công ty không tránh khỏi sự phân tán. Một phòng nghiệp vụ thường đảm nhận một số mặt hàng mà mỗi mặt hàng lại có nhiều chủng loại khác nhau, thị trưòng ở các khu vực địa lý khác nhau có nhu cầu rất khác biệt. Điều này dẫn đến: - Các thông tin về thị trường chủ yếu do các tham tán của Bộ thương mại cung cấp, số ít do phòng tổng hợp của công ty thực hiện mới chỉ mang tích chất chung chung, chưa nghiên cứu được cụ thể chi tiết đặc tính yêu cầu riêng của từng loại khách hàng. - Chi phí cho hoạt động xúc tiến quảng cáo phân bổ cho từng mặt hàng còn nhỏ dẫn đến các hoạt động này được tiến hành lẻ tẻ, không đồng đều và ít có điều kiện tham dự các hội chợ chuyên ngành để tìm hiểu nhu cầu khách hàng tốt hơn. Bởi vậy, kết quả đem lại từ hoạt động này còn nhiều hạn chế. - Nguồn lực hạn hẹp lại phân chia thành các phần nhỏ khiến cho chỉ thực hiện được các hợp đồng với số lượng vừa và nhỏ, hoặc không có khả năng mở rộng thị trường. - Nguồn hàng của công ty đó là những cơ sở sản xuất tư nhân quy mô nhỏ không có lợi thế cạnh tranh theo quy mô. Khi có đơn đặt hàng lớn công ty phải đặt hàng từ nhiều cơ sở khác nhau dẫn đến không đảm bảo chất lượng, thời gian cũng như mẫu mã đã giới thiệu với bạn hàng làm giảm uy tín của Công ty. Ngoài ra Nhà nước cũng đã có nhiều chủ trương khuyến khích, hỗ trợ để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Đã có nhiều thông tư, chỉ thị, quyết định hướng dẫn thi hành nhưng khâu triển khai ở các cấp địa phương còn nhiều vướng mắc,thủ tục rườm rà gây khó khăn, trở ngại cho quá trình phát triển sản xuất, thu gom và xuất khẩu. 2.3.1.3. Đánh giá tiềm năng phát triển của ngành hàng TCMN. Nhìn chung, các sản phẩm TCMN đều thể hiện mảng đời sống hiện thực, văn hoá tinh thần với màu sắc đa dạng, hoà quyện, mang tính nghệ thuật đặc sắc. Do đó, chúng không chỉ là những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn là những vật phẩm phục vụ đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của các dân tộc. Hơn thế, với sự phát triển của khoa học công nghệ đời sống con người ngày càng được nâng cao, nhu cầu về sản phẩm không chỉ dừng lại ở tính năng sử dụng của nó mà còn xét đến cả yếu tố thẩm mỹ nghệ thuật của nó. Chính vì thế nhu cầu về sản phẩm TCMN ngày càng cao mặc dù khoa học công nghệ ngày càng cho phép sản xuất ra nhiều sản phẩm đa dạng phong phú và đẹp nhưng các sản phẩm này thường được sản xuất hàng loạt mang tính đồng nhất, chính xác đến từng chi tiết nên biểu cảm tính nghệ thuật không nhiều. Bởi vậy, các sản phẩm TCMN dù tinh xảo hay mộc mạc vẫn luôn khẳng định được chỗ đứng trong đời sống con người. Ở Việt Nam nói chung, Hà nội nói riêng sản xuất hàng TCMN gần đây đang khởi sắc. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp TCMN ở Hà Nội được thành lập vào những năm 1990, đặc biệt khoảng 5 năm trở lại đây, đã có 84 doanh nghiệp thành lập mới trong tổng số 131 doanh nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh hàng TCMN. Điều này chứng tỏ sức vươn lên mạnh mẽ của một ngành nghề truyền thống; đồng thời cũng chứng tỏ thị hiếu của người tiêu dùng đã có nhiều thay đổi tích cực đối với mặt hàng này. Mặt khác, Nhà nước đang thực thị các chính sách khôi phục làng nghề, khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng TCMN truyền thống như mây tre đan, gốm sứ, điêu khắc, chạm khảm. Do vậy mà sản phẩm được sản xuất ra ngày càng phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã, kịp thời phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tất cả các đặc điểm nói trên cho thấy tiềm năng to lớn của ngành hàng này trong tương lai. 2.3.1.3.Sự cần thiết phải ứng dụng thương mại điện tủ trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty UNIMEX. Xuất phát từ những khó khăn trong việc kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ do tính chất đặc thù của ngành hàng là một ngành hàng truyền thống có từ lâu đời thì khó khăn lớn nhất không phải nằm ở vấn đề sản xuất mà lại lại là yếu tố thông tin. Chúng ta có sản phẩm, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty có giá trị văn hoá thẩm mỹ, giá trị sử dụng cao và rất được ưa chuộng, tiềm năng của ngành hàng rất lớn, phát huy đúng lợi thế của đất nước. Nhưng sự chậm trễ trong việc tiếp cận với công nghệ thông tin hiện đại đã hạn chế rất nhiều sự phát triển của ngành hàng này. Những khó khăn trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã cho thấy vai trò kém hiệu quả của thương mại truyền thống đối với sự phát triển của ngành hàng này. Hiện nay,một khối lượng rất lớn hàng hóa của Thế giới được mua bán thông qua mạng Internet bởi đây là một môi trường để tiến hành giao dịch vô cùng thuận lợi, đơn giản ít tốn kém chi phí giao dịch, cũng như rất nhiều lợi ích mà TMĐT đã đem lại. 2.3.2.Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty UNIMEX. 2.3.2.1. Về mức độ ứng dụng Việc ứng dụng thương mại điện tử ở mức độ nào phụ thuộc vào loại hình kinh doanh và mục tiêu mà công ty muốn đạt tới. Tuy nhiên mục tiêu muốn đạt tới của công ty luôn bị giới hạn bởi hạ tâng của sự phát triển TMĐT ở mỗi lĩnh vực, mỗi quốc gia. Do vậy, công ty muốn đặt mục tiêu cho mình trong việc ứng dụng thương mại điện tủ vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu phải dựa trên nền tảng cơ bản của sự phát triển. Mới bắt đầu ứng dụng TMĐT từ năm 2001, hiện nay UNIMEX Hà nội mới chỉ ứng dụng TMĐT ở mức độ ban đầu đó là sử dụng thư điện tử (email) để thực hiện các giao dịch như: - Trao đổi thông tin với khách hàng (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước) về các vấn đề như dặt hàng, thông báo về giá cả các loại hàng hoá,… - Gửi các thông tin về Công ty cho các đối tác có liên quan hoặc khách hàng mới (ví dụ như thông tin về tên địa chỉ, loại hình kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, nhu cầu của doanh nghiệp..) Thực tế cho thấy, lợi ích sử dụng email là rất nhanh, rất rẻ và hết sức thuận tiện. Nhân viên của công ty thay vì soạn thảo văn bản ra giấy, mua phong bì dán tem rối đem bỏ tại bưu điện và chờ đợi thì nay chỉ cần chọn địa chỉ và gửi (send). Công đoạn này chỉ mất vài phút và chi phí không đáng kể (chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua fax, bằng 0,05% thời gian giao dịch qua bưu điện và chi phí chỉ bằng 5% chi phí giao dịch qua fax). Ngoài việc sử dụng email để thực hiện các giao dịch thương mại thì công ty cũng đã bước đầu sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin bằng các công cụ tìm kiếm phổ biến như: - Yahoo.com - Infoseek.com - Altavista.com - Google.com Việc thành lập Trung tâm phát triển thông tin cũng là một minh chứng cho vấn đề này. Qua Internet công ty đã khai thác được thông tin về thị trường, đối thủ cạnh tranh, tin tức về các ngành nghề có liên quan đến hoạt động của công ty. Đồng thời công ty cũng đã tìm kiếm được các cơ hội kinh doanh với đối tác trong và ngoài nước. Hiện công ty đã có một số địa chỉ Internet rất hữu ích và công ty thường xuyên truy cập vào đó để tìm kiếm thông tin. Với lượng thông tin “khổng lồ”, “phong phú”,với việc đơn giản và dễ dàng download thông tin từ Website về máy tính của mình đã làm cho công ty phần nào nhận thực được lợi ích của việc sử dụng Internet và trên hết là lợi ích của TMĐT. Qua quá trình ứng dụng công ty cũng đã xây dựng được một số địa chỉ email đáng tin cậy, ngoài địa chỉ email chung của công ty, mỗi phòng nghiệp vụ của công ty đều có địa chỉ email riêng tạo thuận tiện cho việc giao dịch. Ví dụ như: Địa chỉ email của công ty: unimexhanoi@hn.vnn.vn Phòng kinh doanh 1: unimexhanoi-kd1@hn.vnn.vn Phòng kinh doanh 2: unimexhanọi-kd2@hn.vnn.vn Phòng kinh doanh 3: unimexhanọi-kd3@hn.vnn.vn Phòng kinh doanh 4: unimexhanọi-kd4@hn.vnn.vn Phòng kinh doanh 5: unimexhanọi-kd5@hn.vnn.vn Điều này tạo cho mỗi phòng nghiệp vụ của công ty có điều kiện trực tiếp theo dõi những thương vụ kinh doanh của mình. Bên cạnh đó công ty cũng đã xây dựng cho mình một bộ sưu tập các địa chỉ các trang web để có thể tìm kiếm thông tin như: website của bộ thương mại, chuyên cung cấp các thông tin về chính sách thương mại; thị trường trong và ngoài nước; các hoạt động xúc tiến thương mại.. website hỗ trợ doanh nghiệpViệt Nam, chuyên cung cấp thông tin kinh tế, các vấn đề liên quan đến thị trường xuất nhập khẩu; các vấn đề về tài chính doanh nghiệp; hoạt động Marketing; cách thức tổ chức doanh nghiệp .. webiste về thương mại điện tử, chuyên cung cấp các thông tin cơ bản về TMĐT; đao luật mẫu về TMĐT (UNCITRAL), tình hình hoạt động trên thế giới.. : website chuyên cung cấp thông tin về thị trường các nước Châu Âu… Hiện nay, công ty mới chuẩn bị bước vào ứng dụng ở mức độ 2 đó là xây dựng Website quảng cáo. Đó là mục tiêu mà Ban lãnh đạo Công ty đề ra trong năm 2004. Việc ứng dụng TMĐT ở công ty do Ban giám đốc phụ trách, đứng đầu là Giám đốc cùng với sự tham mưu của các cán bộ Trung tâm phát triển thông tin của công ty giúp Ban giám đốc trong việc ra quyết định, đề ra từng bước đi trong tiến trình ứng dụng TMĐT. Việc thực hiện được giao cho Trung tâm phát triển thông tin phối hợp với các phòng ban chức năng khác của công ty như phòng kế toán tài vụ, phòng kế hoạch. Tuy nhiên do đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo có hệ thống về TMĐT nên việc tham mưu cho Ban giám đốc trong việc xây dựng kế hoạch ứng dụng cũng như việc thực hiện chưa được bài bản. 2.3.2.2. Thực trạng về khả năng ứng dụng. Khả năng ứng dụng TMĐT đó là khả năng nội tại của doanh nghiệp (khả năng về tài chính, khả năng về nhân lực, về cơ sở hạ tầng công nghệ mạng). Vì vậy để đánh giá khả năng ứng dụng TMĐT của UNIMEX ta có bảng sau: Qua bảng trên ta có thể xác định được mức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24998.DOC
Tài liệu liên quan