Luận văn Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 7

1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 7

1.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 34

1.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính của một số nước và bài học kinh nghiệm vận dụng ở Việt Nam 38

Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 45

2.1. Quá trình phát triển pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 45

2.2. Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 61

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 90

3.1. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 90

3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 96

3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 102

KẾT LUẬN 113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116

 

 

 

doc120 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2387 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp luật” cho chuẩn xác. Bởi vì phạm pháp (tức là vi phạm pháp luật) hẹp hơn trái pháp luật, không thể chỉ khiếu nại, tố cáo hành vi, vi phạm pháp luật còn hành vi trái pháp luật lại bỏ qua được. Trái pháp luật bao hàm cả vi phạm pháp luật. Đồng thời Hiến pháp 1980 cũng mở rộng chủ thể của hành vi trái pháp luật bị khiếu nại, tố cáo từ phía nhân dân từ chỉ là “nhân viên cơ quan nhà nước” thành là “cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó”. Hiến pháp 1980, tiếp tục quy định địa chỉ để công dân gửi đơn thư khiêu nại, tố cáo hoặc đến trình bày trực tiếp ở bất cứ cơ quan nhà nước nào, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân phát giác các hành vi trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc bất cứ cá nhân nào trong bộ máy nhà nước. Để đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Điều 73 Hiến pháp 1980 quy định: “Các điều khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng” và “người bị thiệt hại có quyền được bồi thường”. Ngoài ra, còn bổ sung 2 điểm quan trọng: Một là, mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh; Hai là, “Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”. Những quy định này nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật trong việc xử lý cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật đồng thời bảo vệ quyền lợi và sự an toàn của người khiếu nại, tố cáo, khuyến khích nhân dân tích cực thực hiện quyền khiếu nại và quyền tố cáo của mình nếu phát hiện những việc làm trái pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội... hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan, tổ chức đó. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật về giám sát nói chung, về giám sát của nhân dân nói riêng, tiếp tục có bước phát triển mới về chất và lượng, đánh dấu sự phát triển đa dạng của các chủ thể giám sát đối với quyền lực nhà nước. Đặc biệt là giám sát của Ban Thanh tra nhân dân. Ngày 15/2/1984, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 26-HĐBT về tăng cường tổ chức thanh tra và nâng cao hiệu lực thanh tra. Nghị quyết đã xác định: Tổ chức thanh tra nhân dân là cấp cơ sở trong hệ thống thanh tra nhà nước và là tổ chức xã hội của quần chúng ở cơ sở; thực hiện thống nhất hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân. Qua nội dung trên, cho thấy kết hợp giữa thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân là thể hiện sự phát triển mới của pháp luật thanh tra nhưng thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân kết hợp làm một thì lại là một khiếm khuyết cần phải được khắc phục. 01/4/1990, Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ban hành Pháp lệnh thanh tra, trong đó có quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra nhân dân. Nghị định 241/HĐBT ngày 5/8/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định: Ban Thanh tra nhân dân được tổ chức ở các đơn vị cơ sở: cơ quan chính quyền, xã, phường, thị trấn; cơ sở kinh tế, xí nghiệp, hầm mỏ, công ty, công trường, nông trường, bến cảng; cơ quan sự nghiệp, trường học, bệnh viện; cơ quan hành chính, văn phòng các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân từ cấp huyện trở lên. Điểm mới của Pháp lệnh thanh tra năm 1990 là tách Thanh tra nhân dân ra khỏi Thanh tra nhà nước và chuyển sự chỉ đạo, quản lý, tổ chức cho Uỷ ban MTTQ xã, phường, thị trấn. Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan hành chính, sự nghiệp, đơn vị sản xuất, kinh doanh thì do Đại hội những người lao động bầu ra, Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở chỉ đạo hoạt động. Như vậy việc thành lập Ban Thanh tra nhân dân là phù hợp và có cơ sở pháp lý, đúng với các quy định của nhà nước. Để thực hiện pháp lệnh và nghị định về thanh tra nhân dân, Thanh tra nhà nước và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam ban hành Thông tư liên tịch số 01/TT-LT ngày 01/11/1991 về hướng dẫn thực hiện Nghị định 241/HĐBT ngày 5/8/1991 của Hội đồng Bộ trưởng đối với Ban Thanh tra nhân dân tại các cơ quan hành chính, sự nghiệp, các đơn vị kinh tế quốc doanh. Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam cũng ban hành Thông tư số 08/TT-MTTQVN ngày 25/11/1991 về hướng dẫn tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở quy định của pháp luật, Ban Thanh tra nhân dân đã thực hiện chức năng giám sát của mình đối với cơ quan hành chính nhà nước, thể hiện bước đầu hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cấp cơ sở. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan pháp luật thời kỳ này chưa có quy định cụ thể về địa vị pháp lý cũng như nhiệm vụ, quyền hạn phạm vi hoạt động cụ thể của Ban Thanh tra nhân dân, mặt khác cũng không có quy định cơ chế phối hợp giữa UBND và Uỷ ban MTTQ cấp trên với Ban Thanh tra nhân dân nên thực tế hoạt động phối hợp rất lúng túng. Bên cạnh đó, hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân hoặc bị UBND chỉ đạo hoặc lại vượt quá chức năng, thẩm quyền lấn sâu vào lĩnh vực thuộc hoạt động của UBND nên không thực sự phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình trong giám sát hoạt động của chính quyền và cán bộ, công chức ở cơ sở. Điểm khác của pháp luật thời kỳ này là địa vị pháp lý của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên được ghi nhận trong Hiến pháp. Song, chức năng giám sát và phản biện xã hội chưa được đề cập đến mà chủ yếu “tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên nhân dân...” [53, tr 72]. Điểm nổi bật của Hiến pháp 1980 là khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Không ngừng tăng cường pháp chế phải chăng một trong những nội dung đó là “chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ XHCN”. Dân chủ XHCN là gì nếu quyền làm chủ của nhân dân không phải là làm chủ quyền lực nhà nước và có năng lực kiểm soát, hạn chế quyền lực nhà nước qua quyền năng giám sát của mình. Thuật ngữ giám sát (Điều 8, Hiến pháp 1980) thay cho từ kiểm soát (Điều 6, Hiến pháp 1959) là cơ sở để phát triển pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước trong giai đoạn tới. 2.1.2.4 Giai đoạn 1992 đến nay Hiến pháp 1992 ra đời sau 12 năm thực hiện Hiến pháp 1980 và ở thời điểm sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ năm 1986 đang đòi hỏi tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của giai đoạn mới. Để đạt được mục đích đó, một trong những yêu cầu là phải cải cách, đổi mới nền hành chính nhà nước, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính là khâu quan trọng nhất. Xu thế dân chủ hoá xã hội đi liền với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và tăng cường chế pháp chế đặt ra hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải trong khuôn khổ pháp luật và phải chịu sự giám sát của nhân dân ngoài giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, hàng loạt các luật được sửa đổi, xây dựng mới được ban hành như: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; Luật Tổ chức Toà án nhân dân; Luật Tổ chức HĐND và UBND; Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; Luật Báo chí; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Thanh tra; Luật MTTQ Việt Nam; Luật Thanh niên... Pháp luật của giai đoạn này chia làm hai thời kỳ. Đó là thời kỳ 1992- đến 2001 và từ 2001- nay (do Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2001). Điều 9, Hiến pháp 1992 bổ sung chính thức chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất quy định địa vị chính trị pháp lý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị. Địa vị chính trị pháp lý của Mặt trận còn do đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam quy định. Hệ thống đó không tổ chức và vận hành theo kiểu đa nguyên, đa đảng mà Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo, cầm quyền. Như vậy, hệ thống chính trị nước ta không có sự kiềm chế, đối trọng quyền lực của các lực lượng chính trị đối lập. Để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng luôn đúng đắn, thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân và đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước luôn trong sạch, thể hiện đúng bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do đó cần có cơ chế để phản biện đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng, giám sát được quyền lực nhà nước và sự giám sát, phản biện đó tất yếu thuộc về nhân dân trong đó có vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Điều 2, Luật MTTQ Việt Nam ghi nhận các chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận bao gồm: Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng nhà nước chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân [41]. Theo quy định của Hiến pháp và Luật MTTQ Việt Nam thì MTTQ thực hiện hoạt động giám sát thông qua hình thức hiệp thương phối hợp và thống nhất hành động. Sự hiệp thương và phối hợp không làm mất đi tính độc lập trong hoạt động giám sát của các tổ chức thành viên, trái lại càng làm cho giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên thêm chặt chẽ, thống nhất hơn. MTTQ và các tổ chức thành viên giám sát thông qua các hoạt động sau: + Thông qua việc tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động như: xoá đói giảm nghèo; đền ơn đáp nghĩa; toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư... qua đó phát hiện những vi phạm trong thực hiện pháp luật để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. + Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ do pháp luật quy định như: tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân mà phát hiện những vi phạm tiêu cực trong việc thực hiện chính sách pháp luật của các cơ quan nhà nước nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. + Thông qua các báo cáo của Chính phủ, UBND các cấp tại các kỳ họp của Quốc hội, HĐND, các phiên họp thường lệ hoặc khi nhận được thông báo chủ động từ phía cơ quan nhà nước, nhất là ở cơ sở theo quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn thì Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ kiến nghị cơ quan nhà nước liên quan xem xét trả lời những kiến nghị của nhân dân do MTTQ tổng hợp. + Tham gia với Chính phủ, Chủ tịch nước hoặc HĐND, UBND các cấp trong các đoàn kiểm tra, giám sát theo chương trình hàng quý, hàng năm hoặc chuyên đề. Tham gia đoàn đi giám sát, kiểm tra vụ việc nào đó theo quyết định của người đứng đầu cơ quan nhà nước ở TW hoặc địa phương để đảm bảo tính khách quan, công bằng của hoạt động giám sát, kiểm tra, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. + ở TW, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên còn thông qua các ban chuyên môn, hội đồng tư vấn... để đóng góp vào các dự thảo nghị định, nghị quyết của Chính phủ, thông tư của các bộ... Thông qua hoạt động giám sát của MTTQ, các tổ chức thành viên nhằm: + Đóng góp ý kiến cụ thể vào những hoạt động của cơ quan nhà nước để thực hiện tốt chính sách, pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. + Phát hiện những quy định pháp luật, văn bản pháp luật không còn phù hợp với thực tế hoặc trái với Hiến pháp, pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản đó. + Phát hiện cán bộ, công chức, viên chức nhà nước vi phạm pháp luật để kiến nghị xử lý. + Phát hiện những hiểu biết khác nhau về nội dung của văn bản pháp luật nào đó hoặc quy định nào đó dẫn đến việc thực hiện khác nhau thì kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích văn bản đó để việc thực hiện được đúng đắn, thống nhất... - Về giám sát của Ban Thanh tra nhân dân. Hoạt động thanh tra nhân dân theo pháp lệnh được thay thế bằng Luật Thanh tra năm 2004. Điều 59, Luật Thanh tra quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Thanh tra nhân dân. + Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. + Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó. + Khi cần thiết, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước giao xác minh những vụ việc nhất định. + Kiến nghị với Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát hiện qua việc giám sát; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và người lao động, biểu dương những đơn vị, cá nhân có thành tích. Trường hợp phát hiện người có hành vi vi phạm pháp luật thì kiến nghị cơ quan tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý. [27, tr43] Luật Thanh tra cũng quy định rõ: “Hội nghị nhân dân hoặc hội nghị đại biểu nhân dân” bầu ra Ban thanh tra ở xã, phường, thị trấn với số lượng từ 5-11 thành viên, tuỳ theo địa bàn và số lượng dân cư. Người là thành viên Ban Thanh tra nhân dân không phải là người đương nhiệm trong Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và có nhiệm kỳ hoạt động là 2 năm. Pháp luật cũng quy định cụ thể việc bãi nhiệm và bầu người khác thay thế khi thành viên Ban Thanh tra nhân dân không hoàn thành nhiệm vụ hoặc không còn được nhân dân tín nhiệm. Ngày 27/8/2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 99/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra về tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân. Nghị định đã quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân trong đó bao gồm cả nội dung, phương thức giám sát và hiệu lực pháp lý của giám sát. Luật thanh tra và các nghị định của Chính phủ đặc biệt là Nghị định 99/2005/NĐ-CP đã quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của Uỷ ban MTTQ Việt Nam, của Ban Chấp hành Công đoàn trong việc tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn và tạo điều kiện phối hợp hoạt động giám sát với Ban Thanh tra nhân dân. Với những quy định trên, có thể thấy rằng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước đã có bước phát triển quan trọng so với pháp luật các giai đoạn trước. Trước yêu cầu dân chủ hoá đối với đời sống xã hội và công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức nhà nước, ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, lãng phí, hách dịch cửa quyền trong bộ máy công quyền, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã (phường, thị trấn), nội dung của Quy chế này được tiếp tục bổ sung, sửa đổi trong Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ban hành kèm theo Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ. Tháng 7/2007, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đánh dấu bước phát triển quan trọng về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động của chính quyền cơ sở. - Giám sát của cơ quan báo chí. Quyền tự do báo chí được Hiến pháp 1946, 1959, 1980 Hiến pháp 1992 ghi nhận. Điều 69, Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin” [53, tr221]. Đây là hình thức giám sát thông qua quyền được thông tin và các quy định mà chính quyền phải thực hiện như: đăng công báo, báo chí, thông cáo, yết thị nơi công cộng... để nhân dân biết hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức nhà nước. Theo Điều 1, Luật Báo chí thì báo chí ngoài chức năng là “phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu của đời sống xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội” thì còn là “diễn đàn của nhân dân”. Qua cơ quan báo chí công dân được quyền tham gia vào xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đồng thời có quyền phản ánh, đưa ra công luận, nêu kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo những hành vi trái pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước qua cơ quan báo chí, ngày càng có vai trò quan trọng là yếu tố góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội và minh bạch hoá hoạt động của cơ quan nhà nước, là công cụ giám sát hữu hiệu của nhân dân. Có thể nói cùng với quy định của Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Thanh tra, quy chế thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở... đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân qua hoạt động giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước. 2.2. Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính Nhà nước 2.2.1. ưu điểm và những kết quả thực hiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 2.2.1.1 Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đồng thời nhân dân còn thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động... và thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình thông qua quy chế dân chủ ở cơ sở, qua trưng cầu dân ý, qua quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Bên cạnh giám sát của Đảng và giám sát của Nhà nước, giám sát của nhân dân, trong đó giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên được coi là phương thức cơ bản của giám sát nhân dân. Mặt trận đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân tham gia giám sát, vận động nhân dân giám sát hoặc độc lập giám sát theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân với cơ chế là: theo dõi, phát hiện, nhận xét, phản biện và kiến nghị. Giám sát của nhân dân, qua MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội là thành viên của Mặt trận cũng có tính chính trị pháp lý như giám sát mang tính nhà nước nhưng khác ở các mặt: chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, cơ chế và hiệu quả pháp lý của giám sát. Nó có ưu điểm là mang tính chủ động, rộng rãi, phổ biến, thường xuyên nhưng cũng có hạn chế là mang tính phát hiện, tư vấn, phản biện, không sử dụng biện pháp nhà nước để xử lý kết quả giám sát, vì thế thường ít mang lại hiệu quả ngay. Giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước bao gồm: - Giám sát quá trình lập quy và nội dung văn bản lập quy Quá trình đổi mới đất nước có nhiều quan hệ xã hội xuất hiện cần phải có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh. Bên cạnh văn bản pháp luật của cơ quan lập pháp ban hành như: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, cần phải có hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để hướng dẫn thi hành. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính ở nước ta rất đồ sộ, có phạm vi điều chỉnh, tác động trực tiếp đến các quan hệ xã hội và người dân. Vì vậy, tham gia giám sát quá trình lập quy và nội dung lập quy của các cơ quan hành chính nhà nước không chỉ là quyền hạn của MTTQ, các tổ chức chính trị- xã hội được Hiến pháp, pháp luật quy định mà còn là trách nhiệm đương nhiên của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên. Hoạt động giám sát đó nhằm theo dõi, xem xét, quy trình, thủ tục soạn thảo có đúng Hiến pháp, pháp luật hay không; nội dung dự thảo các văn bản pháp luật có thể hiện đúng ý chí nguyện vọng của nhân dân, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân hay không; có đảm bảo tính thiết thực, khả thi và đúng xu hướng vận động, phát triển của xã hội hay không. MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội ở Trung ương, thời gian qua đã thực hiện tốt chức năng của mình trong việc trình các dự án Luật, Pháp lệnh như Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam soạn thảo Luật MTTQ Việt Nam; TW Đoàn TNCS Hồ Chí Minh soạn thảo Luật Thanh niên; Tổng LĐLĐ Việt Nam soạn thảo Luật Công đoàn; Hội Phụ nữ Việt Nam soạn thảo Luật Bình đẳng giới; Hội Cựu chiến binh Việt Nam soạn thảo Pháp lệnh Cựu chiến binh... Để luật, pháp lệnh đi vào cuộc sống, các cơ quan đó đã trực tiếp soạn thảo nhiều nghị định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh và tham gia soạn thảo các nghị định về các lĩnh vực chưa có luật điều chỉnh như: nghị định về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nghị định về quỹ đền ơn đáp nghĩa... trong các trường hợp đó MTTQ và các tổ chức thành viên còn thực hiện việc giám sát, đôn đốc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các khâu trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho đến khi được ban hành chính thức. MTTQ và các tổ chức thành viên được cử đại diện tham gia Ban soạn thảo các luật, pháp lệnh, nghị định... có nội dung liên quan như: quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, nghị định về ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở... Đại diện MTTQ hoặc tổ chức thành viên trong ban soạn thảo giám sát toàn bộ quá trình soạn thảo từ khi ban soạn thảo được thành lập đến khi văn bản được ban hành thực hiện. MTTQ và các tổ chức thành viên tổ chức cho cán bộ đoàn viên, hội viên đóng góp ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh, nghị định do Chính phủ soạn thảo và gửi lấy ý kiến. Ngoài ra Mặt trận và các đoàn thể còn tham gia ý kiến đóng góp vào một số chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và nhiều thông tư của các bộ, ngành như: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh tại các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị về triển khai Pháp lệnh phòng chống mại dâm; Chỉ thị về việc ban hành và thực hiện hương ước, quy ước làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư... Thông tư của Bộ Công an hướng dẫn mẫu dấu, tổ chức khắc dấu cho các cơ quan, tổ chức theo Nghị định 58/2001/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư của Bộ lao động-thương binh và xã hội về xuất khẩu lao động... Việc tham gia quá trình soạn thảo, ban soạn thảo, tham gia đóng góp ý kiến vào các văn bản lập quy của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành của Mặt trận và các tổ chức thành viên đã góp phần giám sát đối với quá trình lập quy và nội dung văn bản lập quy của các cơ quan hành chính nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, đánh giá tổng thể thì việc thực hiện chức năng giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên đối với quá trình và nội dung văn bản lập quy chưa chủ động, thường xuyên, số lượng các văn bản được giám sát chưa nhiều so với số lượng mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và UBND các cấp đã ban hành trong thực tế. - Giám sát tính hợp hiến, hợp pháp các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước Giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là một chức năng quan trọng của Mặt trận và các tổ chức thành viên, nhằm đảm bảo cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân thể hiện trong Hiến pháp, luật, pháp lệnh... được cụ thể hoá đầy đủ, đúng đắn trong các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước. Thực tế khi ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước ở cả TW và địa phương đều chủ động gửi văn bản đến Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để tham khảo ý kiến trước khi quyết định ban hành. Đây là sự phối hợp rất quan trọng để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo dõi, xem xét, phát hiện tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản đó. Ngoài ra, Mặt trận và các đoàn thể còn theo dõi, giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước qua Công báo Chính phủ, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua hoạt động tư vấn của các chuyên gia pháp luật, qua hoạt động thực tế và các hình thức phản ánh của nhân dân. Hiến pháp, pháp luật quy định trách nhiệm, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong quá trình giám sát nếu phát hiện văn bản không hợp hiến, hợp pháp thì: + Đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. + Đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. + Đề nghị trực tiếp các cơ quan hành chính nhà nước xem xét, sửa đổi, bổ sung, hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành trái với Hiến pháp, luật... và văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên. Nội dung giám sát này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, bởi thực trạng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước các cấp thường có vi phạm trên các mặt như: Văn bản chồng chéo, mâu thuẫn nhau; văn bản ban hành sai thẩm quyền, không hợp hiến, hợp pháp; không đảm bảo tính thứ bậc (văn bản cấp dưới lấn át văn bản cấp trên, văn bản hướng dẫn lấn át văn bản chính); sai về thể thức văn bản (phải điều chỉnh bằng loạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • docmuc luc.doc
Tài liệu liên quan