Luận văn Giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 7

1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước

7

1.2 Nội dung, hình thức giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của các chủ thể

16

1.3 Kinh nghiệm giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của một số nước đối với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 23

Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 39

2.1 Vài nét về lịch sử giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước ở Lào 39

2.2 Thực trạng các quy định pháp luật về chủ thể giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 44

2.3 Nội dung giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của các chủ thể ở Lào 50

2.4 Hình thức giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước của các chủ thể ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 59

2.5 Nhận xét, đánh giá về thực trạng giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 64

Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIÁM SÁT XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 69

3.1 Quan điểm về giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 69

3.2 Phương hướng về giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước 70

3.3 Giải pháp về giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước 78

KẾT LUẬN 82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85

 

doc88 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2314 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ quyền kiểm tra, trong khi những người dân mà họ phục vụ thì lại không có một sự kiểm soát nào cả", và họ chủ trương "đưa sự tự chủ ra khỏi bộ máy quan liêu, trao nó cho cộng đồng". - ở Anh quốc, nước này đã ban hành và thực hiện Hiến chương quyền lợi công dân (Citizen's Charter). Văn bản này nêu rõ tiêu chuẩn hoạt động của các cơ quan chính phủ, quy định rất chi tiết những vấn đề như: thời gian xếp hàng chờ đợi ở các cơ quan dịch vụ công, những đòi hỏi chính xác của hệ thống giao thông công cộng,... nhấn mạnh vai trò của công dân như là khách hàng của nền hành chính; cung cấp đầy đủ thông tin, tiêu chuẩn dịch vụ, sẵn sàng lắng nghe và sửa chữa sai sót chính sách. 1.3.3. Kinh nghiệm có thể áp dụng cho giám sát xã hội ở Lào Qua những quy định và việc làm liên quan đến phát huy giám sát xã hội đối với cơ quan công quyền ở một số nước đã tìm hiểu, chúng ta thấy một xu hướng chung trong xã hội hiện đại là các nhà nước mạnh, tiến bộ luôn đề cao giám sát xã hội bởi họ ý thức được tăng cường sự giám sát từ phía xã hội đối với quyền lực nhà nước là tất yếu và phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội hiện đại. Xã hội càng phát triển thi yêu cầu giám sát và dân chủ hóa trong giám sát càng cao. Bản chất của chế độ xã hội và nền dân chủ ở các nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa là khác nhau dẫn đến bản chất của giám sát xã hội ở hai hệ thống quốc gia này có sự khác nhau. Tuy nhiên trong hệ thống nào chúng ta cũng có thể chắt lọc lấy những kinh nghiệm chung cần vận dụng và học tập. Đó là: - Đa số các nước đều có hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước. - Các chủ thể giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước gồm các chủ thể chủ yếu như Mặt trận, tổ chức - chính trị xã hội và các công dân... - Đối tượng giám sát là Quốc hội (nghị viện), các cơ quan xét xử và cơ quan hành pháp... - Nội dung, hình thức giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước được xác định khá cụ thể (ví dụ: Việt Nam...). Chương 2 Thực trạng giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào 2.1. Vài nét về lịch sử giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước ở Lào Từ thế kỷ XVIII đất nước Lào bị chủ nghĩa đế quốc, thực dân xâm lược. Với tinh thần yêu nước nhân dân các bộ tộc Lào đã phát huy truyền thống dũng cảm, không chịu đầu hàng và dưới sự lãnh đạo của các lãnh tụ đấu tranh liên tục để giành độc lập, tự do. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương lúc bây giờ và Đảng nhân dân cách mạng Lào, nhân dân Lào đã tiến hành cuộc đấu tranh khó khăn, gian khổ, dũng cảm, hy sinh vì Tổ quốc. Kết quả, nhân dân Lào đã đánh đuổi được chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và chính thức thành lập nước CHDCND Lào vào ngày 2 tháng 12 năm 1975. Nhà nước Lào được tổ chức theo mô hình nhà nước tập quyền XHCN, quyền lực nhà nước được tập trung thống nhất vào cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra thông qua tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Vì trực tiếp nhận được từ nhân dân nên quyền lực của cơ quan này là tối cao. Song Quốc hội chỉ thực hiện quyền lực lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao mọi hoạt động của nhà nước. Để thực hiện quyền lực nhà nước trong những lĩnh vực còn lại, Quốc hội lại tổ chức ra các cơ quan trung ương khác như Nguyên thủ quốc gia, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Vì vậy, các cơ quan nhà nước khác ở trung ương đều phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân hay cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước và chịu sự kiểm tra giám sát của cơ quan này. Từ khi thành lập nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đến nay, Đảng nhân dân cách mạng Lào đã quan tâm lãnh đạo và củng cố bộ máy nhà nước nói chung, Quốc hội nói riêng nhằm đảm bảo tổ chức thực hiện có hiệu quả, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đã để ra trong từng giai đoạn. Quan điểm của Đảng đối với giám sát của Quốc hội và đại biểu quốc hội, đã thể hiện rõ trong các nghị quyết đại hội và các văn kiện của Đảng: Trong bài phát biểu của chủ tịch Khăm Tay SI PHĂN ĐON trong Hội nghị Quốc hội lần thứ 7 khóa III (ngày 7 tháng 10 năm 1995) đã chỉ rõ: "Quốc hội trong giai đoạn mới là cơ quan đại diện lợi ích thật sự cho nhân dân. Vì vậy, mọi hành động của đại biểu quốc hội làm thế nào phải làm cho đất nước phát triển, làm cho cuộc sống của nhân dân ấm no hạnh phúc hơn, quyền và lợi ích của nhân dân đã được thực hiện một cách đầy đủ, đó là vấn đề chính, dù chức năng lập pháp, ra luật hoặc giám sát hành động của hành pháp và tư pháp. Phải lấy quan điểm trên chỉ đạo". "Đồng thời Chủ tịch Đảng đã nhấn mạnh: Các đại biểu quốc hội cần phải chủ động trong việc kiểm soát, giữ gìn tài sản quốc gia, chủ yếu là quản lý và hạn chế chi phí không phù hợp, chống lãng phí, tham ô, tham nhũng…". Trong điều kiện ở Lào, nhân dân muốn giành và thực thi được quyền lực của mình tất yếu cần có sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào vì Đảng là đội quân tiên phong tiêu biểu cho lương tâm và trí tuệ của thời đại, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tổ chức quyền lực nhà nước được thiết kế theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo nhà nước, các tổ chức chính trị và xã hội. Cách tổ chức trên dẫn tới sự khác biệt trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Lào. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở Lào được thực hiện bởi cả Đảng và nhân dân. Trong tương quan đó, kiểm soát quyền lực của Đảng là quan trọng và chủ yếu. Tổ chức bộ máy nhà nước Lào gồm 3 cơ quan chính. Đó là, cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Hiến pháp quy định: Quốc hội là cơ quan đại diện quyền và lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước và là cơ quan lập pháp có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của quốc gia, kiểm soát hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp (tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân) [42, tr.18]. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia đại diện cho nhân dân các bộ tộc Lào trong nước và sống tại nước ngoài. Điều 66 Hiến pháp quy định: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra với tối thiểu là 2/3 các đại biểu quốc hội đến dự trong hội nghị đồng ý. Chủ tịch nước có nhiệm kỳ là 5 năm cùng với nhiệm kỳ của Quốc hội [42, tr.25]. Chính phủ là cơ quan hành pháp. Chính phủ thống nhất quản lý và thực hiện nhiệm vụ toàn diện của nhà nước: chính trị, kinh tế, vă hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng và ngoại giao [42, tr.28]. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước bao gồm: tòa án nhân dân tối cao; tòa án phúc thẩm; tòa án nhân dân tỉnh, thành; tòa án nhân dân huyện và tòa án quân sự. Nếu cần thiết thì có thể thành lập tòa án riêng của nhánh thông qua Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định [42, tr.34]. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan giám sát việc thực hiện pháp luật. Bao gồm: viện kiểm sát nhân dân tối cao; viện kiểm sát nhân dân phúc thẩm; viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành; viện kiểm sát nhân dân huyện và viện kiểm sát quân sự [42, tr.37]. Bên cạnh Hiến pháp, nhà nước còn ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật, quy định về tổ chức thành lập các cơ quan, các ban, nhánh giúp việc trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để từ đó Nhà nước ban hành các văn bản quỵ phạm pháp luật quy định về quyền giám sát và phản biện xã hội của nhân dân. Bên cạnh Hiến pháp, Nhà nước còn ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quy định về quyền giám sát của nhân dân, đó là: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo, pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm tòa án nhân dân, pháp lệnh kiểm sát viên và Viện kiểm sát nhân dân, pháp lệnh cán bộ, công chức, pháp lệnh Hải quan, pháp lệnh phòng, chống tham nhũng. Theo các văn bản này, Kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm tòa án nhân dân, cán bộ, công chức nhà nước, đại biểu Quốc hội có nghĩa vụ tôn trọng và chịu sự giám sát của nhân dân. Nghiên cứu những quy định pháp lý nêu trên, chúng ta nhận thấy một thực tế là, những quy định về quyền giám sát của nhân dân chưa đầy đủ và đồng bộ, còn thiếu cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân giám sát hoạt động của đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan đảng, nhà nước, cũng như thực hiện phản biện xã hội đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong Hiến pháp và các luật, pháp lệnh có liên quan nêu trên, không có điều nào quy định về quyền giám sát của nhân dân đối với đảng viên và tổ chức đảng, mà chỉ có quy định nhân dân có quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước. Trong khi đó, lời nói đầu của Điều lệ Đảng NDCM Lào đã khẳng định “Đảng lãnh đạo và phát huy chức năng, nghĩa vụ trong việc quản lý nhà nước, sự chủ động của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội. Đảng tôn trọng và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật’’ [19, tr.136]. Về quyền phản biện xã hội của nhân dân đối với việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, đến nay chưa có quy định pháp lý cụ thể nào, mà chỉ có quy định mang tính nguyên tắc trong Hiến pháp, điều 41 Hiến pháp quy định: nhân dân Lào có quyền khiếu nại, tố cáo và kiến nghị ý kiến của mình với cơ quan nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích chung hoặc quyền và lợi ích riêng của mình. Khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của nhân dân phải được tiếp nhận và xử lý theo pháp luật. Điều 45 Hiến pháp quy định: nhân dân Lào có quyền tự do về việc nghiên cứu, sử dụng kiến thức khoa học kỹ thuật, văn nghệ và tiến hành hoạt động văn hóa trong khuôn khổ pháp luật. Trong luật mới chỉ có quy định về việc nhân dân được đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, thông qua hoạt động lấy ý kiến của nhân dân trong quy trình lập pháp của Quốc hội, được quy định lại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 10 về tăng cường trách nhiệm của Uỷ ban đảng các cấp đối với việc kiểm tra. Những văn bản này thể hiện sự quan tâm của Bộ Chính trị đối với ý kiến của nhân dân và việc lấy ý kiến của nhân dân trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật. Tuy nhiên những văn bản này còn thiếu quy định cụ thể để nhân dân thực hiện quyền đóng góp ý kiến, quyền phản biện đối với chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình hoạch định chủ trương đường lối của Đảng chưa thực sự phát huy hoạt động giám sát của nhân dân cũng như hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trên thực tế, trước mỗi kỳ Đại hội Đảng, Ban Bí thư có hướng dẫn về việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân đối với bản Dự thảo, Báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương trình Đại hội. Đây là việc làm được đánh giá cao, bởi mục đích cầu thị và dân chủ trong hoạt động của Đảng được thực tế hóa một cách sâu rộng trên phạm vi toàn quốc. Bất cứ người dân nào cũng có quyền đóng góp ý kiến của mình vào Dự thảo Báo cáo chính trị của Đảng. Do đó tâm tư, nguyện vọng của nhân dân thông qua hình thức này đã được chuyển tới Đảng. Tuy nhiên, việc lấy ý kiến của nhân dân ở đây chưa thông qua một cơ chế pháp lý có tính bắt buộc, mà mới chỉ hình thành như một việc làm tự giác của Đảng. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, việc lấy ý kiến của nhân dân được thực hiện rộng rãi, nhưng việc tiếp thu ý kiến của nhân dân lại chưa được quy định cụ thể và chưa được chú trọng trên thực tế. Điều này làm giảm sự nhiệt tình của nhân dân trong việc tham gia đóng góp ý kiến, phản biện đối với quá trình xây dựng, hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng. Tóm lại, những quy định pháp lý hiện hành chưa thực sự tạo được một cơ chế pháp lý hữu hiệu cho nhân dân thực hiện quyền phản biện đối với quá trình xây dựng, hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng. 2.2. thực trạng quy định pháp luật về chủ thể giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân Lào 2.2.1. Giám sát của Mặt trận Lào xây dựng đất nước và tổ chức thành viên a. Vài nét về tổ chức của Mặt trận Lào xây dựng đất nước và các tổ chức thành viên * Mặt trận Lào xây dựng đất nước Có tiền thân là Mặt trận Lào tự do được thành lập ngày 13-8-1950, trải qua các thời kỳ hoạt động với những tên gọi khác nhau như: Mặt trận Lào tự do, Mặt trận Lào yêu nước và hiện nay là Mặt trận Lào xây dựng đất nước. Mặt trận Lào có vai trò tập hợp, đoàn kết toàn dân, động viên nhân dân Lào lập nên chiến công lịch sử hào hùng, tiến lên dành độc lập dân tộc hoàn toàn năm 1975 và hiện nay đang tiếp tục nâng cao tinh thần yêu nước, tự mình làm chủ, bảo vệ và từng bước xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Đoàn kết dân tộc thành một khối là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự sống còn của đất nước Lào. Trong điều lệ của Mặt trận Lào xây dựng đất nước tại Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ VIII ghi rõ: " Mặt trận Lào xây dựng đất nước là liên minh chính trị của toàn xã hội, là liên minh tự nguyện của các tổ chức chính trị, của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và cá nhân, đại diện cho các tầng lớp nhân dân, dân tộc, tôn giáo và người Lào đang làm ăn và sinh sống ở nước ngoài". Cơ quan Mặt trận Lào xây dựng đất nước là một bộ phận trong hệ thống chính trị của chế độ Dân chủ nhân dân Lào, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là tổ chức kế tục sự nghiệp Lịch sử và truyền thống tốt đẹp của cơ quan Mặt trận tự do trước đây. Mặt trận Lào xây dựng đất nước là cơ quan tập trung tinh thần, tư tưởng nguyện vọng của nhân dân. Là nơi trao đổi bàn bạc, phối hợp và thống nhất thành công giữa các thành viên, có nhiệm vụ xây dựng và tăng cường sự thống nhất về mặt chính trị, tư tưởng của toàn dân, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, thực hiện nghiêm túc Hiến pháp và pháp luật, tham gia tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước, của các đại biểu nhân dân... * Các tổ chức thành viên của Mặt trận Lào xây dựng đất nước Mặt trận Lào xây dựng đất nước thực hiện viên minh rộng rãi với các tổ chức thành viên trên cơ sở tình nguyện, hợp tác và hiệp thương dân chủ. Hiện này ở cấp trung ương, Mặt trận Lào xây dựng đất nước có khoảng 20 tổ chức thành viên trong đó quan trọng nhất là 4 tổ chức chính trị - xã hội sau đây: 1. Liên hiệp công đoàn: Liên hiệp công đoàn của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào được thành lập ngày 1/2/1956, là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, đội ngũ tri thức và những người lao động lập ra. Công đoàn có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp công nhân, có chức năng đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức và người lao động, tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục, giáo dục động viên công nhân, viên chức, người lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ đất nước. Theo Điều 2 Luật Công đoàn Lào năm 2008 quyết định "công đoàn Lào là một cơ quan tổ chức rộng rãi trong hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân do Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo, làm đại diện trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của thành viên công đoàn, công nhân và người lao động" [34, tr.2]. Công đoàn Lào là thành viên của Mặt trận Lào xây dựng đất nước do Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo, có quan hệ hợp tác với các tổ chức chính trị xã hội và tổ chức xã hội khác: hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Công đoàn Lào tổ chức theo các cấp cơ bản sau: Liên hiệp công đoàn Lào; liên hiệp công đoàn tỉnh, thành; công đoàn huyện; công đoàn ngành trung ương; công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn. Hiện nay, cả nước có 98.899 đoàn viên, đang sinh hoạt trong 2.396 công đoàn cơ sở, có 5.685 nghiệp đoàn. Có 17 liên hiệp công đoàn tỉnh thành và 25 công đoàn ngành Trung ương. 2. Liên hiệp phụ nữ Lào Được thành lập 20/7/1995 là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Lào. Liên hiệp phụ nữ Lào cơ chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp, chính đáng và sự phát triển phụ nữ, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, Hội đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện pháp luật. Chính sách của nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, tham gia, đề xuất chính sách với Đảng, Nhà nước nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng và phát triển. Theo Điều 1 của Nghị quyết ủy viên trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào số 128/UBTW quy định: Liên hiệp phụ nữ Lào là cơ quan tổ chức quần chúng của Đảng hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, là một tổ chức trong hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của cục chính trị TW Đảng, Ban Bí thư TW Đảng và Ban chấp hành liên hiệp phụ nữ Lào được tổ chức thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Điều lệ của liên hiệp phụ nữ Lào [43, tr.1]. Hiện nay, Liên hiệp phụ nữ Lào có tất cả 1.074.504 thành viên đang hoạt động theo hệ thống tổ chức của Hội gồm 4 cấp: Trung ương; Tỉnh/thành; Huyện/ Thành thị; Bản - Làng (còn lại là cấp cơ sở). 3. Đoàn thành niên nhân dân cách mạng Lào Được thành lập ngày 14/4/1955 là tổ chức chính trị - xã hội của thành viên Lào, là thành viên của Mặt trận Lào xây dựng đất nước do Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo, là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và tổ chức xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh, thiếu nhi, tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội. Thanh niên là hậu bị tin cậy của Đảng. Đội quân xung kích cách mạng, là trường học XHCN của thanh niên. Là tổ chức đại diện chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tuổi trẻ phụ trách đội thiếu niên là lực lượng nòng cốt chính trị trong phong trào thanh niên và các tổ chức thanh niên Lào. Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào tổ chức và hoạt động theo Nông thôn tập trung dân chủ. Đoàn được tổ chức theo 4 cấp: Trung ương đoàn, tỉnh, thành đoàn; huyện đoàn và bản làng đoàn. Hiện nay, Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào có 258.431 Đoàn viên, nữ 121.800 đoàn viên, sinh hoạt ở các Đoàn cơ sở và chi đoàn toàn quốc. 4. Liên hiệp Cựu chiến binh quốc gia Lào Được thành lập ngày 9/9/2002,là một đoàn thể chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Lào xây dựng đất nước. Là một cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của nhà nước và Điều lệ của mình. Liên hiệp Cựu chiến binh quốc gia Lào có chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi ích chính đáng của cựu chiến binh, tham mưu giúp cấp ủy Đảng và là lực lượng nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động cựu chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách mạng, của Hội, tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước. Hệ thống tổ chức chính trị của Liên hiệp cựu chiến binh quốc gia Lào gồm có 4 cấp: - Cấp trung ương; - Cấp tỉnh, thành; - Cấp huyện, thành thị; - Cấp cơ sở. Ngoài 4 tổ chức chính trị - xã hội kể trên, Mặt trận Lào xây dựng đất nước còn có các tổ chức thành viên khác như: tổ chức chính trị (Đảng nhân dân cách mạng Lào) đồng thời là người lãnh đạo, Quân đội nhân dân Lào, Liên hiệp phật giáo Lào, đại diện các tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, các giới và người Lào ở nước ngoài... số thành viên và các tổ chức thành viên của Mặt trận Lào là không giới hạn, chính trị vì vậy, xu hướng hiện nay là Mặt trận ngày càng mở rộng phạm vi các tổ chức thành viên với sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nhân đạo, từ thiện... 2.2.2. Giám sát của công dân đối với quyền lực nhà nước Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước nên nhân dân có quyền giám sát quyền lực nhà nước thông qua các cơ chế bầu cử, nhân dân thiết lập cơ quan quyền lực của mình để thực thi quyền lực nhà nước. Đó là Quốc hội. Bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Mọi công dân Lào đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội theo quy định của pháp luật. Bầu cử theo nhiệm kỳ còn là cách thức nhân dân giám sát trực tiếp các đại diện của mình bằng quyết định lựa chọn hay loại bỏ những đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của dân. Hiến pháp quy định: “đại biểu Quốc hội do dân bầu ra và chịu sự giám sát của dân” [42, tr.32]. Hiến pháp CHDCND Lào quy định: Nhà nước bảo vệ tự do và quyền dân chủ của nhân dân không ai có thể xâm phạm. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức phải tuyên truyền chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước cho nhân dân và tổ chức thực hiện, để đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân. Kiên quyết chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền sẽ dẫn tới sự xâm phạm danh dự, thân thể, tinh thần và tài sản của nhân dân [42, tr.2]. Công dân những người có năng lực pháp luật, năng lực hành vi có quyền giám sát hoạt động tất cả các cơ quan, tất cả những người có chức vụ, quyền hạn, không có bất kỳ sự hạn chế nào. Chẳng hạn như đi học, đi thi công dân có quyền giám sát đối với hoạt động của các công chức, viên chức trong ngành giáo dục; khi thực hiện quyền tự do kinh doanh, công dân có quyền giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, quản lý thị trường,... 2.2.3. Giám sát của các tổ chức xã hội đối với quyền lực nhà nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay đã tới 57 tổ chức hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc và hơn 254 hội có phạm vi hoạt động tỉnh, thành phố. Mô hình tổ chức của xã hội rất đa dạng, phong phú: Liên hiệp Hội, hội liên đoàn, tổng hội, liên đoàn, chi hội, các tổ chức dịch vụ (có tên gọi khác nhau) hoạt động trên các lĩnh vực khoa học. công nghệ, y tế, văn hóa, xã hội, tư vấn pháp luật, quỹ... trong số các hội, có nhiều tổ chức đã tham gia làm thành viên của Mặt trận Lào xây dựng đất nước ở các cấp, nhiều tổ chức là thành viên hoặc cơ quan hệ hoạt động thường xuyên với các tổ chức phi chính phủ tương ứng của nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế khác (nhận viện trợ, trao đổi thông tin). Trong Điều 17 Pháp lệnh số 115/TT-CP, ngày 29/4/2009 quy định: “ Hội là tổ chức xã hội, có vai trò tập hợp sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên và giúp đỡ xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hội, hội viên hoặc quần chúng; đóng góp vào việc xây dựng và phát triển đất nước và xóa đói giảm nghèo” [44, tr.7]. Các hội đang tổ chức và hoạt động ở Lào hiện này gồm có: - Các hội có tính chất Liên hiệp: Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Lào, Liên Hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Lào, và Liên hiệp Các Tổ chức hữu nghị Lào. Những hội này có tiếng nói đáng kể nhất trong việc giám sát đối với hoạt động của nhà nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực chuyên môn. - Các hiệp hội của tổ chức kinh tế: theo thống kê hiện nay cả nước có khoảng 20 hiệp hội kinh tế, bao gồm hội viên tập thể, hội viên là doanh nghiệp. Cấp toàn quốc có các hiệp hội doanh nghiệp ngành nghề như: Hiệp hội thương nhân, Hội doanh nghiệp vừa và nhỏ... ở cấp địa phương cũng xuất hiện nhiều hội doanh nghiệp độc lập hoặc đồng thời là thành viên của các hiệp hội toàn quốc như: hội bến xe, hội các nhà doanh nghiệp Lào - Việt, hội các nhà doanh nghiệp Lào - Trung Quốc. - Các hiệp hội thể thao: hiện nay ở Lào có khoảng 7 hội liên hiệp tiêu biểu như: hội liên đoàn bóng đá Lào, liên đoàn petang (bi sát), liên đoàn cầu lông.... - Các hiệp hội hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, từ thiện... ở địa phương của Lào hiện nay, tỉnh nào cũng có hội, nơi nào kinh tế, văn hóa, khoa học phát triển, nơi đó có nhiều hội hơn. 2.2.4. Giám sát của tập thể lao động đối với quyền lực nhà nước Các tập thể lao động ở trong xã hội ở Lào hiện nay có số lượng lớn, hình thức, quy mô rất phong phú, đa dạng chưa thống kê hết. Đó có thể là các tổ, nhóm công dân lao động trong các công ty, nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã. Đó cũng có thể là doanh nghiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể... đứng trên danh nghĩa của mình để thực hiện việc giám sát đối với các cơ quan quản lý nhà nước. 2.3. Nội dung giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của các chủ thể ở Lào 2.3.1. Nội dung giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước của Mặt trận Lào xây dựng đất nước và các tổ chức thành viên Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VIII của mình: Mặt trận Lào xây dựng đất nước đã chú ý tập hợp, đoàn kết, hòa hợp dân tộc trong toàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn.doc
  • docBìa.doc