Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội

Mục lục

 

Lời mở đầu 1

Chương I. Vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. 3

1.1. Vốn lưu động và vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 3

1.1.1. Vốn lưu động và nguồn hình thành vốn lưu động của doanh nghiệp. 3

1.1.1.1. Vốn lưu động của doanh nghiệp. 3

1.1.1.2. Nguồn hình thành vốn lưu động của doanh nghiệp. 7

1.1.2. Vai trò của vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 10

1.1.3. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp. 11

1.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 14

1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 14

1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu xác định hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 15

1.2.2.1. Chỉ tiêu đánh giá tốc độ luân chuyển vốn lưu động. 18

1.2.2.2. Chỉ tiêu hàm lượng vốn lưu động. 19

1.2.2.3. Chỉ tiêu về doanh lợi. 19

1.2.2.4. Các chỉ tiêu khác. 19

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 21

1.3.1. Các nhân tố bên ngoài. 21

1.3.2. Các nhân tố bên trong. 23

Chương II. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội. 25

2.1. Khái quát về công ty. 25

2.1.1. Sơ lược sự phát triển và hình thành của công ty. 25

2.1.2. Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất và quản lý tài chính kế toán của công ty. 26

2.1.2.1. Đặc điểm tổ chức quản lý. 26

2.1.2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất. 27

2.1.2.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán. 27

2.1.3. Đặc điểm quy trình công nghệ. 28

2.1.4. Đặc điểm sản xuất kinh doanh. 28

2.1.4.1. Đặc điểm về kinh doanh của công ty. 28

2.1.4.2. Một số thuận lợi, khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội. 29

2.1.5. Khái quát kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm gần đây. 31

2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội. 33

2.2.1. Đánh giá về nguồn vốn và cơ cấu vốn lưu động của công ty. 33

2.2.1.1. Vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty. 33

2.2.1.2. Vốn lưu động của công ty. 36

2.2.2. Tình hình quản lý vốn lưu động của công ty. 39

2.2.2.1. Tình hình quản lý vốn bằng tiền của công ty. 39

2.2.2.2. Tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty. 43

2.2.2.3. Tình hình quản lý hàng tồn kho của công ty. 45

2.2.3. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. 47

2.3. Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội. 49

2.3.1. Những kết quả đạt được. 49

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân. 50

Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội. 53

3.1. Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. 53

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội. 54

3.2.1. Thực hiện tốt việc kế hoạch hoá vốn lưu động và chủ động trong việc huy động vốn. 54

3.2.2. Quản lý tốt công nợ và công tác tiêu thụ sản phẩm 58

3.2.3. Quản lý tốt và giảm thiểu chi phí dự trữ tồn kho. 61

3.2.4. Tăng cường công tác quản lý ngân quỹ. 63

3.2.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, tăng cường khả năng cạnh tranh. 65

3.3. Kiến nghị. 69

3.3.1. Kiến nghị với Nhà Nước. 69

3.3.2. Kiến nghị với Hiệp hội xe đạp, xe máy Việt Nam. 70

3.3.3. Kiến nghị với các bộ ngành liên quan. 71

Kết luận 72

 

 

 

doc95 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhuận bổ sung thêm cho nguồn vốn chủ sở hữu. Xét về tính ổn định của nguồn vốn, ta thấy: * Nguồn vốn thường xuyên = Vay dài hạn + Vốn chủ sở hữu Đầu năm: Nguồn vốn thường xuyên = 5.552.269.776 + 7.909.997.530 = 13.462.267.306 đồng, chiếm tỷ trọng 83,42% trong tổng nguồn vốn. Trong đó, đầu tư vào tài sản cố định là 12.137.288.505 đồng, chiếm 90,15%. Do vậy, nguồn vốn thường xuyên cho nhu cầu VLĐ chỉ còn lại là 1.324.978.800 đồng, chiếm 9,85% nguồn vốn thường xuyên. Cuối năm: Nguồn vốn thường xuyên = 6.276.410.000 + 8.742.701.738 = 15.019.111.738 đồng, chiếm tỷ trọng 72,94% tổng nguồn vốn. Trong đó, riêng đầu tư vào tài sản cố định đã là 15.805.381.060 đồng. Như vậy, nguồn vốn thường xuyên ở thời điểm cuối năm không đáp ứng được nhu cầu VLĐ mà thậm chí không đủ để đầu tư vào tài sản cố định. Đây là một khuyết điểm của doanh nghiệp. Là một doanh nghiệp sản xuất thuộc ngành cơ khí nên giá trị tài sản lưu động của công ty chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn trong tổng tài sản, nhưng với quy mô và tỷ trọng ngày càng lớn, thì việc sử dụng hiệu quả vốn lưu động của công ty càng trở nên quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Do vậy, công ty cần nhanh chóng tìm ra nguyên nhân để khắc phục trong những kỳ tiếp theo. * Nguồn vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn Đầu năm: Nguồn vốn tạm thời = 2.531.106.363 đ, chiếm 15,68% tổng nguồn vốn Cuối năm: Nguồn vốn tạm thời = 5.455.186.432 đ, chiếm 26,49% tổng nguồn vốn Từ những tính toán trên, ta có thể đi đến nhận xét, đánh giá khái quát tình hình nguồn vốn kinh doanh của công ty trong năm qua như sau: Hệ số nợ của công ty là khá ổn định và ở mức có thể chấp nhận được. Khả năng tự chủ của công ty là khá cao, ít bị sức ép từ phía các chủ nợ. Tính ổn định của nguồn vốn kinh doanh là không tốt, nguồn vốn thường xuyên đầu tư cho VLĐ là quá ít, thậm chí còn không có nên chắc chắn công ty sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc huy động VLĐ phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để đủ VLĐ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, công ty phải đi vay nợ với lãi suất cao. Nhưng nguồn vốn thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn (72,94%) nên vẫn có thể đảm bảo an toàn về tài chính của doanh nghiệp. 2.2.1.2. Vốn lưu động của công ty. 2.2.1.2.1. Nguồn hình thành vốn lưu động của công ty. Với mỗi loại hình doanh nghiệp cụ thể lại có các nguồn hình thành vốn khác nhau. Là một doanh nghiệp sản xuất nên VLĐ của công ty chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Nguồn vốn lưu động của công ty gồm: + nguồn VLĐ thường xuyên + nguồn VLĐ tạm thời Nguồn VLĐ thường xuyên tạo ra mức độ an toàn cho doanh nghiệp trong kinh doanh và làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được đảm bảo vững chắc hơn. Nhu cầu VLĐ thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Đầu năm chỉ số này là: 1.468.860.896 đồng, chiếm 36,72% tổng số tài sản lưu động. Cuối năm, nhu cầu VLĐ thường xuyên = 4.782.901.010 – 5.455.186.432 = - 672.285.422 đồng. Chỉ tiêu nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp cuối năm là một số âm chứng tỏ doanh nghiệp đã vay cả ngắn hạn để đầu tư vào TSCĐ. Điều này có ưu điểm là tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm hơn nữa chi phí sử dụng vốn, song nó lại tạo ra rất nhiều rủi ro cho hoạt động của doanh nghiệp, làm giảm khả năng tự chủ (đấy là chưa kể đến trường hợp doanh nghiệp mất cả khả năng thanh toán). Vì vậy, doanh nghiệp không nên mạo hiểm và cần thận trọng hơn trong việc lựa chọn chính sách tài trợ nhu cầu VLĐ nói riêng và nhu cầu vốn kinh doanh nói chung của mình. Để xem chi tiết, ta có thể theo dõi bảng sau: Xem bảng 4 trang 37A Nhìn vào bảng này ta thấy, lượng vốn vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn VLĐ. Điều này cũng là thực trạng chung của doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. Trong điều kiện vốn ngân sách cấp quá ít, không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh thì việc các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng để vay vốn là một giải pháp tất yếu. Đầu năm, nguồn VLĐ tạm thời là 2.531.106.363 đồng thì đến cuối năm đã tăng lên 5.455.186.432 đồng. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến sự chủ động về VLĐ. Từ đó, có thể gây ra khó khăn cho công ty khi thực hiện chiến lược kinh doanh, nhất là chiến lược kinh doanh lâu dài. Có một điều dáng quan tâm ở đây là thời điểm cuối năm thì khoản nợ ngắn hạn của công ty lại lớn hơn TSLĐ. Chứng tỏ doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng dùng TSLĐ để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn này. Đây là một điều không an toàn đối với hoạt động của công ty, và công ty phải nhanh chóng tìm ra nguyên nhân cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề này. 2.2.1.2.2. Cơ cấu vốn lưu động của công ty. Nhìn vào Bảng 5 trang 38A ta thấy: VLĐ của công ty tính đến thời điểm cuối năm 2003 là 4.782.901.010 đồng, tăng so với đầu năm là 782.933.751 đồng, với tỷ lệ tăng tương ứng là 20%. Sự tăng lên của VLĐ chủ yếu là do các khoản phải thu và hàng tồn kho (hai khoản mục chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu VLĐ) đều tăng. Cụ thể: các khoản phải thu đến cuối năm 2003 là 2.901.740.429 đồng, tăng tuyệt đối so với đầu năm là 1.321.398.088 đồng, tương đối là 84%. Đây là khoản mục vốn lớn nhất, chiếm 61% VLĐ của công ty. Hàng tồn kho cuối năm 2003 là 1.706.815.152 đồng, chiếm tỷ trọng 36% trong tổng VLĐ; đã tăng so với đầu năm là 404.110.704 đồng (31%). Khoản vốn bằng tiền là 156.502.429 đồng vào thời điểm cuối năm, chỉ chiếm 3% tổng VLĐ và giảm so với đàu năm là -955.699.541 đồng với tỷ lệ là 86%. Tài sản lưu động khác là 17.843.000 đồng chiếm 0,37% tổng VLĐ và tăng so với đầu năm là 13.124.500 đồng với tỷ lệ tăng là 278%. Khoản mục này chỉ có khoản tạm ứng. Qua việc xem xét tình hình VLĐ của công ty, ta thấy cơ cấu VLĐ còn nhiều điều bất hợp lý. Sự bố trí vốn trong các khoản phải thu và hàng tồn kho còn lớn gây nên hiện tượng ứ đọng vốn cả trong thanh toán và cả trong khâu dự trữ. Đặc biệt là với các khoản phải thu, công ty cần phải cố gắng trong công tác tổ chức thu hồi nợ và có biện pháp điều chỉnh hợp lý, bởi vì khoản phải thu chiếm một tỷ trọng lớn (61% trong tổng số VLĐ). Nhưng điều đáng chú ý hơn cả là doanh nghiệp đã để cho khách hàng chiếm dụng vốn trong khâu thanh toán với một tỷ lệ tăng quá lớn: cuối năm so đầu năm tăng 84%, tương ứng với số tiền là 1.320.106.032 đồng. Khoản thuế giá trị gia tăng được khấu trừ còn tăng mạnh hơn: nếu như đầu năm khoản thu của doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước chỉ có 7.196 đồng thì cuối năm con số này đã tăng lên 1.299.252 đồng, tương ứng là tỷ lệ 17955%, một tỷ lệ tăng quá lớn. Mặc dù khoản mục TSLĐ khác chỉ chiếm 0,3% trong tổng số VLĐ ở thời điểm cuối năm nhưng doanh nghiệp cũng vẫn cần phải xem xét sự hợp lý của khoản mục này. Nếu như khoản tạm ứng ở đầu năm chỉ có 4.718.500 đồng thì đến cuối năm đã tăng lên 17.843.000 đồng, tức là tăng so với đầu năm là 13.124.500 đồng, tương ứng với tỷ lệ là 278%, một tỷ lệ rõ ràng là không nhỏ. Tất cả những điều nằy chắc chắn không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến cả hoạt động sản xuất kinh doanh, vì vậy doanh nghiệp cần phải đặc biệt quan tâm. 2.2.2. Tình hình quản lý vốn lưu động của công ty Xe đạp, xe máy Đống Đa Hà Nội. 2.2.2.1. Tình hình quản lý vốn bằng tiền của công ty. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ một lượng tiền nhất định để đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu cần thiết. Vốn bằng tiền là một yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định, đòi hỏi phải có một lượng vốn bằng tiền để đảm bảo cho quá trình tài chính ở trạng thái bình thường. 2.2.2.1.1.. Khái quát tình hình sử dụng vốn bằng tiền của công ty. Xem bảng 6 trang 39A ta thấy: Vốn bằng tiền tại thời điểm cuối năm 2003 là 156.502.429 đồng, giảm so với đầu năm là 955.699.541 đồng với tỷ lệ giảm là 86% làm cho tỷ trọng các loại vốn này trong tổng VLĐ cuối năm 2003 là 3%. Vốn bằng tiền giảm là do các nguyên nhân sau: Tiền mặt tại quỹ giảm 28.766.701 đồng với tốc độ giảm là 34%. Cụ thể: đầu năm tiền mặt tại quỹ là 84.006.649, chiếm 8% tổng số vốn bằng tiền. Đến cuối năm, tiền mặt tại quỹ còn 55.236.948 đồng (35% tổng số vốn bằng tiền). Việc dự trữ một lượng tiền mặt thấp sẽ giúp cho công ty tăng cường được các tài sản lưu động sinh lãi, giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Về tiền gửi ngân hàng của công ty vào thời điểm cuối năm 2003 là 101.265.481 đồng, giảm so với đầu năm là 926.929.840 đồng với tỷ lệ 90%. Điều này có thể được giải thích bởi ở thời điểm cuối năm là thời gian sản phẩm của công ty được tiêu thụ mạnh, công ty phải tăng cường sản xuất nên các khoản chi tăng. Chính vì vậy cả khoản tiền mặt tại quỹ lẫn khoản tiền gửi ngân hàng đều giảm so với đầu năm. Qua việc phân tích tình hình sử dụng vốn bằng tiền của công ty, ta thấy tỷ trọng vốn bằng tiền trong tổng VLĐ là tương đối nhỏ, nhất là ở giai đoạn cuối năm. Trong thời gian tới công ty cần phải xem xét và điều chỉnh sao cho số đầu kỳ và số cuối kỳ cân đối nhau để luôn dảm bảo có đủ một khối lượng tiền nhất định để thanh toán các khoản nợ đến hạn và khoản chi tiêu hàng ngày của công ty. 2.2.2.1.2. Phân tích khả năng thanh toán của công ty. Việc dự trữ một lượng vốn bằng tiền nói riêng và tình hình VLĐ nói chung có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trưòng, các đối tác kinh doanh, nhất là các bạn hàng thường xuyên, hay quan tâm đến khả năng thanh toán để xem xét, đưa ra các quyết định tài chính khi quan hệ vơi doanh nghiệp. Với công ty Xe đạp, xe máy Đống Đa Hà Nội thì việc xem xét khả năng thanh toán còn có ý nghĩa điều chỉnh lại tình hình tài chính của mình, đảm bảo khả năng thanh toán được tốt hơn. Sau đây ta xem xét, đánh giá một số chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của công ty: * Hệ số thanh toán tổng quát = Hệ số thanh toán tổng quát đầu năm = = 1,96 Hệ số thanh toán tổng quát cuối năm = = 1,73 Hệ số thanh toán tổng quát đầu năm và cuối năm đều lớn hơn 1, chứng tỏ các khoản huy động bên ngoài đều được đảm bảo. Công ty có khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn bằng tài sản của mình. * Hệ số thanh toán tạm thời = Hệ số thanh toán tạm thời đầu năm = = 1,58 Hệ số thanh toán tạm thời cuối năm = = 0,87 Hệ số thanh toán tạm thời của công ty đầu năm lớn hơn 1, có nghĩa là công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng 1 năm hoặc một kỳ kinh doanh. Nhưng đến thời điểm cuối năm thì hệ số này lại nhỏ hơn 1(0,87), điều đó có nghĩa là mức độ đảm bảo của TSLĐ với nợ ngắn hạn là hầu như không có (hay công ty khó có thể thanh toán các khoản nợ trong kỳ). Điều này là khá nguy hiểm và không an toàn đối với hoạt động của công ty. Để tìm hiểu thêm về vấn đề thanh toán nợ của công ty, ta đi xem xét thêm 2 chỉ tiêu là hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán tức thời. * Hệ số thanh toán nhanh = Hệ số thanh toán nhanh đầu năm = = 1,06 Hệ số thanh toán nhanh cuối năm = = 0,56 Hệ số thanh toán nhanh đầu năm lớn hơn 1 nên vẫn có thể coi là an toàn. Nhưng hệ số này cuối năm giảm xuống còn 0,56, chứng tỏ công ty sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ vì vào lúc cần, công ty có thể buộc phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán các tài sản với giá thấp để trả nợ. * Hệ số thanh toán tức thời = Hệ số thanh toán tức thời đầu năm = = 0,43 Hệ số thanh toán tức thời cuối năm = = 0,02 (Do không có số liệu về nợ đến hạn của công ty, nên số liệu dùng là tổng nợ ngắn hạn) Hệ số thanh toán tức thời là chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp mà không cần dùng các khoản phải thu từ bán hàng tồn kho. Hệ số này của công ty trong năm 2003 đã giảm từ 0,43 ở đầu năm xuống còn 0,02 cuối năm. Điều đó chứng tỏ tình hình thanh toán của công ty không mấy khả quan. Lượng tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng không đủ để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đã cho thấy vốn bằng tiền của công ty đóng vai trò mờ nhạt trong thanh toán. Để xem xét một cách toàn diện, ta có thể xem xét bảng chỉ tiêu tổng hợp: Bảng 7 trang 42A Từ những phân tích trên ta thấy: Khả năng thanh toán của công ty là không được tốt, công ty đang và sẽ gặp phải những khó khăn trong việc trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn. Ta nhận thấy rằng cả 4 chỉ tiêu thanh toán trên đều giảm dần vào thời điểm cuối năm khi mà lượng tiền dự trữ còn quá ít. Điều này có thể sẽ khiến doanh nghiệp buộc phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán các tài sản với giá thấp để trả nợ lúc cần thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Công ty cần phải xác định lại việc dự trữ tiền mặt sao cho phù hợp. Mặt khác, ta cũng nhận thấy rằng khả năng thanh toán nhanh của công ty phần lớn được đảm bảo bằng các khoản phải thu. Do đó, nếu các khoản phải thu gặp rủi ro (trở thành nợ khó đòi) thì công ty sẽ mất khả năng thanh toán. Thực tế này đã đặt công ty trước một vấn đề hết sức khó khăn là phải có biện pháp quản lý các khoản phải thu sao cho có thể nhanh chóng thu hồi nợ khi nhu cầu thanh toán phát sinh. 2.2.2.2. Tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thường chiếm dụng vốn lẫn nhau nhằm tăng thêm vốn kinh doanh, hay nói cách khác, các khoản phải thu, phải trả thường xuyên phát sinh. Tuy nhiên, nếu các khoản công nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng gia tăng sẽ gây khó khăn cho tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chính vì vậy, giảm công nợ phải thu, nhanh chóng thu hồi tiền hàng, chiếm dụng vốn hợp lý… là vần đề có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý VLĐ tại công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội. Để xem xét tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty, ta xem xét bảng sau: Bảng 8 trang 43A Qua bảng, ta thấy tổng các khoản phải thu đến cuối năm 2003 là 2.901.740.429 đồng, tăng so với đầu năm là 1.321.398.088 đồng, với tỷ lệ tăng là 84%. Khoản mục quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng khá cao là khoản mục phải thu của khách hàng, chiếm đến 99,96% tổng các khoản phải thu. Khoản phải thu của khách hàng đến cuối năm 2003 là 2.900.441.177 đồng, tăng so với đầu năm là 1.320.106.032 đồng, với tỷ lệ tăng là 84%. Khoản mục này tăng chứng tỏ việc cấp tín dụng của công ty là không hiệu quả, các khoản tín dụng thương mại mới không giúp công ty bán thêm được hàng. Theo số liệu của công ty, không có khoản nợ nào của công ty là nợ khó đòi. Thực tế, khách hàng của công ty đều là bạn hàng quen, đã có quan hệ với công ty trong thời gian dài; không có công ty nào chậm trả tiền do lâm vào tình trạng sản xuất quá khó khăn. Kết luận duy nhất có thể đưa ra là khách hàng của công ty đã lợi dụng chính sách tín dụng của công ty để kéo dài thời hạn trả tiền nhằm chiếm dụng vốn tạm thời của công ty. Nguyên nhân của sự chây ì này là tuy công ty có định ra thời hạn trả tiền và mức lãi suất phạt khi khách hàng trả tiền sau thời hạn, song trên thực tế, các chính sách này không được áp dụng. Tình hình này đòi hỏi công ty cần phải kiên quyết hơn nữa trong việc đẩy nhanh tốc độ thu tiền. Đây là cách tốt nhất để một đồng vốn lưu động của công ty có thể tạo ra nhiều đồng doanh thu hơn nữa. Khoản thuế giá trị gia tăng (GTGT) được khấu trừ cuối năm 2003 đã tăng so với đầu năm là 1.292.056 đồng, với tỷ lệ tăng là 17955%. Để hiểu rõ hơn về công tác quản lý các khoản phải thu, ta xem xét tốc độ thu hồi nợ của doanh nghiệp qua một số các chỉ tiêu sau: Xem bảng 9 trang 44A Vòng quay các khoản phải thu trong năm 2003 là 3,23 vòng giảm so với năm 2002 chứng tỏ doanh nghiệp đã quản lý không tốt các khoản phải thu, cấp tín dụng cho khách hàng không hiệu quả. Tình trạng này vẫn dễ xảy ra sự thiếu hụt về vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Kỳ thu tiền trung bình là 111 ngày, tăng 9 ngày so với so với năm 2002. Đây là một biểu hiện không tốt, công ty đã để khách hàng chiếm dụng một lượng vốn lớn hơn năm ngoái và để thu hồi được một phải thu, công ty phải mất gần 3 tháng. So với định mức thu tiền mà công ty đặt ra là 55 ngày thì con số trên là quá cao. Như vậy, sẽ làm tốc độ luân chuyển VLĐ chậm lại, đồng thời làm phát sinh các khoản nợ vay từ ngân hàng cho phần vốn đã cấp tín dụng cho khách hàng. Tỷ trọng nợ phải thu bình quân trên 100 đồng doanh thu của năm 2003 là 31%, tăng 3% so với năm 2002. Điều này gây cho công ty nhiều khó khăn khi cần sử dụng vốn để tái đầu tư bởi vì khi đó, số tiền này đã bị các đơn vị khác chiếm dụng. Đấy là chưa kể rủi ro khi các khoản phải thu này trở thành nợ khó đòi. Lúc đó, số doanh thu mà doanh nghiệp thực đạt được sẽ giảm đi. Vì vậy, ngoài việc phấn đấu để tăng doanh thu thì doanh nghiệp cũng phải song song phấn đấu để giảm các khoản phải thu. Khi đó, những kết quả mà doanh nghiệp cố gắng phấn đấu trong suốt năm sẽ thực sự đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Để đánh giá kỹ hơn về tình hình công nợ của công ty, ta đi sâu xem xét và so sánh giữa khoản mà công ty phải thu hồi với khoản mà công ty phải trả. Ta chỉ so sánh các khoản phải thu với các khoản phải trả mang tính chất chu kỳ - đó là những khoản không phải trả lãi: Xem bảng 10 trang 45A Cuối năm 2003, số tiền phải trả lớn hơn số tiền phải thu, chứng tỏ công ty đi chiếm dụng nhiều hơn là bị chiếm dụng. Công ty đã bị chiếm dụng một khoản là 2.901.740.429 đồng, trong khi đó số tiền chiếm dụng được là 5.455.186.432 đồng. Việc chiếm dụng này sẽ giúp công ty đỡ gặp khó khăn hơn đối với những khoản đã bị khách hàng chiếm dụng, đồng thời tạo cho công ty nắm bắt những cơ hội kinh doanh mới. Tóm lại, qua những phân tích trên cho thấy rằng: trong thời gian tới công ty nên có những biện pháp để giảm tới mức tối thiểu những khoản tín dụng bị khách hàng chiếm dụng, đồng thời cũng nên tận dụng tới mức tối đa những khoản tín dụng có thể chiếm dụng được và phải sử dụng có hiệu quả khoản đi chiếm dụng này. 2.2.2.3. Tình hình quản lý hàng tồn kho của công ty. 2.2.2.3.1. Tình hình tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu là một trong những chỉ tiêu chủ yếu nhằm đánh giá kết quả hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đồng thời cũng là thước đo để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ. Trong doanh thu, số lượng sản phẩm tiêu thụ lại là nhân tố tác động chủ yếu. Vì vậy, để có thể tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, ta nghiên cứu Bảng 11 trang 45B Ta nhận thấy rằng những sản phẩm tiêu thụ truyền thống của công ty như phanh, bàn đạp, chân chống trong năm 2003 đều giảm so với năm 2002. Sự giảm sút này là do trong năm, công ty đã sản xuất và tiêu thụ thêm nhiều sản phẩm mới nên việc tập trụng này khiến cho các sản phẩm truyền thống đã không đạt bằng kết quả của năm trước. Nhưng sự tập trung này thực sự có hiệu quả vì trong năm 2003, doanh thu của doanh nghiệp đã tăng 72% so với năm 2002, và chính điều này đã giúp cho hiệu quả sử dụng VLĐ của năm 2003 tốt hơn so với năm 2002. Đây có thể coi là một thành công của doanh nghiệp, và doanh nghiệp cần phải phát huy trong những năm tiếp theo. 2.2.2.3.2. Tình hình quản lý hàng tồn kho. Việc dự trữ hàng tồn kho là nhu cầu thông thường đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải xem xét để cân đối mức dự trữ. Nếu dự trữ quá lớn sẽ làm cho hàng hoá dư thừa, gây ứ đọng làm giảm hiệu quả kinh doanh. Nếu dự trữ quá thấp có thể gây thiếu hụt, làm giảm sự nhịp nhàng trong sản xuất… gây khó khăn cho việc đảm bảo nhu cầu hàng hoá của thị trường, làm gián đoạn quá trình kinh doanh và gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Qua Bảng 12 trang 46A ta thấy: Hàng tồn kho cuối năm 2003 đã tăng 408.010.704 đồng so với đầu năm, với tỷ lệ tăng 31%. Hàng tồn kho tăng lên chủ yếu là do chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (CPSXKD dở dang) và nguyên vật liệu tồn kho tăng. Cụ thể: Nguyên vật liệu tồn kho cuối năm chiếm một tỷ trọng 31% trong tổng hàng tồn kho, và khoản mục này đã tăng so với đầu năm là 93.890.426 đồng, tỷ lệ tăng 22%. Nguyên vật liệu tăng lên một phần là do nhiều nguyên vật liệu công ty sử dụng là nhập từ nước ngoài (đặc biệt là 2 hợp doanh DMC-DAIWA và DMC-FER), vì vậy mà công ty luôn bị phụ thuộc vào thị trường nguyên vật liệu nước ngoài, chưa tận dụng hết được nguồn nguyên vật liệu trong nước. Hơn nữa, năm 2003, công ty có thêm một dây chuyền sản xuất mới nên phải dự trữ thêm nguyên vật liệu. CPSXKD dở dang chiếm 39% trong tổng số hàng tồn kho. Đầu năm CPSXKD dở dang là 135.164.535 đồng, chiếm 10% tổng hàng tồn kho. Cuối năm, CPSXKD dở dang đã tăng lên tới 664.613.595 đồng, chiếm 39% tổng hàng tồn kho. Như vậy, CPSXKD dở dang cuối năm so với đầu năm đã tăng 392%. Sự tăng nhanh này có thể lý giải là bởi vì năm 2003 công ty sản xuất thêm một số sản phẩm mới, nghĩa là thêm nhiều công đoạn sản xuất và do vậy làm cho CPSXKD dở dang tăng lên. Có một tín hiệu đáng mừng là thành phẩm tồn kho đã giảm so với đầu năm là 26% chứng tỏ doanh nghiệp đã đẩy mạnh được công tác tiêu thụ sản phẩm so với đầu năm. Tóm lại, tình hình kết cấu hàng tồn kho của công ty là khá tốt. Lượng thành phẩm tồn kho đã giảm đáng kể. Việc tiêu thụ mạnh hàng hoá đã tránh tình trạng ứ đọng cho doanh nghiệp, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. Nhưng doanh nghiệp cũng cần phải tìm những biện pháp nhằm giảm tối thiểu nguyên vật liệu tồn kho và CPSXKD dở dang để tối thiểu hoá chi phí, nhằm tăng vốn cho quá trình sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty. 2.2.3. Thực trạng hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty. Việc sử dụng thật hợp lý VLĐ được thể hiện ở chỗ tăng tốc độ luân chuyển VLĐ. Tốc độ luân chuyển VLĐ nhanh hay chậm nói lên hiệu quả sử dụng VLĐ cao hay thấp. Hiệu quả sử dụng VLĐ là một trong những chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá chất lượng công tác quản lý và sử dụng vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua phân tích chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ có thể thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường công tác quản lý kinh doanh. Để phân tích vấn đề này ta xem xét Bảng 13 trang 47A Doanh lợi VLĐ năm 2002 là 1,08%, nghĩa là 1 đồng VLĐ sử dụng trong kỳ tạo ra 0,0108 đồng lợi nhuận. Năm 2003 chỉ tiêu này là 0,99%, như vậy 1 đồng VLĐ sử dụng trong năm 2003 chỉ tạo ra được 0,0099 đồng lợi nhuận sau thuế, giảm 8,3% so với năm 2002. Vậy mức độ sinh lời của đồng VLĐ là còn quá thấp, công ty cần phải điều chỉnh lại các khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí hoạt động tài chính sao cho phù hợp hơn để tăng hiệu quả sử dụng VLĐ. Về tốc độ luân chuyển VLĐ, năm 2003 chỉ tiêu này có sự tăng lên, được thể hiện thông qua sự tăng lên của số vòng quay VLĐ và sự giảm đi của kỳ luân chuyển VLĐ. Cụ thể: năm 2003 số vòng quay VLĐ là 1,65 vòng, tăng lên 0,31 vòng so với năm 2002. Kỳ luân chuyển VLĐ từ 269 ngày trong năm 2002 đã giảm xuống còn 218 ngày năm 2003, tức là giảm 51 ngày so với năm 2002. Điều này chứng tỏ tốc độ luân chuyển VLĐ của công ty đã tăng, hiệu quả sử dụng vốn được cải thiện. Số vòng quay của vốn vật tư hàng hoá năm 2003 là 4,28 vòng, tăng so với năm 2002 là 1,15 vòng. Điều này cho thấy công tác tổ chức, mua sắm, dự trữ vật tư hàng hoá là không tốt. Phải mất 84 ngày vốn vật tư hàng hoá mới quay hết một vòng, tuy nhiên đó cũng vẫn là sự cố gắng của công ty vì trong năm 2002 chỉ tiêu này là tận 115 ngày. Vòng quay các khoản phải thu năm 2003 là 3,23 vòng, giảm so với năm 2002 là 0,28 vòng. Điều này chứng tỏ công ty đã phải đầu tư nhiều hơn năm 2002 vào các khoản phải thu để được doanh thu. Thêm vào đó, số ngày mà công ty đã để khách hàng chiếm dụng vốn của mình lại tăng từ 102 năm 2002 lên 111 năm 2003. Theo tính toán, phải mất gần 2 tháng để doanh nghiệp tiến hành thu hồi các khoản nợ của mình. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Mức độ đảm nhiệm VLĐ năm 2002 là 0,77; có nghĩa là để tạo ra một đồng doanh thu cần 0,77 đồng VLĐ. Năm 2003, để tạo ra 1 đồng doanh thu thì chỉ cần đến 0,61 đồng VLĐ. Như vậy, có thể nói rằng, hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty năm 2003 là khá tốt, nhưng vẫn còn nhiều mặt cần phải khắc phục. Đặc biệt hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty so với các doanh nghiệp khác trong ngành vẫn còn kém. Do vậy, doanh nghiệp cần phải có nhiều biện pháp thích hợp hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong thời gian tới. 2.3. Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty Xe đạp - Xe máy Đống Đa Hà Nội. Qua các phân tính mang tính cụ thể ở trên, ta có thể nhận xét và đánh giá một cách tổng quát về hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty như sau: 2.3.1. Những kết quả đạt được. Công ty Xe đạp - xe máy Đống Đa Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước với hoạt động chủ yếu là sản xuất và kinh doanh phụ tùng xe đạp. Trong bối cảnh ngành xe đạp nước ta chưa hoàn toàn thoát ra khỏi khó khăn, thị trường tiêu thụ không có lợi cho sản phẩm xe đạp nói chung và phụ tùng xe đạp nói riêng, công ty vẫn cố gắng phát triển sản xuất, liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài, đầu tư đổi mới công nghệ, mạnh dạn sản xuất một số sản phẩm mới và sản xuất của công ty cũng đã thu được lợi nhuận, tuy không nhiều nhưng đó là một kết quả đáng khích lệ trong tình hình khó khăn chung của cả ngành sản xuất xe đạp, xe máy. Về tình hình huy động và sử dụng vốn lưu động, trong ba năm qua vốn lưu động của công ty không ngừng tăng. Năm 2001 vốn lưu động của công ty là 2,53 tỷ đồng, con số này tăng lên thành 3,98 tỷ năm 2002 và đến năm 2003 là 4,78 tỷ. Trong năm 2003 công ty đã cải thiện được hiệu quả sử dụng vốn lưu động, các chỉ số về năng lực hoạt động tăng và công ty đã tiết kiệm được một phần vốn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32701.doc
Tài liệu liên quan