Luận văn Hoàn thiện công tác quản lý quỹ tài chính tại công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Tây

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu: 1

Chương I: Lý luân chung về Bảo hiểm nhân thọ:

I. Sự cần thiết của Bảo hiểm nhân thọ và sự hình thành của Bảo hiểm nhân thọ: 3

1. Sự cần thiết của Bảo hiểm nhân thọ: 3

2. Sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm nhân thọ: 4

2.1. Trên thế giới: 4

2.2. ở Việt nam: 5

II. ý nghĩa của Bảo hiểm nhân thọ: 6

1. Bảo hiểm nhân thọ có ý nghĩa về kinh tế: 6

2. Bảo hiểm nhân thọ có ý nghĩa về xã hội: 8

III Nội dung Bảo hiểm nhân thọ: 9

1. Định nghĩa Bảo hiểm nhân thọ: 9

2. Các trường hợp được bảo hiểm và các trường hợp loại trừ: 10

3. Đặc điểm của sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ 10

3.1. Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro:

3.2. Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm:

3.3. Các loại hợp đồng trong Bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp:

3.4. Phí Bảo hiểm nhân thọ chịu sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp:

3.5. Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định:

4. Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ: 13

4.1. Định nghĩa hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ: 13

4.2. Các chủ thể và trách nhiệm của các bên trong hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ: 13

4.3. Một số quy định khi ký kết hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ: 14

5. Các sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ: 17

5.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong: 17

5.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống: 22

5.3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: 22

5.4. Các điều khoản bảo hiểm bổ sung: 23

6. Thị trường Bảo hiểm nhân thọ tại Việt nam: 24

IV Quỹ tài chính Bảo hiểm nhân thọ: 25

1. Quỹ tài chính Bảo hiểm nhân thọ: 25

1.1. Nguồn thu của quỹ tài chính Bảo hiểm nhân thọ: 25

1.2. Các khoản chi của quỹ tài chính Bảo hiểm nhân thọ: 26

2. Sự cần thiết của quản lý quỹ tài chính Bảo hiểm nhân thọ: 28

Chương II: CÔNG TÁC QUẢN LÝ QUỸ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ HÀ TÂY:

I. Sự ra đời và phát triển của Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà tây: 32

II. Những khó khăn, thuận lợi trong quá trình triển khai Bảo hiểm nhân thọ tại Hà tây: 35

1. Những yếu tố tác động đến công tác Bảo hiểm nhân thọ tại Hà tây: 35

2. Những mặt thuận lợi: 35

3. Những mặt khó khăn: 37

4. Những loại hình BHTN được triển khai tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà tây; 38

III Công tác quản lý quỹ tài chính tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà tây: 45

1. Tổng thu của quỹ tài chính: 45

1.1. Doanh thu biến động theo không gian: 46

1.2. Doanh thu phụ thuộc vào tính chất của từng nghiệp vụ Bảo hiểm nhân thọ: 49

1.3. Quản lý phí thu: 52

2. Tổng chi: 54

3. Quản lý lý hợp đồng: 58

4. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm: 62

4.1. Công tác giám định Bảo hiểm nhân thọ: 63

4.2. Kết quả giám định và trả tiền Bảo hiểm: 67

IV Những ưu điểm và hạn chế phát sinh trong quá trình quản lý quỹ tài chính tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà tây: 68

1. Những mặt ưu điểm: 68

2. Những mặt hạn chế: 69

Chương III: NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ QUỸ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ HÀ TÂY:

I. Mục tiêu của công tác quản lý quỹ tài chính trong thời gian tới tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà tây: 71

II. Những giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý quỹ tài chính tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà tây: 72

1. Công tác quản lý nguồn thu: 72

1.1. Công tác tuyển dụng và đào tạo đại lý khai thác; 72

1.2. Công tác phục vụ khách hàng và chiến lược cạnh tranh: 76

1.3. Tăng cường tuyên truyền trong công tác Bảo hiểm nhân thọ: 77

1.4. Nâng cao chất lượng quản lý quỹ tài chính, phục vụ tốt công tác khai thác BHNT: 78

2. Công tác quản lý chi trả: 79

2.1. Nâng cao chất lượng giám định: 79

2.2. Nâng cao chất lượng phục vụ trong công tác chi trả cho khách hàng: 80

3. Xây dựng hoàn chỉnh một hệ thốngtổ chức Bảo hiểm nhân thọ của Công ty: 81

4. Công tác kế hoạch: 81

5. Tăng cường công tác chỉ đạo kiểm tra: 82

6. Đề nghị Tổng công ty, Bộ tài chính hoàn thiện hơn nữa các sản phẩm đang triển khai, xây dựng nhiều sản phẩm mới nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu bảo hiểm cho nhân dân: 82

7. Thắt chặt mỗi quan hệ các cấp, các ngành hơn nữa nhằm đưa công tác Bảo hiểm nhân thọ phát triển nhanh hơn nữa: 84

8. Một số biện pháp khác: 85

 

Kết luận 87

 

doc100 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác quản lý quỹ tài chính tại công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp đồng thứ nhất Trong năm hợp đồng thứ hai Trong năm hợp đồng tiếp theo Hợp đồng đóng phí định kỳ 30% xSTBH 60% x STBH 100% x STBH Hợp đồng đóng phí một lần 40% x STBH 80% x STBH 100% x STBH 2. Trường hợp thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn sau một ngày kể từ khi hợp đồng có hiệu lực: nhận số tiền bảo hiểm. 3. Nhận lại 100% số phí bảo hiểm đã nộp nếu người được bảo hiểm: a, Bị chết do: - Do tai nạn khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ một ngày . - Do tự tử hoặc nhiễm HIV khi hợp đồng chưa đủ hai năm. b, Bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ một ngày. Thay đổi hợp đồng bảo hiểm: 1. Từ chối tham gia bảo hiểm: trong vòng 14 ngày kể từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên, người tham gia bảo hiểm có quyền từ chối tham gia bảo hiểm và nhận lhị 100% số phí bảo hiểm đã nộp. 2. Duy trì hợp đồng bảo hiểm với số tiền bảo hiểm giảm kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực từ hai năm trở lên. 3. Nhận giá trị giải ước khi hợp đồng bị huỷ bỏ và hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên. 4. Khi hiệu lực của hợp đồng từ hai năm trở lên, hợp đồng có thể được cho vay phí tự động, tổng số phí các khoản phí nợ cùng với lãi tương ứng không vượt quá giá trị giải ước của hợp đồng tính đến hết kỳ phí được vay phí tự động. 5. Trong thời gian đóng phí, người tham gia bảo hiểm có thể yêu cầu BAOVIET giảm số tiền bảo hiểm Quy định nộp phí: 1. Phí bảo hiểm có thể nộp định kỳ theo: tháng, quý, hai kỳ, năm. 2. Thời gian gia hạn nộp phí là 30 ngày kể từ ngày đến kỳ nộp phí. Lãi chia: Ngoài các quyền lợi nói trên, hàng năm hợp đồng được hưởng lãi chia (nếu có) khi có hiệu lực từ hai năm trở lên. Hàng năm BAOVIET thông báo cho người tham gia bảo hiểm biết số lãi hiện có của hợp đồng. 4.5- Bảo hiểm niên kim nhân thọ: - Niên kim nhân thọ: là số tiền người được bảo hiểm được hưởng hàng năm kể từ ngày bắt đầu nhận niên kim theo diều khoản và điều kiện của hợp đồng bảo hiểm. - Người được bảo hiểm là công dân Việt nam, được BAOVIET chấp nhận bảo hiểm theo điều khoản và điều kiệnc ủa hợp đồng bảo hiểm. - Phí bảo hiểm: phí bảo hiểm là số tiền người tham gia bảo hiểm nộp cho BAOVIET; Phí bảo hiểm có thể nộp một lần hoặc nộp định kỳ đến hết hạn nộp phí. Phí bảo hiểm phụ thuộc vào niên kim nhân thọ, tuổi lúc tham gia bảo hiểm, phương pháp nộp phí và giới tính. Quyền lợi bảo hiểm: 1. Trường hợp sống đến ngày nhận Niên kim: BAOVIET trả tiền niên kim cho người được bảo hiểm kể từ khi người được bảo hiểm sống đến ngày bắt đầu nhận niên kim đến khi người được bảo hiểm chết. Giá trị của niên kim và ngày bắt đầu nhận niên kim đến khi người được bảo hiểm chết. Giá trị và ngày bắt đầu nhận niên kim được thoả thuận trong hợp đồng. 2. Trường hợp chết: a, Sau ngày nhận niên kim: - Nếu người được bảo hiểm bị chết khi chưa nhận đủ 10 niên kim. BAOVIET sẽ thanh toán khoản chênh lệch giữa giá trị 10 niên kim và số niên kim mà người được bảo hiểm đã nhận. - BAOVIET trả tiền mai táng phí bằng giá trị một niên kim quy định trong hợp đồng cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị chết. b, Trước ngày nhận niên kim: - Nếu người được bảo hiểm bị chết: do tai nạn khi hợp đồng có hiệu lực từ một ngày trở lên, do tự tử hoặc nhiễm HIV khi hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên, do những nguyên nhân khác: +BAOVIET trả tiền mai táng phí bằng giá trị một niên kim quy định trong hợp đồng cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm. + BAOVIET trả tiền trợ cấp tử vong quy định trong hợp đồng cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm. - Nếu người được bảo hiểm bị chết do tai nạn khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ một ngày, do tự tử hoặc nhiễm HIV khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ hai năm: + BAOVIET hoàn lại 100% số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm. + BAOVIET trả tiền mai táng phí bằng giá trị một niên kim quy định trong hợp đồng cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm. 3. Trường hợp thương tật vĩnh viễn do tai nạn: - Khi hợp đồng có hiệu lực từ một ngày trở lên, BAOVIET sẽ duy trì hiệu lực của hợp đồng miễn phí kể từ ngày nộp phí ngay sau khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn. - Khi hợp đồng có hiệu chưa đủ một ngày, BAOVIET sẽ không dừng thu phí bảo hiểm. Lãi chia thêm: Ngoài các quyền lợi nói trên, hàng năm hợp đồng được hưởng lãi chia khi có hiệu lực từ hai năm trở lên. Hàng năm BAOVIET thông báo cho người tham gia bảo hiểm biết số lãi hiện có của hợp đồng. Thay đổi hợp đồng bảo hiểm: 1. Từ chối tiếp tục tham gia bảo hiểm: trong vòng 14 ngày kể từ khi nộp phí bảo hiểm đầu tiên, người tham gia bảo hiểm có quyền từ chối tham gia bảo hiểm và nhận lại 100% phí bảo hiểm đã nộp. 2. Duy trì hợp đồng bảo hiểm với số tiền bảo hiểm giảm kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên. 3. Khi hiệu lực của hợp đồng từ hai năm trở lên, hợp đồng có thể được vay vốn tự động, tổng số phí các khoản phí nợ cùng với các khoản lãi tương ứng không vượt quá giá trị giải ước cuả hợp đồng tính đến hết kỳ phí được vay phí tự động. 4. Trong thời hạn đóng phí người tham gia bảo hiểm có thể yêu cầu BAOVIET giảm tiền niên kim bảo hiểm. III- CÔNG TÁC QUẢN LÝ QUỸ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ HÀ TÂY: 1. Tổng thu của quỹ tài chính: Như ta đã biết, nguồn thu của quỹ tài chính bảo hiểm nhân thọ chủ yếu dựa vào phí thu bảo hiểm gốc. Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây trong gần bốn năm qua đạt doanh thu qua các năm như sau: Bảng số 5 : Doanh thu phí bảo hiểm gốc của Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây trong năm 1997-2000 Đơn vị tính: Triệu đồng VN Năm Doanh thu So sánh tỷ lệ tăng giảm 1998/1997 1999/1998 2000/1999 1997 350 1998 6.115 +1647% 1999 9.940 +62,55% 2000 14.837 +49,27% Doanh thu phí bảo hiểm gốc có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Năm 1997 do mới đưa nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ vào khai thác nên kết quả khai thác chưa phản ánh được thực trạng công tác khai thác của công ty. Sang năm 1998, do công ty đã có kế hoạch từ cuối năm 1997 và công việc đã bắt đầu đi và quỹ đạo nên doanh thu năm 1998 đạt 6115 triệu đồng VN. Tuy nhiên vẫn chưa thể so sánh được doanh thu giữa hai năm 1997 và 1998 do năm 1997, bảo hiểm nhân thọ đưa vào hoạt động không phải từ đầu năm nên nếu so sánh sẽ bị khập khiễng về mốc thời gian. Sang năm 1999, doanh thu của công ty đạt 9940 triệu đồng VN tăng so với năm 1998 là 62,55%, giá trị tuyệt đối là 3825 triệu đồng, đó là một tỷ lệ tăng trưởng đáng thuyết phục. Năm 2000 doanh thu của công ty đạt 14.837 triệu đồng VN tăng so với năm 1999 là 49,27%, giá trị tuyệt đối tăng 4897 triệu đồng. Nếu so sánh với doanh thu của năm 1997, có thể thấy công tác triển khai bảo hiểm nhân thọ ở Hà tây có nhiều chuyển biến rất tích cực, chỉ sau gần bốn năm thực hiện bảo hiểm nhân thọ đã đạt được mức tăng trưởng đáng khích lệ. So với những nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ đã có quá trình hoạt động hai mươi năm mà doanh thu phí bảo hiểm mới chỉ đạt 21 tỷ đồng VN, mới thấy được tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc của bảo hiểm nhân thọ Hà tây. Theo kế hoạch của lãnh đạo công ty sang năm 2001, Công ty đăng ký với Tổng công ty sẽ thu được 20 tỷ từ kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, trên thực tế Công ty có thể sẽ thu được 22 tỷ vào năm 2001. Tuy nhiên không phải lúc nào doanh thu cũng đúng như dự kiến, vì doanh thu còn bị tác động bởi rất nhiều các yếu tố, như vị trí địa lý, tính thời vụ của các nghiệp vụ bảo hiểm. Nói tóm lại doanh thu của công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây thường xuyên biến động theo cả không gian và thời gian. 1.1. Doanh thu biến động theo không gian: Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây hoạt động trên một lãnh thổ khá rộng lớn, vùng địa lý không đồng nhất; đồng bằng xen lẫn với đồi núi; nhân dân trong tỉnh chủ yếu sinh sống bằng nghề nông tuy nhiên do thổ canh thổ cư khác nhâu nên đời sống dân cư cũng rất khác nhau, mức sống không đồng đều. Chính vì vậy, để phát huy hết tiềm năng khai thác của từng vùng, công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây đã chia khu vực khai thác. Hiện nay công ty chia khu vực theo vùng địa lý hành chính, toàn tỉnh có tám khu chính, tại đó công ty đặt các phòng khai thác. Đó là các phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ sau: - Phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ khu vực Hà đông tại thị xã Hà đông - Phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ khu vực Thường tín tại thị trấn Thường tín. - Phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ khu vực Sơn tây tại thị xã Sơn tây. - Phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ khu vực Thạch thất - Quốc oai tại Thạch thất. - Phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ khu vực Thanh oai -ứng hoà - Mỹ đức tại Thanh oai. - Phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ khu vực Hoài đức - Đan phượng tại Hoài đức. - Phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ khu vực Chương Mỹ - Xuân Mai tại Chương Mỹ. - Phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ khu vực Phú xuyên tại Phú xuyên. Sở dĩ công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây phân chia khu vực như vậylà dựa trên cơ sở diện tích của khu vực, tình hình kinh tế, dân cư trong khu vực. Ví dụ như Hà đông là một thị xã lớn là thủ phủ của tỉnh Hà tây có mật độ dân cư cao nhất tỉnh khoảng 10.000 người/km2 trình độ dân trí khá đồng đều, dân cư chủ yếu làm việc trong các cơ quan nhà nước, dân tiểu thương hoặc dân bán nông nghiệp nên cuộc sống được đánh giá là đồng đều và khá nhất trong toàn tỉnh, chính vì lẽ đó mà thị xã Hà đông có một phòng khai thác riêng, chịu sự quản lý trực tiếp của công ty (phí thu được đóng trực tiếp tại công ty mà không cần qua tài khoản mở tại ngân hàng). Ngược lại phòng khai thác Chương mỹ lại được hình thành từ hai thị trấn là thị trấn Trúc sơn và thị trấn Xuân mai do hai thị trấn đó nằm trong vùng chiêm trũng đời sống kinh tế còn khó khăn, cuộc sống chủ yếu dựa vào cây lúa nên khả năng khai thác còn nhiều hạn chế, chính vì vậy công ty đã quyết định thành lập phòng khai thác chung cho cả hai thị trấn. Kết quả khai thác của các huyện qua các năm cũng rất khác nhau, mà nguyên nhân chủ yếu cũng vì kinh tế và trình độ dân trí không đồng đều. Nhìn vào bảng dưới đây ta có thể thấy được điều đó: Bảng số 6: Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ theo khu vực khai thác. Đơn vị tính: Triệu đồng VN Khu vực khai thác Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm2000 Phòng Hà đông 1622 2636 3.935 Phòng Thường tín 1322 2150 3.209 Phòng Sơn tây 1136 1846 2.755 Phòng Thạch thất 479 778 1.162 Phòng Thanh oai 620 1008 1.505 Phòng Hoài đức 590 959 1.432 Phòng Chương mỹ 346 563 840 Tổng cộng 350 6115 9940 14.837 Qua bảng số 6 cho ta thấy phòng khai thác Hà đông là phòng khai thác có hiệu quả nhất, luôn chiếm khoảng 27% tổng doanh thu khai thác được của toàn công ty, tiếp đến là phòng khai thác Sơn tây cũng có số thu khá lớn, đứng thứ hai toàn công ty với tỷ lệ phí chiếm khoảng 22% tổng số phí khai thác được; Chỉ có phòng khai thác Chương mỹ là thấp nhất chỉ chiếm tỷ lệ chưa đến 6% số phí khai thác được. Tỷ lệ tăng thu phí hàng năm khá đồng đều, Điều đó cho thấy công ty đã chú trọng đến công tác khai thác, đảm bảo thu đúng thu đủ. Tuy nhiên, mức khai thác được của các phòng khai thác còn quá chênh lệch khá nhiều. Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy phòng khai thác Hà đông tuy có cùng diện tích, số dân, với phòng khai thác Chương mỹ nhưng số phí thu được của phòng trên luôn gấp 4 lần số phí thu của phòng khai thác Chương mỹ. Sở dĩ có sự cách biệt như trên là do Hà đông là nơi tập trung văn hoá kinh tế của toàn tỉnh, tập trung nhiều nhà máy công sở của nhà nước, và tư nhân, nên đời sống kinh tế của dân cư khá dồng đều và ổn định. Hầu như người dân thị xã có trình độ cao khá đồng đều. Theo thống kê thì 100% trẻ em được phổ cập tiểu học, 92% học hết cấp II và 85% đã học hết cấp III, trong đó hàng năm có khoảng 90% học sinh trung học tốt nghiệp và đi học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; Họ có nhiều khả năng tham gia bảo hiểm nhân thọ. Ngược lại ở phòng khai thác Chương mỹ hoạt động ở vùng chiêm trũng, đời sống dân cư hết sức khó khăn, không đồng đều. Người dân chủ yếu sống dựa vào cây lúa, mà năng suất lúa rất thấp, phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, dụng cụ lao động còn thiếu chưa nói đến phân bón và thuốc trừ sâu người dân cũng không đủ sức mua đầy đủ phục vụ cho gieo trồng, nhiều nơi vẫn còn tình trạng người cầy thay trâu. Nếu chỉ tính trung bình mỗi hộ có ba sào lúa thì hai vụ thì hộ đó mới chỉ thu được khoảng 1,2 tấn lúa nhiều nhất là 1,5 tấn. Toàn bộ cuộc sống gia đình phụ thuộc vào số lúa đó. Nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ mà cụ thể là an sinh giáo dục với mức 5 triệu đồng trong vòng 5 năm thì mỗi năm phải đóng số phí là gần 800,000 đồng, đó là cả một vấn đề khi một gia đình có hai con và cuộc sống chỉ phụ thuộc vào cây lúa mà không có nghề làm thêm gì khác, đối với những hộ như vậy thì việc cho con cái đi học đã là cố gắng, nói gì đến mua bảo hiểm cho con, dù rằng nhiều người cũng đã hiểu được ý nghĩa vai trò và tác dụng của bảo hiểm nhân thọ. Đó là khó khăn có thể dược coi là lớn nhất đối với phòng khai thác bảo hiểm Chương mỹ nói riêng và của Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây nói chung. Vấn đề đạt ra ở đây không chỉ tuyên truyền cho mọi người dân hiểu về bảo hiểm nhân thọ mà còn phải giúp đỡ những người tham gia bảo hiểm gặp khó khăn như cho họ vay vốn, hoặc công ty bảo hiểm đứng ra bảo lãnh cho họ vay vốn tại ngân hàng, thêm vào đó công ty cần quan tâm hơn nữa tới cuộc sống của những người tham gia bảo hiểm, để từ đó có những giải pháp thích hợp nhằm tăng số lượng khai thác, giảm bớt sự cách biệt giữa các phòng khai thác, đồng thời đưa bảo hiểm nhân thọ vào phục vụ nhân dân toàn tỉnh, phát huy dược tính kinh tế và tính nhân đạo của bảo hiểm nhân thọ, vừa ích nước vừa lợi nhà. 1.2. Doanh thu phụ thuộc vào tính chất của từng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Không phải ai cũng có khả năng tham gia bảo hiểm nhân thọ và nếu tham gia thì người tham gia bao giờ cũng lựa chọn loại hình bảo hiểm thích hợp nhất cho mình và người thân trong gia đình. Thường thì người tham gia hay mua bảo hiểm nhân thọ cho con cái của họ vì họ luôn hy vọng con cái họ sẽ được học hành đến nơi đến chốn và được học trong những trường tốt nhất. Điều đó thể hiện trong bảng số 7 dưới đây: Trong các hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ đang triển khai, có các hợp dồng bảo hiểm an sinh giáo dục chiếm tỷ trọng lớn từ 50-57%, là do tâm lý bố mẹ và người thân trong gia đình quan tâm đến tương lai của con em mình, họ luôn muốn con cái được học hành đến nơi đến chốn, được học ở những trường có chất lượng cao, nên họ tích luỹ từ khi con còn nhỏ để tạo nên quỹ giáo dục cho con sau này. Bên cạnh đó công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây còn kết hợp với hệ thồng giáo dục của tỉnh, tổ chức triển khai và tuyên truyền công tác này thông qua các hội nghị của Sở giáo dục, của các phòng giáo dục, các trường, đội ngũ giáo viên coi như cầu nối giữa cha mẹ học sinh với công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây, giúp các đại lý bảo hiểm trong khâu vận động, giới thiệu bố mẹ các em tham gia bảo hiểm cho các em; Điều này thể hiện rõ ở khối mẫu giáo, nhà trẻ. Tiếp đến là các hợp đồng bảo hiểm và tiết kiệm có thời hạn 5 năm 10 năm, mà đối tượng chủ yếu là cán bộ công nhân viên cơ quan, đơn vị Nhà nước, chiếm tỷ trọng từ 31-42%. Trong đó hợp đồng có thời hạn 10 năm lại chiếm tỷ trọng rất thấp chỉ từ 1-3%, lý do là những hợp đồng này có thời hạn bảo hiểm dài, khách hàng chưa thật yên tâm vì tâm lý còn sợ đồng tiền bị mất giá, hơn nữa thu nhập của người tham gia chưa ổn định, trong một thời gian dài sợ không thể duy trì hợp đồng. Các hợp đồng bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, loại này dược triển khai từ năm 1998 chiếm tỷ trọng thấp hơn, có tỷ trọng từ 10-13%. Trong đó thời hạn 10 năm, 15 năm có tỷ trọng rất thấp do tâm lý khách hàng không yên tâm khi thời hạn của hợp đồng quá dài, họ sợ đồng tiền bị mất giá như đã phân tích ở trên. Đối với bảo hiểm trọn đời và niên kim, hai loại này có tỷ trọng rất thấp do mới có chủ chương triển khai, thực tế công ty mới chỉ tiến hành từ năm 1999, hai loại bảo hiểm này thu hút được sự chú ý của khách hàng, nhưng do mức phí có cao hơn các loại kia, việc tuyên truyền, giải thích chưa nhiều, chưa rõ quyền lợi, cũng như các đại lý xác định và vận động chưa đúng đối tượng. Vì các sản phẩm này chủ yếu dành cho những người chưa có chế độ hưu trí, những người chưa có chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng đại lý khai thác lại vận động đối tượng là cán bộ, công nhân viên chức, bộ đội nên dẫn dến kết quả khai thác được còn thấp, việc này cũng chưa được sự chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo công ty. Hai loại bảo hiểm sinh kỳ thuần tuý và tử kỳ là hai loại hình bảo hiểm nhân thọ mà công ty đang nghiên cứu đưa vào hoạt động, bước đầu chưa thu hút được sự chú ý của người tham gia bảo hiểm, số hợp đồng ký được trong năm 2000 của hai loại hình bảo hiểm trên là rất nhỏ hầu như không đáng kể, hy vọng sang đến năm 2001 tình hình sẽ khá lên. Kết hợp bảng số 7 và bảng số 8 thấy: số lượng hợp đồng và doanh thu phí đều có sự gia tăng hàng năm. Điều này có thể lý giả do hai lý do sau đây: Thứ nhất: Tổng số hợp đồng bảo hiểm tăng lên theo bảng số 7: năm 1997 có số hợp đồng là 1271, năm 1998 là 8310, tăng so với năm 1997 là 7139 hợp đồng. Vì vậy doanh thu phí bảo hiểm cũng tăng lên tương ứng. Tuy nhiên đây được coi là một lý do mang tính bề nổi vì lẽ, khi công ty có biện pháp tăng tối thiểu số hợp đồng bảo hiểm phải khai thác mà không có biện pháp đảm bảo tối thiểu doanh thu bảo hiểm, thì việc khai thác bảo hiểm không đảm bảo chất lượng. Vì đại lý sẽ khai thác các hợp đồng bảo hiểm có mức tiền bảo hiểm thấp lên số phí thu được cũng thấp. Thứ hai: Mức bảo hiểm càng tăng, phí bảo hiểm càng cao, số lượng hợp đồng càng tăng thì doanh thu phí bảo hiểm càng lớn. Qua biểu số 6và biểu số 7so sánh giữa hai năm 1997 và 1998 thấy năm 1998 có số hợp đồng tăng hơn năm 1997 là 7 039 hợp đồng, doanh htu phí bảo hiểm tăng 5 765 triệu đồng, thì thấy số lượng hợp đồng tăng lên 5,5 lần mà doanh thu phí bảo hiểm tăng 16,47 lần, chứng tỏ rằng năm 1998 công tác khai thác có hiệu quả hơn năm 1997. So sánh giữa năm 1998 và năm 1999 thì năm 1999 so với năm 1998 số hợp đồng tăng 4 464 hợp đồng, gấp 0,53 lần; doanh thu phí bảo hiểm tăng 3 825 triệu gấp 0,62 lần. So sánh năm 1999 và năm 2000 ta thấy, năm 2000 số hợp đồng tăng lên là 5 241 hợp đồng gấp 0,41% so với năm 1999; doanh thu phí bảo hiểm tăng 4 897 triệu, tăng gấp 0,492 lần so với doanh thu phí bảo hiểm năm 1999. Điều đó cho thấy công ty bảo hiểm Hà tây luôn chú trọng tới chất lượng của công tác khai thác, không chạy theo số lượng hợp đồng mà luôn biết cân đối giữa phí bảo hiểm thu được trên mỗi hợp đồng bảo hiểm khai thác được hàng năm, năm sau cao hơn năm trước. Đây là thành công và cũng là cố gắng không ngừng của toàn cán bộ công nhân viên của công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây. Phân tích như trên cho thấy, năm 1997 là năm mà bảo hiểm nhân thọ mới được đưa vào triển khai nên công ty bảo hiểm Hà tây chỉ mới khoán chỉ tiêu hợp đồng, chưa chú ý đến chỉ tiêu doanh thu, mặt khác người tham gia bảo hiểm chưa hiểu hết được bảo hiểm, chưa có sự tin tưởng nên họ chỉ tham gia ở mức thấp. Các năm 1998, 1999, 2000 do công ty khoán cả hai chỉ tiêu số lượng hợp đồng và doanh thu phí; bên cạnh đó người tham gia bảo hiểm ngày một thêm hiểu về lợi ích của bảo hiểm nhân thọ đồng thời qua một thời gian sử dụng, họ đã dần tin tưởng vào uy tín của công ty nên số người tham gia bảo hiểm nhân thọ tại công ty ngày càng tăng. Điều dặc biệt là đội ngũ đại lý khai thác ngày càng được nâng cao trình độ khai thác. Tuy nhiên so với thực tế còn ở mức độ thấp, vì đa số hợp đồng tham gia bảo hiểm còn ở mức độ thấp hoặc trung bình thấp, rất ít hợp đồng tham gia ở trên mức trung bình trở lên. Nếu có biện pháp tích cực thì chắc chắn trong các năm tới chất lượng khai thác của công ty sẽ được nâng lên. 1.3 Quản lý phí thu: Ngay từ ngày đầu triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, Công ty bảo hiểm Hà tây đã thực hiện hạch toán kinh doanh độc lập của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ với hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Mọi hoạt động kinh doanh đều được thể hiện qua hệ thống phần mềm kế toán của máy vi tính. Đây không chỉ riêng của công ty bảo hiểm Hà tây, mà Tổng công ty bảo hiểm Việt nam rất quan tâm đến phần mềm kế toán, nên tất cả các công ty bảo hiểm trên toàn quốc cũng áp dụng một chương trình phần mềm kế toán. Mọi hoạt động kế toán đều tuân theo nguyên tắc quản lý tài chính của Nhà nước. Phòng kế toán luôn có người theo dõi tài khoản 1121 tại ngân hàng. Hiện nay công ty có tám phòng khai thác trên phạm vi toàn tỉnh, nên công ty đã mở tài khoản tại tất cả các ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn ở các huyện để các phòng khai thác của các huyện nộp phí bảo hiểm tại đó, và người phụ trách mỗi phòng chỉ có nhiệm vụ nộp chứng từ thu phí gốc lên công ty cho cán bộ của phòng kế toán của công ty nhập vào tài khoản. Đến cuối tháng thì ngân hàng báo về công ty số tiền hiện có trong tài khoản của công ty, cán bộ phòng kế toán có nhiệm vụ theo dõi và cân đối số tiền hiện có trong tài khoản và số tiền trong máy tính nhập theo chứng từ gốc. Chứng từ, hoá đơn thu phí bảo hiểm gốc đều được viết bằng tay. Đại lý có trách nhiệm thu phí và nộp hoá đơn cho trưởng phòng khai thác, nên không tránh được nhầm lẫn khi viết hoá đơn. Từ trước đến nay toàn Tổng công ty đang áp dụng phần mềm kế toán mà trong đó cán bộ kế toán phải trực tiếp nhập các dữ liệu vào máy tính, tuy có tiện lợi nhưng khi đại lý viết sai hoá đơn thì sẽ rất khó khăn cho nhân viên kế toán, vì họ sẽ phải tìm lại những điều khoản trong hợp đồng, điều đó rất mất thời gian, đôi khi làm chậm tiến độ thủ tục thanh toán bảo hiểm cho khách hàng. Phần mềm kế toán này cho phép nhân viên kế toán và nhân viên phòng quản lý hợp đồng làm việc độc lập, có nghĩa là nhân viên của cả hai phòng (Phòng kế toán và phòng phát hành và quản lý hợp đồng) đều phải nhập cùng một dữ liệu; Sau đó hai phòng sẽ cân đối số liệu cuối kỳ báo cáo. Tất cả các khoản phí thu được từ khách hàng chỉ được ghi nhận và tính doanh thu khi và chỉ khi số tiền đó đã được nộp về quỹ của công ty hoặc quỹ của phòng bảo hiểm khu vực và có xác nhận của thủ quỹ hoặc của cán bộ quản lý trong phòng. Như vậy đại lý đi thu phí của khách hàng phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Sau khi thu được phí của của khách hàng phải nộp tiền vào ngay quỹ của phòng hoặc của công ty trong ngày, không được giữ tiền qua ngày. Nghiêm cấm việc đại lý thu được phí mà không nộp vào quỹ của công ty hoặc quỹ của phòng. Nếu đại lý nào không thực hiện đúng theo quy định của công ty mà không may khách hàng xảy ra rủi ro thì đại lý đó phải chịu trách nhiệm bồi thường theo đúng điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm và phải chịu mọi trách nhiệm trước công ty và cơ quan pháp luật. - Trường hợp đại lý đi thu phí định kỳ vào buổi tối không nộp được phí bảo hiểm về quỹ thì phải nộp phí bảo hiểm về quỹ ngay sau đầu giờ sáng ngày hôm sau. - Đại lý có trách nhiệm phải mở sổ theo dõi chi tiết từng khoản phí, từng hợp đồng của khách hàng theo mẫu quy định của công ty. - Cuối tháng đại lý có trách nhiệm làm tất cả các loại báo cáo theo quy định của công ty như: Báo cáo hoá đơn, báo cáo nợ phí, báo cáo doanh thu, báo cáo tình hình thu phí nợ... Hàng tháng, phòng kế toán đều phải làm báo cáo tình hình kinh doanh, tình hình thu chi trong tháng cho ban lãnh đạo công ty, để ban lãnh đạo nắm bắt được tình hình hoạt động của công ty để từ đó có những đối sách thích hợp. Hiện nay, công ty đang thực hiện dự án phầm mềm quản lý hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mới. Phần mềm này khắc phục được những hạn chế của phần mềm cũ bằng cách cho ra hoá đơn có mã vạch, để khi đại lý chuyên thu đi thu phí sẽ không phải viết phiếu thu, mà số hợp đồng, số phí đóng hàng tháng, hàng quý, hàng kỳ và mã đại lý khai thác sẽ được mã hoá bằng mã vạch. Khi nhân viên của phòng quản lý hợp đồng nhập dữ liệu chỉ cần nhấn nút máy đọc mã vạch thì máy tính sẽ nhận được thông tin đầy đủ về hợp đồng bảo hiểm đó. Sau đó thì thông tin sẽ được kết chuyển cho bên kế toán. Việc triển khai phần mềm quản lý hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mới sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian, nhân lực, tránh được những nhầm lẫn không đáng có và quan trọng hơn cả là giảm được chi phí cho công ty và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Hiện nay công ty đang nghiên cứu và đã triển khai ở phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ Hà đông từ ngày mùng 1 tháng 3 năm 2001. Công ty cũng đã cho triển khai toàn công ty vào đầu tháng 4 năm 2001. Tuy phần mềm này ban đầu còn gặp một số sai sót nhưng thật sự phần mềm quản lý hợp đồng sẽ mang lại lợi ích rất nhiều cho công ty trong thời gian tới. 2- Tổng chi: Trong nguyên tắc bảo hiểm, công ty bảo hiểm nhân thọ chỉ nhận bảo hiểm cho các rủi ro bất ngờ. Vì vậy khoản chi lớn nhất của công ty là khoản chi trả bồi thường, đây là khoản chi lớn nhất, không bao giờ có thể xác định trước mức độ chi trả cho các năm tiếp theo là bao nhiêu (không thể dự báo trước được những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra). Đây là khoản chi biến động rất mạnh cả về mức độ và thời gian.Tuy nhiên ta vẫn có thể dự phòng trước những khoản chi vì chi cũng mang tính thời vụ, và nghiệp vụ bảo hiểm nào có số người tham gia đông, số tiền bảo hiểm lớn thì nghiệp vụ đó cũng có số chi bồi thường lớn. Ta có thể thấy ngay qua bảng dưới đây về mức độ chi trả của từng nghiệp vụ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện công tác quản lý quỹ tài chính bảo hiểm nhân thọ tại Công ty bảo hiểm nhân thọ Hà tây.doc
Tài liệu liên quan