Luận văn Hình tượng con người trong thơ Quang Dũng

Trong “Tây Tiến” chúng ta đã bắt găp hình ảnh đôi mắt vô cùng ấn tượng: “mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Đó là đôi mắt của người chiến sĩ cách mạng, đôi mắt ấy trừng trừng nhìn vào quân thù đầy căm ghét, đôi mắt thể hiện khí phách ngang tàng, lòng quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước; nhưng đó cũng là đôi mắt đầy mơ mộng, lãng mạn “gửi mộng qua biên giới” và vẫn từng “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2702 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hình tượng con người trong thơ Quang Dũng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hận xét: “mây gió, cỏ hoa xinh tuơi kì diệu đến đâu hết thảy cũng đều từ trong lòng người mà nảy ra”. Đến với thơ Quang Dũng chúng ta bắt gặp ở đó sự giao cảm sâu sắc giữa con người và không gian. Qua đó chúng ta hiểu rõ hơn thế giới nội tâm của tác giả. Mây_ nỗi ám ảnh trong tâm hồn con người Trong bài viết “Áng mây trắng xứ Đoài”, in trong cuốn chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, tập 2, Văn Giá viết Quang Dũng “sinh ra để làm một kiếp mây”, và “ ông cứ làm một áng mây trắng xứ Đoài hồn nhiên lang thang từ làng ra phố, hết phố lại lên rừng, rồi lại từ rừng về phố. Để cho hôm nay, vào tuổi 50 mới ngộ ra phận mình y như một áng mây lang thang không hơn không kém” [3; 86- 87]. Đúng vậy, Quang Dũng sinh ra để làm một kiếp mây lang thang. Ngay từ thời Tây Tiến chúng ta đã bắt gặp một “cồn mây” sừng sững bị cái mũi súng chọc thủng hướng lên trời: “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” Không chỉ có thể, trong những sáng tác sau này của ông nhiều lần chúng ta gặp lại hình ảnh áng mây. Áng mây trắng đăc biệt xuất hiện với hình ảnh quê hương xứ Đoài: Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm (Mắt người Sơn Tây) Ba Vì tảng đá xanh Thức với mây Đoài trắng xóa (Bất Bạt đêm giao quân) Hay: Hãy ngẩng lên nhin chóp Tản Viên Mây trắng xưa nay về tụ họp Mây một phương Đoài về tụ họp (Ba Vì đón Bác) Dường như áng mây tráng đã trở thành nỗi ám ảnh sâu sắc trong tâm hồn Quang Dũng. Khi viết những vần thơ về miền quê khác chúng ta cũng thấy hình ảnh mây trằng xuất hiện rất nhiều: Ai nhớ Hồ Nam mây trắng xa (Hồ Nam) Hay: Pha Đin ngàn chóp nổi hồ mây (Pha Đin) Kể cả khi viết về mình, hình ảnh áng mây cũng không tách khỏi tâm trí của Quang Dũng, có lúc ông đã nhân mình là một áng mây lang thang: Mây ở đầu ô mây lang thang Ôi! chật làm sao Góc phố Phường (Mây đầu ô) Có lúc ông lại ví tóc của mình mang màu trắng của mây: Tóc anh đã thành mây trắng (Không đề) Hình ảnh áng mây như đã xuyên suốt hành trình thơ của Quang Dũng. Mây đã trở thành nỗi ám ảnh bền bỉ nhiều biến hóa trong tâm hồn ông. Áng mây trắng Quang Dũng đã cùng đồng chí, đồng đội xếp bút nghiên lên đường đi đánh giặc. Với tuổi trẻ căng tràn nhiệt huyết và chất lãng mạn họ nhìn ngăm cuộc đời thật hồn nhiên, giản dị. Họ ra chiến trường với ý chí “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” , Họ xem thường cái chết: “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Dù gian khổ, hiểm nguy họ vẫn lạc quan yêu đời, đầy mơ mộng: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Họ vẫn mang trong mình dòng máu phiêu lưu: Trắng nửa sông xa mờ khí núi Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu (Thu) và Đi trong đường mây rắc bụi vàng (Pha Đin) Áng mây Trắng trong thơ Quang Dũng mang hình tráng sĩ từ đó. Áng mây trắng Quang Dũng còn là một áng mây luôn ấp ủ tình yêu thương con người, ấp ưu khung cảnh đời thường. Đó là câu chuỵên của những người lính với những tình cảm rất thật mà dường như họ đã để lại đằng sau vì đất nước: Khuya khoắt bờ sông vắng Lửa hồng quán tản cư Lính mấy chàng vất vả Tìm sống một đêm thơ (Lính râu ria) Trong cuộc hành quân đầy gian lao vất vả, Có những lúc những người lính bắt gặp những hình ảnh gợi lên cho họ niềm nhớ thương. Trong bài thơ “lính râu ria” cũng như vậy. Khi nguời lính ôm con của chị hàng nước, ánh mắt non nhìn như sao của cháu bé làm anh chạnh lòng nhớ tới vợ con mình nơi xa quê: “Anh ôm con người ta – anh ôm ghì nó mãi”. Quang Dũng là người hơn ai hết hiểu được tình cảm đó vì ông là người từng trải qua những phút giây đó và ông có một trái tim biết thổn thức. Áng mây ấy có một trái tim yêu chân thành, tha thiết: Em mãi là tuổi hai mưa Ta mãi là mùa xanh xưa (Không đề) Đó là tình cảm nhà thơ dành cho người con gái vườn ổi. Tình yêu đó là một tình yêu thanh khiết, cao quý. Dù cho mối tình đó không thành và giờ đây khi: Tóc anh đã thành mây trắng Mắt em dáng thời gian qua (Không đề) Thời gian đã lấy đi tuổi trẻ hiện lên trên dáng vẻ của họ nhưng không lấy đi thứ tình cảm cao quý nhất đó là tình người: “Giữ mãi tình người cho đẹp” để “cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”. Áng mây ấy luôn là áng mây trong sáng, hồn nhiên, giàu lòng yêu thương. Áng mây ấy rồi cũng về trời, nhưng tình yêu thì vẫn ở lại mãi không rời xa cuộc đời.Áng mây Quang Dũng đến cuối đời vẫn là “ Mây ở đầu ô mây lang thang” và vẫn khát khao “hẹn những chân trời xa lạ. Khi áng mây áy bay về trời vẫn còn mãi lòng thiết tha yêu cuộc đời, con người. “Áng mây trắng xứ Đoài Quang Dũng vẫn cứ lãng đãng ngang trời, phủ một bóng mát xuống nền thơ Việt Nam hiện đại” [3; 103]. 2.1.2 Quê hương Sơn Tây_niềm khắc khoải khôn nguôi Rời quê hương thân yêu lên đường ra chiến trận, người chiến sĩ mang dáng dấp của chàng Kinh Kha năm xưa: Thôi hãy lên đường tráng sĩ ơi Quê hương mong đợi đã bao đời Biên thùy nghe dậy niềm ai oán Gươm hận mài chưa? Khát máu rồi (Biết gửi đưa ai_ Báo Vệ Quốc) Xa cách cảnh thanh bình nơi quê cũ, lòng người không khỏi nhớ thương, luyến tiếc một mùa thu như mùa thu Hà Nội: Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ một mùa thu đã qua Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy (Đất nước_Nguyễn Đinh Thi) Cũng với quyết tâm “Đầu không nghoảnh lại” Quang Dũng cùng bao bạn bè đồng trang lứa đã ra chiến trận với ý chí “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Nhưng trong chặng đường đầy gian lao, hiểm nguy ấy chưa lúc nào hình ảnh quê hương thôi hiện về trong ông. Quê hương với những ngày xưa đầy kỉ niệm, nơi thanh bình nhất của mỗi con người. Những lúc ngồi lại với tâm hồn mình, hình ảnh quê hương lại về trong Quang Dũng: Ngồi đây vời tưởng đường quê hương Lúa dã xanh xanh nẻo mấy đường Cốm đã thơm mùi, hồng đã chín Ao sau vườn cũ nước xanh trong Tâm hồn nhạy cảm của người thi sĩ luôn hướng về quê hương. Trong kí ức của ông, hình ảnh quê hương hiện về bao thân thuộc. Duờng như ông nhớ rõ từng chi tiết nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ông nhớ cả mùa vụ ở quê ông. tất cả đều thân thương, như chưa từng chia xa bao giờ vậy. Trong bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây” nỗi niềm khắc khoải của Quang Dũng về quê hương của mình hiện lên rât rõ: Em ở Thành Sơn chạy giặc về Tôi từ chinh chiến cũng ra đi Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì Nhà thơ nhớ quê hương, nhớ người em thoáng gặp đã chia ly. Và từ nơi chia ly ấy hình ảnh quê hương dần xa, dần xa.. Nhà thơ như đã thốt lên thành lời nối nhơ quê cồn cào, tha thiết : Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Quê hương trong con người Quang Dũng luôn thường trực bởi ông là con người thấm đậm hồn quê, thấm đậm chất Sơn Tây. Nhớ về quê hương nơi có mẹ già, con nhỏ. Lòng Quang Dũng lại bồi hồi lo lắng bởi kẻ thù không trừ một mảnh đất nào trên quê hương Việt Nam: Mẹ tôi em có gặp đâu không Những xác già nua ngập cánh đồng Tôi cũng có thằng con bé dại Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông. Bao cảm xúc nhớ thương, lo lắng ùa về. Đối với ông “Nhớ Sơn Tây hơn một mối tình”. Ông đã khẳng định tình cảm sắt son dành cho quê hương: Dẫu chúng tôi đi Khắp núi khắp sông đất nước Lòng vẫn nhớ thiêng liêng Mảnh đất ban đầu (Gửi Sơn Tây) Quê hương Sơn Tây hiện lên trong ông là niềm nhớ, niềm tự hào. Ông cất vang những lời ca ngợi quê hương mình: Cầu vào cửa Tiền Đã chôn vùi một binh đoàn Ả Rập Thời Tây mới sang Sơn Tây vốn từ xưa Là đất dữ Không dung lâu quân thù (Gửi Sơn Tây) Cứ thế ông tiếp tục kể về Sơn Tây với niềm say mê, tự hào từ khi những khóa học đầu tiên, từ lúc “Mường Thanh trói tướng”, “Đờ Cát quy hàng”. Một lần nữa ông lại khẳng định tình yêu dành cho Sơn Tây: Chúng ta đi rộng dài sông núi Vẫn nhớ về đất nhỏ Sơn Tây (Gửi Sơn Tây) Như lời của nhà văn Thanh Châu: “Đẹp thay tâm hồn Quang Dũng! Dù đi đến đâu, lòng anh bao giờ cũng quay về nỗi nhớ nhung vùng đất đá ong cằn cỗi Sơn Tây, với cánh đồng Bương Cấn, với núi Sài Sơn, mây trắng xứ Đoài bay ngang đỉnh núi Ba Vì…” [15; 367]. Dù đi đâu thì tên đất, tên làng gắn liền với vùng quê Sơn Tây không bao giờ rời xa Quang Dũng, ông ước mong, khao khát một ngày trở lại Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng. Đó là những cảnh thanh bình nhất trong lòng tác giả. Những lúc bước trên con đường quạnh quạnh xa quê hương, Quang Dũng lại nhớ về hình ảnh “con đường xưa”_ con đường quê hương. Có lúc ông thiêt tha gọi “Ơi! Con đường xưa” (thu). Con đường dài bao chia ly là con đương được đo bằng độ dài điạ lý; còn con đường nồi từ trái tim nhà thơ với quê hương dường như không tồn tại bởi quê hương vẫn luôn thường trực trong lòng ông. Và trong lòng Quang Dũng, hình ảnh con đường xưa vẫn hiện lên như đang trước mắt: Đường ấy giờ trăng như cổ tích Đường vào những truyện thuở ngày xanh Đường qua bến lỗi ngang người cát Biển thủy triều dâng nước mặn lành. (Đường trăng) Trải qua bao ngày ngăn cách, khi bước “Dọc những đường thu muôn nẻo ấy” bây giờ lòng ngưòi nghệ sĩ mới cảm thấy: Đường qua gian khổ bao ngày tháng Từng nghe thu lại ấm hương đời (Một mùa thu tới) Và giờ đây khi trở về trên con đường lên huyện Ba Vì thì con đường vẫn hiện lên “một màu son núi đỏ”. Quang Dũng xúc động viết nên những vần thơ: Ngày ấy ra đi người hẹn núi Bây giờ đất nước đã hồi xuân Ba mươi năm chẵn bao mùa lúa Vẫn ngọt ngào thơm nắng chuyển vần Vẫn sáng vầng trăng ru tiếng sáo Diều khuya trầm bổng giọng quê hương Đất đá ong trong lòng giếng mát Ôi Sơn Tây, Sài Sơn yêu thương (nhớ một bóng núi) Đến với thể giới thơ ca Quang Dũng chúng ta nhận thấy sự ưu ái của ông dành cho quê hương mình. Với Quang Dũng, Sơn Tây là một phần xương thịt, một niềm khắc khoải khôn nguôi. 2.1.3 Quê hương kháng chiến trong tâm hồn người chiến sỹ đa cảm “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Đó là những vần thơ đầy ý nghĩa mà nhà thơ Chế Lan Viên đã viêt trong bài “Tiếng hát con tàu”. Trên hành trình đi đánh gịăc, mỗi mảnh đất đi qua là một niềm thương nhớ của những người chiến sĩ. Với họ, Những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi đã trở nên gắn bó, thân thuộc. Quang Dũng cũng vậy ông mang một hồn quê sâu nặng. một trái tim yêu thương, một tâm hồn nhạy cảm, mỗi miền đất đi qua với ông là một miền nhớ, miền thương: Từ Nghệ An Hà Tĩnh Nghỉ lại Nho Quan Hút điếu thuốc Sơn vàng Nhìn lên sao Bắc Đẩu Đêm nào vượt sông Đà? Đêm nào vượt sông Hồng?... (Đường 12) Mỗi lúc nghĩ lại chặng đường đã qua, bao kỉ niệm. dấu ấn lại ùa về. Có những niềm đau để lại: Có làng trung đoàn ta đi qua Máu đông in dấu giày đinh giặc Nền tro gạch sém ngách buồng ai Chiêc tã đầu giương đang cháy dở. (Những làng đi qua) Nhưng cũng có lúc quên đi mọi đau thương mất mát để cùng nhau cất lên tiếng hát: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ (Tây Tiến) Mỗi cánh rừng, dòng sông, làng quê Việt Nam là một tình yêu. Ta có thể dễ dàng bắt gặp rất nhiều địa danh trong thơ Quang Dũng. Những địa danh ấy trải dài trên mảnh đất cong cong hình chữ S. trải dài trên bước chân hành quân của người chiến sĩ đa cảm, giàu thương yêu này: Núi biển đất Nga Sơn Giọng xứ Thanh quê hương Những o gái Đường hành quân xứ Nghệ Những đại dương Sông Mã sông Lam. (Nhớ bạn) Những gian lao vất vả của cuộc sống hành quân không làm những người chiến sĩ nản lòng. Họ luôn ấp ủ một tâm hồn tươi trẻ, họ dành lại những khoảnh khắc để nhớ thương những kỉ niệm dấu yêu. Trong lòng họ quê hương kháng chiến luôn hiện về với những hình ảnh thân thương, tất cả như mới gặp hôm qua: Hồng Phú nhiều quán nước Hương cà phê thơm trong giấc ngủ … Hồng Phú những o hàng tạp hóa Mắt đẹp nhìn bâng khuâng (Hồng Phú Châu Giang) Mỗi miền quê để lai một dấu ấn riêng. Lúc đi qua Pha Đin thi lạ tấm tắc: Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được Giang sơn gấm vóc một miền tây Mới thấy yêu sao là đất nước Pha Đin ngàn chóp nổi hồ mây. (Pha Đin) Trong Quang Dũng phải thấm đẫm hồn quê, lòng yêu đất nước nhiều biết bao nhiêu ông mới có thể dành những vần thơ như thế để nói về mỗi làng quê Việt Nam. Quê hương kháng chiến trong lòng Quang Dũng không chỉ là những tên đất, tên làng mà còn có cả những con người xa lạ lại rất quen. Đó chính là những ngưòi mẹ , người em,… Chúng ta đã bắt gặp những tình cảm cao quý của người mẹ xa lạ dành cho những đứa con chiến sĩ trong thơ Tố Hữu: Bầm yêu con bầm yêu đồng chí Bầm quý con bầm quý anh em. (Bầm ơi) Trong “tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên cũng vậy: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa. Đó là tình cảm quân dân, thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý, cũng chính nó góp phần cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong thơ kháng chiến chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp nó. Trong thơ Quang Dũng cũng vậy, một con người luôn sống nhiều tình cảm, ông luôn cảm nhận và xúc động trước tình cảm này. Ông còn nhớ như in hình ảnh người mẹ già thương quân như con của mình: Người lính ghé nhờ Mẹ già tóc bạc phơ Dăn deo nét khó Người vào run sốt Giữa trưa đòi đắp chăn Mẹ già hối đun nước Lấy thêm chăn đắp Kiếm thêm mền. (Nhớ) Trong thời chiến đó là thứ tình cảm vô cùng cần thiết, nó tự nảy sinh trong lòng mỗi người yêu nước. Từ những người xa lạ, họ trở thành mẹ con, anh em ruột thịt. Họ đón nhận trong niềm thương và ra đi trong nỗi nhớ. Ngày chia tay, nhũng món quà đem theo nhỏ nhoi nhưng ý nghĩa vô cùng: Gió bấc về sân buổi tiễn đưa Nải chuối tiễn quân em mới cắt Nắm cơm hàng xóm gửi trung đoàn “Hỏa thực” xếp lèn đôi gánh cật (Những làng đi qua) Những làng quê yêu dấu, nhũng dòng sông thân thương,… và cả những con người chân chất giàu lòng thương yêu ấy làm sao có thể quên đựơc?. Với Quang Dũng, tất cả đó trở nên thân quen, và từ lúc nào đã đi sâu mãi mãi trong miền kí ức của ông. 2.2 Con người trong mối giao cảm với thời gian Thơ là những rung cảm của con ngưòi trước cuộc sống được bộc lộ một cách chân thật, tự nhiên. Những cảm xúc, chiêm nghiệm của Quang Dũng trước cuộc đời đã tạo nên trong thơ ông một tiếng nói rất riêng, đó là cái tôi của những hoài niệm, những khát khao chân thành, mãnh liệt. 2.2.1 Chiều_khi con người tưởng vọng Chiều là khoảng thời gian luôn tạo cho chúng ta một cảm giác hưu quạnh, đó cũng là lúc mà con người muốn tìm về đoàn tụ bên những người thân yêu và cũng là khi bao nỗi niềm ùa về trong lòng những người xa xứ. Quang Dũng là một hồn thơ nhạy cảm, dễ rung động. Trong thơ của ông ta bắt gặp những buổi chiều đìu hiu, quạnh vắng, tịnh mịch: Long lanh bóng núi in sông biếc Buồn nhớ thương ai lòng hiu hiu? Quạnh quẽ sắn nương rờn nắng ấm Ngõ trúc người ơi tịch mịch chiều (thu) Đó là những vần thơ gợi nên nỗi buồn man mác để thấy tâm hồn đa cảm của Quang Dũng. Chiều như mang theo nỗi thương nhớ ùa về, ập lên tâm hồn nhà thơ. Nỗi lòng người xa xứ ấy luôn khắc khoải một bóng hình xưa: Ôi ta nhớ một quê nhà Những tàu cau đượm làm chi ánh nắng (Thu quê ai) Nhà thơ như muốn trở về với những ngày tháng bình yên của thuở ngày xanh. Ở đó có những chiều mát chứ không phải là những chiều quạnh quẽ. Ở đó có những kí ức êm dịu , hồn nhiên: Nhớ sao những ngày tháng xanh Rất xanh! Chiều mát. Đê dài. Cỏ may ta nhặt. (Thu quê ai) Giờ đây nhà thơ đang ở trên mùa thu quê ngừời, không còn “chiều mát” nữa, lòng ông cảm thấy trổng trải: Chiều từ đâu Mà lạnh đến từ đâu? (thu quê ai) Chiều đến từ đâu kéo theo nỗi lãnh lẽo, cô đơn khôn xiết. Những nỗi niềm cứ tuôn tràn, nỗi nhớ thương luôn thường trực trong lòng con người nhạy cảm này. Nơi xa xứ Quang Dũng thương nhớ về quê nhà nơi có những người ông thương yêu nhất trong cuộc đời, ông tưỏng tượng nơi ấy mẹ già đang hằng ngày ngóng trông hình ảnh đứa con chinh chiến mà lòng quặn thắt: Người ơi quê cũ đèn hoa ngọn Tóc bạc trông chừng cổng héo hon (Cố quận) Chỉ vậy thôi là nhà thơ lại càng nhớ càng thương, càng đau lòng: Người đi người đi lòng quạnh quạnh Ngày tháng thương vay kẻ đợi chờ. (Cố quận) Trong Quang Dũng chất chứa nỗi cô đơn không biết sẻ chia cùng ai. Vì vậy ông trải lòng mình lên những trang giấy, lắng nghe tiếng hồn mình thổn thức. Những dòng tâm sự viết tặng riêng mình, ở đó bao nhiêu nỗi nhớ cứ trải dài, trải dài: Tôi viết chiều nay chiều tưởng vọng Làm thơ mình lại tặng riêng mình Sông trôi luống những dòng vô hạn Biền biệt ngày xanh xa ngày xanh (Tôi viết chiều nay) Dòng đời cứ lặng lẽ trôi không bao giờ trở lại, những ngày tháng xa cách như dài đằng đẵng, dài vô hạn. Dường như nỗi niềm không thể sẻ chia cùng ai bởi: Nào ai biết được niềm u ẩn Từng lắng nhiều trong những mảnh đời (Tôi viết chiều nay) Trái tim đa cảm trong Quang Dũng chưa bao giờ thôi thổn thức trước trước sự thay đổi của thời gian. Một chiều tím gợi nên cảm giác buồn hưu quanh. Hình ảnh người em đi trong chiều tím cũng trở nên đáng thương: Chiều ấy em về thương nhớ ai Tôi chắc đường đi đã rất dài Tim tím chiều hôm lên bóng núi Dọc đường mờ những cánh hoa phai (Tôi viết chiều nay) Màu tím hoàng hôn phủ lên bầu trời, phủ lên lòng người. Khi hoàng hôn buông xuống cảnh vật cũng trở nên mờ nhạt, con người thì đằm lại, lắng nghe hồn mình rõ hơn, buồn hơn: Màu tím chiều chầm chậm Hoàng hôn nghe một mình (Tôi viết chiều nay) Chúng ta bắt gặp một hồn thơ Quang Dũng mang nỗi buồn da diết, nỗi buồn như thấm đượm trên từng trang giấy. Nỗi buồn ấy xuất phát từ tấm lòng đầy thương nhớ, đầy xúc cảm của ông. Lắng nghe chiều. lắng nhìn tím hoàng hôn từ những vần thơ của ông ta mới hiểu sâu sắc hơn con người, những rung động của Quang Dũng trước cuộc đời. Ông luôn khát khao những chiều hưu quạnh sẽ lùi xa, khi đó đất nước bình yên, những “chiều xanh” lại về. Những buổi chiều rồi đây sẽ là lúc mọi người được đoàn tụ bên tổ ấm của mình, bên nhau trong cuộc đời bình dị. Không còn những ngày xa biền biệt, ánh mắt mang nỗi buồn sâu thẳm mà sẽ là ánh mắt tuôn trào những giọt nước mắt hạnh phúc: Đâu đó chiều xanh bên ngõ trúc Vợ hiền đang nững chút con thơ Nghẹn ngào đôi mắt rưng rưng lệ Anh nhỉ! Muôn đời ơn tự do. (Một mùa thu tới). 2.2.2 Hôm qua và hôm nay_ con người mang niềm tin mạnh liệt Quang Dũng thường nói về những ngày xưa nhưng đó không phải là những vần thơ mang âm hưởng tiêu cực mà trong nó vẫn sáng lên giữa đời niềm tin, khát khao mãnh liệt vào hôm nay và ngày mai. Quang Dũng yêu và tin vào cuộc sống, hôm qua và hôm nay là những ngày tháng không thể quên đối với con người thiết tha với cuộc đời này. Như bao bạn bè cùng trang lứa, từ biệt quê hương Sài Sơn_niềm khắc khoải khôn nguôi của mình, Quang Dũng cũng mang lòng yêu nước căm thù giặc, với ý chí “ chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Bước vào chiến trận nhà thơ cũng biết rõ những khó khăn, hiểm nguy đang đón đầu và thực tế là ông đã cùng đồng đội của mình trái qua bao gian lao, bệnh tật hoành hành “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” cái chết cận kề “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” . Ông cũng đã từng chứng kiến bao cảnh xót thương: Máu đông in dấu giày đinh giặc Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai Chiếc tạ đầu giường đang cháy dở (Những làng đi qua) Bao khó khăn gian khổ về vật chất không thấm gì so với những khó khăn về mặt tinh thần. Nỗi lòng người xa quê mang bao cảm xúc nhớ thương, cô đơn, lãnh lẽo có lúc tưởng chừng không vượt qua được. Đã có lúc nhà thơ thốt lên: “tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm” (Đôi mắt người Sơn Tây). Nhưng dù gian khổ, thiếu thốn vật chất hay chất chứa bao nỗi buồn xa xứ, Quang Dũng vẫn không thôi nuôi niềm tin mạnh liệt vào tương lai. Ông luôn tin rằng chính trong những ngày bão giông, gian khổ thì mầm sống đã nảy nở: Ngay từ phút đầu hoang khói lửa Nguồn mưa đã hẹn từ xa xôi … Ngay tự phút đầu thân xác gục Ta khơi nguồn sống đến muôn đời (Dòng đời) Và sau cơn bão giông, bầu trời lại sáng hơn, trong hơn, những chồi non lại mọc lên mơn mởn, một sức sông không gì có thể quật ngã: Xương máu không làm hoa hết tuổi Điêu tàn chưa héo cỏ xanh tuơi Trường kháng đã lên bình thản điệu Em chờ ta nhé, em lòng ơi. (Dòng đời) Đó là môt lời hẹn uớc với niềm tin mạnh liệt, sắt son. Nhà thơ tin rằng sẽ có một ngày gặp lại những người thân yêu. Dường như càng nhớ thương ông càng nuôi niềm tin mạnh liệt, càng hy vong nhiều hơn. Ông tưởng đến một ngày không xa , khi đất nước thanh bình, một mùa thu “sáng mát trong như sáng năm xưa” lại về, khi ấy đôi chân lại được bước thênh thang trên giảng đường yêu dấu, nơi đó sẽ là nơi bắt đầu một ngày mới: Anh nhỉ một mùa thu sắp tới Đường mai Hà Nội gió thênh thang Chúng mình chen bước vào thư viện Chân nhẹ xôn xao động lá vàng Phố phường thu đến năng xôn xang. (Một mùa thu tới) Khi đó sẽ không còn những chiều quạnh quạnh mà đã là “Đâu đó chiều xanh bên ngõ trúc”. Ngày đất nước hồi xuân, cảnh yên vui trở lại. Nhà thơ vui mừng đón cuộc sống mới sau 30 năm đất nước chìm trong đau khổ. Tất cả lại nguyên vẹn như chưa hề chia ly, và Quê hương Sài Sơn cũng như bao miền quê khác sẽ lại như lời hẹn ban đầu: Ngày ấy ra đi người hẹn núi Bây giờ đất nước đã hồi xuân Ba mươi năm chẵn bao mùa lúa Vẫn ngọt ngào thơm nắng chuyển vần (Nhớ một bóng núi) Dường như nhà thơ đã xúc động biết bao nhiêu khi chứng kiên đất nuớc hồi xuân, chứng kiến cảnh quê hương trong ngày mới. Niềm tin nỗi nhớ của ông đã được đền đáp, sẽ không gì vui hơn điều đó. Trải qua nhưng tháng ngày xa cách, những tháng ngày chiến đấu, bao niềm vui bao nỗi buồn giờ đây là lúc tâm hồn thanh thản nhất. Những miền quê, mảnh đất đã từng chịu sự tàn phá của bom đạn, dù hôm qua có điêu tàn, xơ xác thì hôm nay nó vẫn ánh lên sự sống mạnh liệt, tươi vui. Nhà thơ mang hồn quê tha thiết ấy lại được vui mừng, hạnh phúc trước niềm vui cuộc sống mới của nhân dân: Đường thôn rạ vàng Ngậy mùi cơm mới Tháng mười quê ta Gạo mùa chim ngói Quê vui lúa màu (Tiết xôi mới trên đường khai hoang) Trong lời văn của Quang Dũng chứa đầy niêm hạnh phúc, xúc động bởi ông là người giàu lòng yêu thương, ông luôn rung động trước nhũng khổ đau cũng như hạnh phúc của con người. Trong niềm vui khôn tả, ông viết những dòng thơ ca ngợi quê hương đất nước: Quê hương trường cửu cùng non nước Ba chục năm trời vẹn ý thơ (Nhớ một bóng núi) Niềm tin, niềm khat khao mạnh liệt đã cho Quang Dũng tình yêu cuộc sống, để khi có được niềm khát khao ấy ông hạnh phúc biết nhường nào. Cũng bởi ý thức đựơc thời gian, tha thiết cuộc sống, sống hết mình trong ngày hôm nay và có niềm tin tuyệt đối vào ngày mai nên những vần thơ “hôm qua và hôm nay” hay đến như vậy. Và dù là hôm qua, hôm nay hay ngày mai thì Quang Dũng mãi là áng mây lang thang ấp ủ niềm tin yêu và khao khát mạnh liệt vào cuộc đời này. 2.3 Con người trong mối giao cảm với con người và cuộc đời Văn học luôn lấy con người và những mối quan hệ của nó làm đối tượng và mục đích hướng tới. Thơ là một thể lọai văn học đặc sắc, trong thể giới thơ ca chúng ta có thể bắt gặp vô số những mối quan hệ mà quan hệ chủ chốt nhất vẫn là mối quan hệ giữa người và người, giữa con người và cuộc đời. Đúng vậy bởi con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, con người không thể sống độc lập mà không có những mối quan hệ ấy. Đến với thể giới thơ ca Quang Dũng chúng ta cũng nhận ra ở đó một Quang Dũng thiết tha giao cảm với con người và cuộc đờì. 2.3.1. Ám ảnh đôi mắt Chúng ta ai cũng biết nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Thông qua hình tượng nghệ thuật chúng ta có thể nhận ra thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả. Khi đi nghiên cứu tác phẩm văn học ta nhận ra các nghệ sĩ, trong hành trình sáng tạo của mình thường xây dựng một số hình tượng tâm huyết lặp đi lặp lại nhiều lần như một ám ảnh. Trong thể giới thơ Hàn Mặc Tử, đó là “Trăng”. Dường như trăng trở thành hệ thống trong thơ của ông. Với Hàn Mặc Tử, trăng trở thành người bạn tâm tình an ủi xóa dịu nỗi đau thể xác và tâm hồn, là đối tượng để ông vươn tới cõi đẹp vĩnh hằng quên đi mọi bất hạnh của mình. Với Vũ Trọng Phụng là nhân vật thầy bói toán số. Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh “Đó là yếu tố tư tưởng nghệ thuật cơ bản của Vũ Trọng Phụng có nội dung triết lý bi quan định mệnh chủ nghĩa nảy sinh như là một điều tất yếu của con người thông minh, sâu sắc, ham triết lí khái quát, ráo riết đi tìm nghĩa lí của cuộc đời mà bất lực”. Còn với Quang Dũng, nỗi ám ảnh đó là hình tượng đôi mắt. Đến với thế giới thơ Quang Dũng, chúng ta bắt gặp hình ảnh đôi mắt xuất hiện rất nhiều lần. Có lúc là đôi mắt sáng như vì tinh tú, có khi lại thể hiện khí phách ngang tàng, rồi có lần nó lại hiên lên nỗi buồn u ẩn khó hiểu. Trong “Tây Tiến” chúng ta đã bắt găp hình ảnh đôi mắt vô cùng ấn tượng: “mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Đó là đôi mắt của người chiến sĩ cách mạng, đôi mắt ấy trừng trừng nhìn vào quân thù đầy căm ghét, đôi mắt thể hiện khí phách ngang tàng, lòng quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước; nhưng đó cũng là đôi mắt đầy mơ mộng, lãng mạn “gửi mộng qua biên giới” và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbi ti7875u lu7853n.doc