Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Nội dung luận văn

Chương 1 : Huy động vốn trung và dài hạn của NHTM 3

1.1. Các hoạt động cơ bản của NHTM 3

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của NHTM

1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM 8

1.1.3. Vai trò của vốn trung và dài hạn đối NHTM 14

1.2. Huy động vốn trung và dài hạn của NHTM 19

1.2.1. Khái niệm 19

1.2.2. Các hình thức huy động vốn trung và dài hạn của NHTM 22

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của NHTM 31

1.3.1. Các nhân tố chủ quan 32

1.3.2. Các nhân tố khách quan 35

Chương 2 : Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN 40

2.1. Khái quát về NHNTHN 40

2.2. Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN 55

2.3. Đánh giá kết quả huy động vốn trung và dài hạn của NHNTHN 61

2.3.1. Kết quả 61

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 63

Chương 3 : Giải pháp tăng cường huy động vốn trung và dài hạn tại NHNTHN 69

3.1. Định hướng phát triển của NHNTHN 69

3.2. Một số giải pháp 70

3.3. Kiến nghị 77

 

 

 

doc83 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2997 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn tối đa mà một ngân hàng có thể huy động dựa trên vốn tự có để đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng, nhất là khả năng thanh toán. Trong quá trình hoạt động, việc mua sắm đổi mới trang bị, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ ngân hàng, mở rộng chi nhánh không chỉ thể hiínnự tăng về quy mô mà phần nào phản ánh kết quả kinh doanh khả quan của ngân hàng. Sự phát triển chi nhánh hoạt động tạo ra tiện ích cho các khách hàng, họ không cần phải mất thời gian đi lại mà vẫn yên tâm gửi tiền đến đúng ngân hàng của mình. Uy tín của ngân hàng Uy tín là điều kiện tối quan trọng cần thiết đối với không chỉ ngân hàng mà tất cả các cá nhân doanh nghiệp một khi đã tham gia vào làm kinh tế. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mong muốn trước hết là phải tuyệt đối an toàn, khi cần rút ra sẽ được đáp ứng ngay lập tức, sau đó mới quan tâm đến khoản lời tù khoản vốn đó. Họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng nào mà họ cho là có đủ uy tín, đáng tin cậy. Một ngân hàng có uy tín lâu năm chắc chắn sẽ huy động được lượng vốn lớn, thậm chí chi phí rẻ hơn. Tuy nhiên để có được uy tín không phải là chuyện một sớm một chiều các NHTM làm ngay được mà phải trải qua một thời gian hoạt động, ngân hàng luôn đạt được những kết quả mà khách hàng cho là tốt. Uy tín gần như là một trong những thứ tài sản đảm bảo cho khách hàng khi họ gửi tiền vào ngân hàng đồng thời nó là một thứ tài sản vô hình mà tất cả các Ngân hàng đều đang nỗ lực cố gắng tạo dựng được nếu muốn phát triển đi lên. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Mục đích chính của việc huy động vốn trung và dài hạn là đáp ứng nhu cầu vay trung và dài hạn của nền kinh tế. Hiện nay hầu hết các NHTM Việt Nam đều đứng trước vấn đề tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn luôn lớn hơn so với tăng trưởng huy động vốn trung và dài hạn. Do tính chất thời hạn dài nên chi phí huy động khá cao, cao hơn so với nguồn ngắn hạn, hơn nữa không thể lấy nguồn ngắn hạn để đáp ứng cho nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của NHTM mặc dù chi phí cho nguồn ngắn hạn rẻ hơn. Chính vì vậy nếu nhu cầu tín dụng trung và dài hạn ngày tăng cường thì ngân hàng phải có giải pháp để tăng cường huy động vốn trung và dài hạn mới có thể đáp ứng được. Sự đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trung và dài hạn của NHTM Ngân hàng có thu hút được các nguồn tiền trung và dài hạn hay không ngoài quy mô, uy tín còn phụ thuộc rất lớn vào các hình thức huy động vốn có thu hút và thoả mãn được nhu cầu của khách hàng hay không. Những sản phẩm mà ngân hàng đưa ra đảm bảo phù hợp với nhu cầu từng độ tuổi, có nhiều tiện ích khác, đa dạng, mọi người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm phù hợp thì điều chắc chắn là thị phần mà ngân hàng dành được sẽ cao hơn so với các ngân hàng khác. Mọi người không ai lại từ chối một sản phẩm, một dịch vụ hoàn hảo đem lại cho mình nhiều lợi ích để chọn lấy một sản phẩm kém hoàn hảo hơn vì bất cứ lý do gì. Chính điều này đã tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng trong việc thu hút nguồn vốn trong khi đó khách hàng thì ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn sản phẩm phù hợp, có lợi nhất cho mình. Chiến lược khách hàng Muốn thu hút khách hàng đến với mình không chỉ trước mắt mà là lâu dài thì ngoài việc xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý, đưa ra các sản phẩm dịch vụ đáp ứng được nhu cầu khách hàng thì điều quan trọng của các NHTM là phải quan tâm đến chính sách chăm sóc khách hàng hơn so với đối thủ. Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cạnh tranh, các ngân hàng đều ra sức áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại nhằm phục vụ tốt nhất cho khách hàng của mình. Rõ ràng ngân hàng nào cũng có những nhược điểm nhất định về mặt này mặt kia so với những ngân hàng khác. Chính vì vậy để thắng cạnh tranh là nhờ phần lớn ở chính sách khách hàng của ngân hàng. Khách hàng đến với ngân hàng phải luôn có cảm giác thực sự thoải mái được quan tâm coi trọng. Đây là một điểm mấu chốt góp phần vào thành công của ngân hàng. Trình độ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng Mọi khách hàng đều muốn được thoải mái và dễ chịu khi tiến hành giao tiếp với cán bộ nhân viên của ngân hàng. Điều này rất quan trọng vì nó tạo ra ấn tượng ban đầu trong lòng khách hàng. Ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ kiến thức, thái độ niềm nở, chu đáo, sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc đối với những vấn đề mà khách hàng còn đang băn khoăn chưa thực sự hiểu. Đây cũng đồng thời là một cơ hội tốt để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của khách hàng, biết được nhu cầu cũng như là một cơ hội để ngân hàng marketing các sản phẩm đã có và giới thiệu các sản phẩm mới, vừa tạo hình ảnh đẹp về ngân hàng, vừa tăng thêm sự yên tâm cho khách hàng, và là cơ hội quảng cáo sản phẩm mới, chắc chắn muốn tăng tính hiệu quả của hoạt động ngân hàng nói chung và công tác huy động vốn nói riêng. Công nghệ ngân hàng Công nghệ ngân hàng là cơ sở để nâng cao uy tín, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu khách hàng thông qua việc đưa các kỹ thuật tiên tiến vào hoạt động, nhất là các hoạt động dịch vụ ngân hàng với các tiện ích: - Giảm thời gian giao dịch, tăng khối lượng tiện ích cho khách hàng Việc tính toán và xử lý giao dịch đều do máy tính đảm nhiệm. Điều này giúp cho viẹc giảm thòi gian giao dịch của các khách hàng, đồng thời tạo độ chính xác và thuận tiện. - Giảm khối lượng công việc cho nhân viên Tất cả các ccông đoạn đều ứng dụng các phần mềm ngân hàng hữu dụng. Qua đó giảm thời gian làm việc của nhân viên cũng đồng nghĩa với việc tăng hiệu quả và năng suất lao động. - Tạo nên hình ảnh về một Ngân hàng hiện đại Trước hết là lòng tin của khách hàng vào tình hình tài chính hiện tại của ngân hàng. Một ngân hàng phải kinh doanh tốt, có lợi nhuận thì mới có thể đầu tư vào máy móc trang thiết bị hiện đại. Hơn nữa tất cả đều được tính toán qua máy móc, đạt được sự chính xác cao nên các khách hàng cũng yên tâm hơn về tài khoản của mình sẽ không có sự sai sót nhầm lẫn. Hoạt động tài trợ của ngân hàng Nếu ngân hàng tham gia tài trợ tích cực cho các chương trình văn hoá, giáo dục thể thao sẽ giúp ích rất lớn vào việc tăng mức độ uy tín tạo hình ảnh đẹp của ngân hàng. Bởi vì khách hàng tin rằng ngân hàng phải có tiềm lực vốn mạnh mới có thể tài trợ cho các chương trình đó, nhất là các chương trình mang tầm cỡ quốc gia hay quốc tế. Đây là một cách để quảng cáo cho ngân hàng. 1.3.2. Các nhân tố khách quan Nhân tố thuộc về các quy định pháp lý Quyết định tăng giảm cung cầu tiền tệ, tăng giảm lãi suất Trong thời kỳ xảy ra lạm phát tăng, đồng tiền mất giá hay vì lý do khác mà NHTƯ quyết định tăng, giảm cung cầu tiền tệ để giảm tỷ lệ lạm phát sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM. Nếu Chính phủ quyết định giảm cung tiền trong khi cầu tiền tăng khiến cho tiền trở nên khan hiếm trong lưu thông sẽ đẩy lãi suất lên cao làm đầu tư giảm song lại khuyến khích tiết kiệm, ngân hàng có nhiều cơ hội huy động vốn tuy nhiên chi phí huy động sẽ cao hơn. Cũng tương tự như vậy với tác động của lãi suất. Ở Việt nam mặc dù đã nới lỏng quy chế về lãi suất từ cơ chế lãi suất điều hành sang cơ chế tự do lãi suất, tuy nhiên do đặc điểm nước ta coi nền kinh tế thị trường chưa thực sự hoàn hảo nên chính sách lãi suất vẫn tỏ ra kém hiệu quả. Quyết định tăng giảm lãi suất của NHTƯ gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn của NHTM. Nguồn vốn trung và dài hạn do đặc điểm thời gian đáo hạn dài, mức độ rủi ro cao nên lãi suất cao hơn nguồn ngắn hạn. Tuy nhiên cũng do thời hạn dài, là nguồn kém nhạy cảm nên những thay đổi trong lãi suất cũng không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn trung và dài hạn như nguồn ngắn hạn. Tuy nhiên trong trường hợp lãi suất diễn biến phức tạp trong một thời gian dài thì thay vì gửi trung và dài hạn họ sẽ chỉ gửi ngắn hạn để giảm rủi ro lãi suất. Tỷ lệ trích lập các quỹ Nếu NHNN quy định các tỷ lệ này quá cao sẽ làm giảm nguồn vốn của ngân hàng đồng nghĩa giảm nguồn vốn trung và dài hạn và tăng chi phí huy động vốn. Hơn nữa do đặc tính của các quỹ này ngân hàng không được tự do sử dụng nên nếu lượng vốn trong các quỹ quá lớn sẽ gây khó khăn trong việc duy trì các nguồn vốn đó bởi chi phí để duy trì cũng không nhỏ. Tuy nhiên nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ không đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng trong những trường hợp cấp bách. Để duy trì một tỷ lệ hợp lý các quỹ là một điều không dễ dàng nhưng làm được điều này sẽ giúp ích cho việc kinh doanh hiệu quả của các NHTM Quy định tỷ lệ nợ ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn Do sự không ăn khớp về thời hạn của nguồn, nguồn ngắn hạn có thời hạn nhỏ hơn nguồn trung và dài hạn nên để có thể trích dùng một phần nguồn ngắn hạn chuyển sang nguồn vốn trung và dài hạn mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán cho những nguồn ngắn hạn thì NHNN phải quy định một tỷ lệ nhất định. Khi quy định tỷ lệ này, NHTƯ phải cân nhắc kỹ để đảm bảo một tỷ lệ hợp lý, vừa giảm được chi phí nếu cùng lượng đó mà thay bằng vốn trung và dài hạn, vừa đảm bảo khả năng thanh toán kịp thời của ngân hàng, đồng thời mỗi ngân hàng tự xác định cho mình một tỷ lệ hợp lý tuỳ thuộc điều kiện kinh doanh, đặc điểm riêng có của ngân hàng mình. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế Những chỉ số vĩ mô của nền kinh tế Mặc dù rất ít nhạy cảm hơn so với nguồn ngắn hạn, tuy nhiên nếu những chỉ số này lên xuống thất thường, tác động vào thu nhập, tâm lý dân cư sẽ khiến cho nguồn vốn trung và dài hạn trở nên rẻ hơn, khan hiếm hơn hay dồi dào hơn. Điển hình nhất là tỷ lệ lạm phát, lạm phát cao khiến cho đồng tiền bị mất giá, thay vì gửi tiền mặt họ sẽ mua vàng hay ngoại tệ để cất trữ làm cho lượng tiền mặt trong lưu thông giảm, tiết kiệm trung và dài hạn bằng tiền mặt sẽ giảm. Lãi suất thị trường thay đổi thất thường, người gửi tiền lo sợ rủi ro lãi suất sẽ chỉ gửi tiết kiệm ngắn hạn thay vì gửi tiền với thời hạn dài. Những biến động đó đẩy ngân hàng đứng trước nguy cơ khan hiếm cả nguồn vốn ngắn lẫn trung và dài hạn. Hơn nữa những biến động không thuận lợi của nền kinh tế làm cho thu nhập dân cư giảm, mà thu nhập giảm thì tiết kiệm cũng giảm do đó nguồn tiền gửi hay nguồn vốn của ngân hàng. Nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế Vào thời kỳ nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế gia tăng khiến các ngân hàng phải tăng cường mở rộng huy động vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu cho vay. Trong trường hợp này để cân bằng cung cầu về vốn trung và dài hạn các NHTM có thể tăng lãi suất cho vay đồng thời tăng lãi suất tiền gửi nhằm tăng cường huy động vốn trung và dài hạn. Sự xuất hiện các kênh huy động khác Ngoài việc cạnh tranh lẫn nhau, các ngân hàng còn phải cạnh tranh với các kênh huy động vốn khác. Nếu các điều kiện lãi suất, lạm phát không thuận lợi thay vì gửi tiết kiệm, những người có vốn nhàn rỗi sẽ di chuyển vốn sang đầu tư vào một lĩnh vực khác, hạn chế nguồn vốn của ngân hàng. Những người có tiền thay vì gửi tiết kiệm trung và dài hạn có thể đầu tư vào bất động sản, vào các tài sản tài chính nếu điều kiện đầu tư trên các thị trường này phù hợp với mục tiêu tài chính của họ. Thị trường chứng khoán, một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất hàng hoá. Thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng để hưởng lãi, các nhà đầu tư sẽ tiến hành mua bán các công cụ tài chính, dể hưởng cổ tức, trái tức đặc biệt là chênh lệch thị giá của chúng. Nếu các nhà đầu tư có sự hiểu biết, lại được sự giúp đỡ của các công ty chứng khoán để có danh mục đầu tư hợp lý chắc chắn sẽ đem lại thu nhập lớn hơn nhiều so với gửi tiết kiệm ở ngân hàng. Đồng thời với lợi nhuận cao, mức rủi ro cũng cao vì vậy nếu các nhà đầu tư luôn phải cân nhắc xem nên đầu tư vào đâu, tại thời điểm nào là hiệu quả nhất, san sẻ rủi ro theo nguyên tắc "không bỏ trứng vào cùng một giỏ". Do ưu điểm của các kênh huy động này mà một phần vốn của ngân hàng bị giảm đi, cạnh tranh huy động vốn trở nên khó khăn hơn. Các nhân tố thuộc về dân cư Ngân hàng có được nguồn vốn nhất là nguồn vốn trung và dài hạn phần lớn là do tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư. Đây là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến nguồn vốn trung và dài hạn của NHTM. Ngoài những yếu tố thuộc về nền kinh tế gây ảnh hưởng tới tâm lý dân cư gây ra sự dịch chuyển vốn đầu tư còn có các yếu tố rất quan trọng như phong tục tập quán, thói quen, trình độ hiểu biết nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, ngân hàng, thị trường chứng khoán. Tất cả hình thành nên một thứ gọi là nền văn hoá đầu tư. Ở những nơi mà đa phần người dân sống theo thói quen ăn chắc mặc bền, không thích những cái có tính chất rủi ro cao thì thường sẽ chọn hình thức gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng để hưởng lãi hơn là đầu tư vào các lĩnh vực mạo hiểm như bất động sản, chứng khoán. Điều này làm cho nguồn vốn của ngân hàng trở nên sẵn hơn và giảm được áp lực cạnh tranh với các kênh huy động vốn khác. Dân cư có trình độ cao, có hiểu biết, có khả năng tiếp cận với những kênh huy động vốn khác rủi ro hơn song ở mức mà họ chấp nhận được đồng thời đem lại mức lợi nhuận lớn hơn là một bất lợi cho công tác huy động vốn của ngân hàng, mặt khác cũng có lợi nếu như họ tham gia sử dụng các dịch vụ, ngân hàng thay vì việc giữ tiền tại nhà yên tâm sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại hay nhanh chóng tiếp nhận những dịch vụ ngân hàng hiện đại. Các nhân tố thuộc về môi trường tự nhiên Môi trường tự nhiên như thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh … Trong thời kì môi trường tự nhiên biến động phức tạp liên tiếp xảy ra gây hậu quả xấu tới nền kinh tế khiến cho thu nhập dân cư giảm, giá cả tăng … dẫn đến nguồn tiền tiết kiệm trong dân cư trở nên khan hiếm, ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng trong đó có nguồn vốn trung và dài hạn. Có thể nói lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất với những thay đổi của nền kinh tế. Tất cả các nhân tố ảnh hưởng tới nền kinh tế đều tác động đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong đó có hoạt động huy động vốn trung và dài hạn. Những nhân tố khách quan, ngân hàng không thể loại bỏ được song có thể hạn chế, những nhân tố chủ quan hầu hết xuất phát từ nội tại ngân hàng có thể loại bỏ được. Mỗi ngân hàng cần có phương pháp nghiên cứu, dự báo trước những thay đổi đó để có thể đối phó với những bất lợi do chúng gây ra. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 2.1. Khái quát về ngân hàng ngoại thương Hà Nội 2.1.1. Lịch sử hình thành, chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội_Việtcombank Hà Nội. Thành lập ngày 1/4/1963, ngân hàng ngoại thương Việt Nam luôn giữ vai trò chủ lực trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Được xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt với truyền thống kinh doanh đối ngoại. Ngân hàng ngoại thương được đánh giá là một ngân hàng uy tín nhất Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, thanh toán xuất nhập khẩu và các dịch vụ tài chính khác. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam được tổ chức theo mô hình tổng công ty 90,91 quản lý vốn tập trung, là ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực tài trợ thương mại, tài chính quốc tế, áp dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại với phương châm : “ luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt “, và mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu của Việt Nam, một ngân hàng mang tầm cỡ quốc tế và khu vực. Cùng với những thành tích trong các năm qua, NHNTVN là ngân hàng thương mại duy nhất tại Việt Nam được tạp chí " The Banker " một tạp chí ngân hàng có tiếng trong giới tài chính Anh bình chọn là " ngân hàng tốt nhất của Việt Nam " liên tục trong các năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004. Tính đến cuối năm 2004, hệ thống của Ngân hàng bao gồm 26 chi nhánh cấp một, 41 chi nhánh cấp hai và 47 phòng giao dịch trên toàn quốc, 1 công ty tài chính, 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài, 3 công ty trực thuộc (công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản), góp vốn cổ phần vào 6 doanh nghiệp (2 công ty Bảo hiểm, 3 công ty kinh doanh Bất động sản, 1 công ty Đầu tư kĩ thuật), 7 ngân hàng và một quỹ tín dụng, tham gia cả 4 liên doanh với nước ngoài. NHNTHN viết tắt là VCB Hà Nội là một chi nhánh tại Hà Nội của NHNTVN được thành lập theo quyết định số 177/NH.QĐ ngày 22/12/1984 của tổng giám đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc NHNN Việt Nam) và chính thức đi vào hoạt động tù ngày 1/3/1985 đến nay. VCB Hà Nội là chi nhánh cấp một quan trọng nhất của NHNTVN đồng thời cũng được xếp hạng là doanh nghiệp hạng một. Trụ sở của Ngân hàng đặt tại 78 Nguyễn Du_344 Bà Triệu. Tính đến thời điểm cuối năm 2004, mạng lưới hoạt động của VCB Hà Nội bao gồm 4 chi nhánh cấp 2: - Chi nhánh Thành Công _ 30, 32 Láng Hạ - Chi nhánh Cầu Giấy _ 98 Hoàng Quốc Việt - Chi nhánh Chương Dương _ 564 Nguyễn Văn Cừ - Chi nhánh Ba Đình _ 39 Đào Tấn Và 6 phòng giao dịch: - Phòng giao dịch số 1: 2 Hàng Bài - Phòng giao dịch số 2: 14 Trần Bình Trọng - Phòng giao dịch số 3: 1 Hàng Đồng - Phòng giao dịch số 4: 36 Hoàng Cầu - Phòng giao dịch số 5: Khu CC2 KĐT Bắc Linh Đàm - Quầy giao dịch tại sân bay quốc tế Nội Bài. Ban đầu thành lập, cơ sở vật chất kĩ thuật của Ngân hàng còn rất thiếu thốn, trải qua biết bao thăng trầm, là một thành viên trong hệ thống NHNTVN, NHNTHN đã nỗ lực cố gắng không ngừng và giành được nhiều danh hiệu cao quý như: Huân chương lao động hạng 3 của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam năm 2004, bằng khen của thủ tướng chính phủ năm 2000-2002, cờ thi đua xuất sắc của Thống đốc NHNN Việt Nam năm 2004… Chức năng chủ yếu của Ngân hàng là phục vụ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu và tiêu dùng trong nước tại thủ đô Hà Nội, các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Việt kiều về thăn quê hương, các đoàn khách nước ngoài vào tham quan du lịch, huy động tiền nhàn rỗi của dân cư (cả đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ), cung cấp các dịch vụ như dịch vụ ngân hàng bán lẻ và các dịch vụ ngân hàng hiện đại khác. Kể từ khi thành lập đến nay, đội ngũ cán bộ nhân viên của Ngân hàng cũng có những thay đổi đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Những ngày đầu thành lập, số cán bộ của Ngân hàng chỉ có 15 người được điều chuyển từ NHNTVN về. Đến nay, tổng số cán bộ là 264 người và 70 cán bộ mới được tuyển dụng tháng 12 năm 2005. Trong số 264 cán bộ thì có tới 211 người có trình độ đại học (chiếm 80%), 35 người có trình độ thạc sĩ. Hầu hết cán bộ nhân viên đều qua đào tạo nghiệp vụ ngân hàng, được phân công đúng người, đúng việc, chất lượng nhân sự đồng đều, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, hiệu quả. Chức năng nhiệm vụ của từng phòng cụ thể như sau : - Phòng kế toán tài chính Quản lý toàn bộ tài khoản của khách hàng, các khoản nội và ngoại bảng cân đối kế toán. Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Giám đốc về tính hợp lệ của các hóa đơn chứng từ, tính đúng đắn của các tài khoản. - Phòng tín dụng tổng hợp Thực hiện nghiệp vụ cho vay theo Luật của các tổ chức tín dụng, điều khoản vốn ngoại tệ, xây dựng kế hoạch vốn, tổng hợp các báo cáo tài chính định kì, bất thường gửi NHNTVN. - Phòng thanh toán Xuất nhập khẩu Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động Xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng như chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ (L/C). - Phòng dịch vụ ngân hàng Thực hiện giao dịch với khách hàng gồm tiếp nhận hồ sơ của khách hàng mới, giải đáp thắc mắc hướng dẫn quy trình nghiệp vụ … từ đó đề xuất các chính sách nhằm thu hút khách hàng, xử lý các giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm t của khách hàng. - Phòng ngân quỹ Thực hiện thu chi tiền mặt, séc du lịch nước ngoài thông qua Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam quản lý kho tiền và các quỹ. - Phòng giao dịch Thực hiện các nghiệp vụ mua, chuyển đổi ngoại tệ, séc du lịch bằng các hình thức, tiếp nhận và mở hồ sơ cho các khách hàng mới, kiểm tra tính hợp lệ, xử lý các chứng từ cho khách hàng. - Phòng tin học Quản lý mạng máy tính, chịu trách nhiệm về tính bảo mật thông tin, truyền tin với NHNTVN, các chi nhánh cấp 2, cài đặt, nghiên cứu, lập ra các phần mềm chương trình quản lý, ứng dụng, cải tiến công nghệ gân hàng cho Chi nhánh. 2.1.2. Các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Trong suốt 12 năm hoạt động, cố gắng đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng, đến nay các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng bao gồm : - Huy động vốn bằng VNĐ và các loại ngoại tệ mạnh bao gồm tiền gửi dân cư, các tổ chức kinh tế, phát hành trái phiếu; chứng chỉ tiền gửi, phát hành thêm vốn cổ phần. - Tài trợ và đầu tư vốn tín dụng : ngắn – trung và dài hạn bao gồm cả cho vay, đầu tư bất động sản, chứng khoán và các giấy tờ có giá, các dự án… - Thanh toán quốc tế, và thanh toán liên ngân hàng. - Cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại : Online Banking, Internet/Intranet Banking, E-Banking, IBPS, Trade Finance, SWIFT… - Mua bán giao ngay, có kì hạn, hoán đổi các loại ngoại tệ mạnh. - Cung cấp các dịch vụ bảo lãnh. - Phát hành thẻ, thanh toán các loại thẻ: Visa Card, Master Card, Amexcard, Dinner Club, VCB-ATM (thẻ ghi nợ). Ngân hàng đang triển khai hệ thống công nghệ tiên tiến, tích hợp, kết nối toàn bộ các sản phẩm, dịch vụ, tạo điều kiện cung cấp cho khách hàng các sản phẩm hiện đại, chất lượng cao. Nhờ áp dụng các công cụ quản trị tiên tiến khác, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đang có những bước tiến vững chắc trên con đường phát triển để trở thành tập đoàn tài chính đa năng của khu vực và quốc tế. 2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng ngoại thương Hà Nội NHNTHN cũng như các ngân hàng hay các doanh nghiệp khác hoạt động sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng tác động các nhân tố trong nền kinh tế. Tuy mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến các ngân àang, doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Có thể kể đến 4 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHNTHN như sau : Môi trường kinh tế Là ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế xung quanh môi trường hoạt động của Ngân hàng bao gồm : Địa bàn hoạt động Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị xã hội của cả nước. Hầu hết các công ty, doanh nghiệp, ngành trọng điểm đều tập trung ở đây nên nhu cầu vốn rất lớn. Đây cũng là nơi có hoạt động giao lưu ngoại thương lớn, nhịp độ kinh tế nhanh, tốc độ lưu chuyển vốn mạnh với một lượng lớn vì vậy rất thích hợp để phát triển các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ công nghệ cao. Thanh toán qua ngân hàng là lĩnh vực mà nhiều ngân hàng đã chọn để đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ ngân hàng ở giai đoạn đầu. Hà Nội cũng là địa bàn tập trung khá đông dân cư với trình độ và thu nhập cao hơn so với các nơi khác. Trình độ dân cư cao, họ sẽ có nhiều hiểu biết và mạnh dạn hơn trong việc sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Thu nhập dân cư cao là điều kiện thuận lợi cho việc huy động các khoản tiền gửi tiết kiệm. Do tính chất của thu nhập khá cao và ổn định, là điều kiện để NHTM tăng cường mở rộng các loại hình dịch vụ đi liền với gửi tiền tiết kiệm trung và dài hạn để thu hút khách hàng. Tuy nhiên mặt trái của đặc điểm trên là do môi trường kinh doanh thuận lợi, các NHTM khác kinh doanh trên địa bàn Hà Nội khá nhiều. Họ cũng đẩy mạnh về vốn và công nghệ, nhạy bén với những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng từng thời kỳ, đặc biệt là các ngân hàng liên doanh hay ngân hàng nước ngoài có vốn lớn. Điều này tạo ra tính chất cạnh tranh khác liệt trong cuộc chạy đua huy động vốn trung và dài hạn giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn. Sự phát triển của thị trường tài chính Sự phát triển của thị trường tài chính ảnh hưởng đến hoạt động của NHNTHN thể hiện ở 2 khía cạnh : Huy động vốn Trước đây những người có tiền nhàn rỗi không muốn hoặc không có cơ hội đầu tư vào thị trường tài chính thường gửi tiền vào ngân hàng vừa để đảm bảo an toàn, vừa sinh lãi. Đây là một cách tiết kiệm truyền thống và là nguồn huy động chính của ngân hàng. Giờ đây, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới, các thị trường đầu tư có hiệu quả cao như thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán đã thu hút được nhiều nhà đầu tư. Thay vì gửi tiền vào ngân hàng họ dùng vốn đó để đầu tư vào thị trường khác với mức độ rủi ro có thể chấp nhận được mà vẫn mang lại lợi nhuận mong muốn. Sự di chuyển vốn đầu tư làm cho công tác huy động vốn của ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên ngân hàng có thể khắc phục bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi hay cổ phiếu. Cách này vừa tăng vốn lại vừa giảm được áp lực cạnh tranh với các kênh huy động vốn trên, đặc biệt nếu thị trường chứng khoán phát triển tính thanh khoản của hàng hóa cao thì ngân hàng càng dễ dàng để huy động vốn hơn. - Sử dụng vốn : Do xu hướng cổ phần hóa các doanh nghiệp đang diễn ra hết sức mạnh mẽ nên mặc dù nhu cầu vốn gia tăng nhưng trước đây thay vì huy động vốn qua ngân hàng thì giờ đây họ có thể phát hành cổ phiếu hay trái phiếu doanh nghiệp. Xu hướng này làm giảm một phần nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn chưa quen với việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán nên việc sử dụng tín dụng ngân hàng vẫn là chủ yếu. Nhưng về lâu dài để đảm bảo cân đối giữa huy động và sử dụng vốn đạt tăng trưởng về cả lượng và chất lượng, các ngân hàng phải có chiến lược kinh doanh hợp lý, có tính khả thi cao. Diễn biến lãi suất thị trường và tình hình lạm phát Huy động và cho vay là

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32476.doc
Tài liệu liên quan