Luận văn Hoàn thiện pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THU, CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI 5

1.1. Một số lý luận chung về bảo hiểm xã hội 5

1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường 12

1.3. Khái quát về pháp luật thu, chi bảo hiểm xã hội 13

1.4. Kinh nghiệm thực tiễn của một số nước về hoạt động bảo hiểm xã hội 22

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THU, CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI 32

2.1. Nội dung chủ yếu của pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội 32

2.1.1. Về quản lý thu bảo hiểm xã hội 32

2.1.2. Về quản lý chi bảo hiểm xã hội 35

2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội 37

2.2.1. Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội 37

2.2.2. Thực trạng quản lý chi bảo hiểm xã hội 59

2.2.3. Cân đối thu, chi quỹ bảo hiểm xã hội 76

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THU, CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở NƯỚC TA ĐẾN NĂM 2010 81

3.1. Những định hướng cơ bản 81

3.1.1. Pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội phải thể hiện được đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước 81

3.1.2. Mở rộng phạm vi và đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế 81

3.1.3. Nhà nước thống nhất ban hành chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng phát huy quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước 82

3.1.4. Pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội phải đảm bảo tính kế thừa và phát triển, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới 83

3.2. Những giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội 83

3.2.1. Đổi mới phương thức quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội 83

3.2.2. Đẩy mạnh hoạt động đầu tư, tăng tưởng quỹ 93

3.2.3. Sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội 94

3.2.4. Hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội 94

KẾT LUẬN 97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100

 

doc103 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh đều đăng ký tham gia BHXH, hiện tượng doanh nghiệp né tránh hoàn toàn, không đăng ký tham gia cũng rất ít. - Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì đây là khối có số lượng lao động phải tham gia đông nhất. Theo thống kê số lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp này là rất lớn, trên toàn quốc có tới trên 10 triệu và xu thế sẽ còn nhiều hơn nữa vì các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa sẽ chuyển sang loại hình này. Tuy nhiên, trên thực tế số lao động tham gia BHXH của các doanh nghiệp này còn rất hạn chế mới chỉ chiếm từ 10-15% tổng tổng số phải tham gia theo luật định. Các vi phạm pháp luật về nghĩa vụ đóng BHXH của các doanh nghiệp này trong thời gian qua là thường xuyên và dưới nhiều hành thức như không đăng ký tham gia, khai giảm số lao động, tiền lương… Nguyên nhân chính của tình hình này là: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đặc điểm chung là có quy mô sản xuất vừa và nhỏ là chủ yếu; cơ sở sản xuất, lực lượng lao động thường không ổn định, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, cơ chế quản lý thu cũng như các quy định của pháp luật trong việc kiểm tra, xử lý các vi phạm của các doanh nghiệp thuộc khu vực này còn chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ và rất khó thực hiện. Vì vậy, công tác quản lý thu BHXH đối với các doanh nghiệp này cũng hết sức khó khăn. Ngoài ra, có một hiện tượng khá phổ biến nữa là nhiều doanh nghiệp trốn tránh, không đăng ký tham gia BHXH với cơ quan BHXH là họ thường thỏa thuận với người lao động về điều kiện tự bảo hiểm lấy để viện lý do nếu bị các cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra phát hiện ra (khi vào làm việc người sử dụng lao động chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng, mặc dù công việc ổn định và kéo dài qua các năm, trong đó người sử dụng lao động ghi rõ trong hợp đồng là tiền BHXH được trả cùng với tiền lương, tiền công của người lao động để họ tự bảo hiểm lấy). * Đối với Nhà nước Trách nhiệm của Nhà nước trong việc tham gia vào quỹ BHXH đã được quy định rõ trong Bộ luật Lao động cũng như trong Điều lệ BHXH có hiệu lực thi hành từ năm 1995, đó là: Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Do đặc thù hoạt động BHXH của nước ta, từ năm 1994 trở về trước người lao động không phải đóng BHXH nhưng vẫn được hưởng quyền lợi BHXH, còn từ 1995 trở đi luật quy định người lao động bắt buộc phải đóng BHXH mới được hưởng BHXH, quỹ BHXH chỉ phải đảm bảo chi trả cho các đối tượng đủ điều kiện hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH từ 1995 trở đi, còn các đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH từ 1994 trở về trước vẫn do ngân sách nhà nước đảm bảo. Với quy định này đã làm nảy sinh các vấn đề cần giải quyết đó là: - Phần đóng và hỗ trợ của ngân sách nhà nước cho các đối tượng có thời gian làm việc trước năm 1995 nhưng lại về nghỉ hưu và trợ cấp BHXH từ 1995 trở đi đến nay chưa được thực hiện. Theo tính toán của cơ quan BHXH số phải đóng vào quỹ BHXH của Nhà nước là khá lớn, lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Nhưng trên thực tế đã gần 9 năm nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết. Điều này ảnh hưởng đến rất lớn đến khả năng tăng trưởng của quỹ BHXH, vì nếu Nhà nước chuyển dần số tiền đó vào quỹ BHXH theo từng năm thì khả năng sinh lời của quỹ cũng sẽ lớn dần lên hàng năm. - Nhà nước đảm bảo cho quỹ trong trường hợp lạm phát cao, sức mua của đồng tiền bị giảm sút. Sự đảm bảo này đến nay chưa phải sử dụng đến vì lạm phạm trong những năm qua vẫn nằm trong tầm kiểm soát được. Tóm lại, trong điều kiện hiện nay, nếu không có những quy định và cơ chế rõ ràng cho việc đóng và hỗ trợ của Nhà nước vào quỹ BHXH, thì việc Nhà nước tự điều chỉnh mình là rất khó, tính khả thi kém. * Đối tượng bị điều chỉnh cuối cùng - cơ quan BHXH Cơ quan BHXH, tổ chức có trách nhiệm chính trong công tác thu BHXH, quản lý và sử dụng quỹ BHXH. Việc điều chỉnh của pháp luật với tổ chức này nhìn chung không có gì phức tạp bởi lẽ, các quy định của pháp luật về đối tượng, về mức đóng và phương thức đóng đã khá rõ, cơ quan BHXH chỉ phải chịu trách nhiệm duy nhất là thu đúng, thu đủ, bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Tuy nhiên, trên thực tế và trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, cũng đã nảy sinh khá nhiều vấn đề cần phải được xử lý, giải quyết bằng các quy định của pháp luật. Chẳng hạn, các đối tượng phải tham gia BHXH đã được quy định rõ nhưng khi cơ quan BHXH kiểm tra phát hiện ra lại không có quyền xử phạt; hoặc luật đã quy định cơ quan BHXH có trách nhiệm bảo toàn, đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH nhưng trên thực tế việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH hiện nay lại phụ thuộc hoàn toàn vào sự chỉ định của Thủ tướng Chính phủ mà chủ yếu là cho vay với lãi suất thấp, như vậy rõ ràng là khả năng sinh trưởng của quỹ bị ảnh hưởng, thậm chí ở thời điểm lãi suất cho vay thấp hơn tỷ lệ lạm phát thì quỹ không những không tăng trưởng mà khả năng bảo toàn cũng rất khó… Qua phần phân tích ở trên, ta có thể rút ra kết luận: Nếu các đối tượng bị điều chỉnh của pháp luật về quản lý thu BHXH thực thi nghiêm túc các quy định của luật thì kết quả thu BHXH chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao và ngược lại. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc thực thi các quy định của pháp luật về quản lý thu BHXH cũng đã chỉ ra giữa các quy định của luật với những gì diễn ra trong thực tế cuộc sống còn có khoảng cách và ở một số khâu thậm chí còn là khoảng cách lớn. Vì vậy, nhiệm vụ của các nhà hoạch định, xây dựng chính sách cũng như những người tổ chức thực hiện công tác thu BHXH là làm sao phải rút ngắn và loại bỏ được khoảng cách này, có như vậy pháp luật về quản lý thu BHXH mới có tính khả thi cao trong cuộc sống. 2.2.1.3. Đánh giá chung tình hình thực hiện pháp luật về quản lý thu bảo hiểm xã hội - Những kết quả đạt được: Một là: Mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia BHXH, nếu trước đây đối tượng tham gia BHXH chỉ hạn hẹp trong phạm vi cán bộ, công nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang thì từ năm 1995 đến nay đối tượng, phạm vi tham gia BHXH đã không ngừng được mở rộng, hiện tại là đối với tất cả các đơn vị, cơ sở sản xuất, kể cả các doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động nếu có quan hệ hợp đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng trở lên và hợp đồng không xác định thời hạn đều thuộc diện bắt buộc phải tham gia BHXH. Với quy định này của pháp luật, số lượng lao động tham gia và số thu BHXH từ năm 1995-2003 không ngừng được tăng lên hàng năm, điều mà trước năm 1995 không thể có được. Hai là: Hình thành quỹ BHXH tập trung, quản lý thống nhất, hạch toán độc lập với ngân sách nhà nước và đảm bảo tự cân đối thu, chi BHXH. Nếu trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa, nguồn chi trả các chế độ BHXH cho người lao động chủ yếu do ngân sách nhà nước đảm bảo. Vì vậy, hiện tượng chậm trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho đối tượng từ 1 đến 2 tháng thường xuyên xảy ra ở các địa phương, nhất là vào những thời điểm ngân sách nhà nước gặp khó khăn, làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của đối tượng và trật tự, an toàn xã hội, thì từ năm 1995, quỹ BHXH đã có thực, tồn tại trên thực tế và ngày càng tăng trưởng, do vậy việc chi trả các chế độ BHXH hoàn toàn chủ động trên phạm vi toàn quốc; hiện tượng chậm trả lương hưu và trợ cấp BHXH không còn xảy ra. Kết quả thực hiện chính sách BHXH theo cơ chế mới trong 9 năm qua đã khẳng định, quỹ không những đủ chi cho các chế độ BHXH mà còn có trên 34.000 tỷ đồng tạm thời "nhàn rỗi" để đầu tư tăng trưởng. Dưới đây là kết quả thu BHXH và hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ từ năm 1995 đến 2003. Biểu số 2.3: Số tiền thu BHXH và hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH từ năm 1995 đến 2003 Năm Tiền thu BHXH (triệu đồng) tăng so với năm trước (%) Tiền đưa vào đầu tư (triệu đồng) Lãi thu được qua đầu tư (triệu đồng) 1 2 3 4 5 1995* 788.486 1996 2.569.733 100 1.078.636 18.151 1997 3.445.611 34,08 4.072.069 209.792 1998 3.875.956 12,48 7.493.161 467.166 1999 4.186.054 8,00 10.628.002 659.675 2000 5.198.221 24,10 15.662.942 816.214 2001 6.348.184 22,10 25.723.636 1.605.762 2002 11.633.000 34.118.000 1.800.000 Nguồn: Báo cáo quyết toán hàng năm của BHXH Việt Nam. * Số tiền thu BHXH của năm 1995 là số thu của quý IV. Ba là: Góp phần xóa bỏ sự phân biệt về quyền và nghĩa vụ BHXH giữa những người lao động: Thực hiện chính sách BHXH theo cơ chế mới dựa trên nguyên tắc đóng, hưởng, cộng đồng chia sẻ rủi ro đã làm thay đổi nhận thức của hàng triệu người lao động và chủ sử dụng lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH, đồng thời góp phần xóa đi ranh giới giữa những người lao động làm việc trong khu vực Nhà nước với những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác. Nhận thức này tạo ra môi trường thuận lợi, lành mạnh để chủ trương, chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng; đồng thời đảm bảo sự công bằng về quyền và nghĩa vụ BHXH giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy người lao động tìm kiếm việc làm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. - Những hạn chế: Một là: Số người tham gia BHXH vẫn còn hạn chế, đối tượng tham gia BHXH mặc dù đã được mở rất rộng nhưng do cơ chế thực hiện còn nhiều điểm chưa rõ, nên việc triển khai cụ thể của cơ quan BHXH và các đơn vị sử dụng lao động gặp nhiều khó khăn. Hiện nay chủ yếu vẫn là lao động thuộc khu vực Nhà nước tham gia BHXH, lao động làm việc trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thuộc diện bắt buộc phải tham gia mới chỉ đạt từ 10-15%. Bộ luật Lao động quy định có hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện, nhưng cho đến nay đã hơn 9 năm trôi qua, loại hình BHXH tự nguyện vẫn chưa được thực hiện. Do vậy, quyền và nghĩa vụ BHXH của hàng triệu người lao động không thuộc diện làm công ăn lương như lao động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ… chưa được thực hiện. Chính sách BHXH chưa quy định chế độ BHXH thất nghiệp để ổn định cuộc sống cho người lao động khi bị mất việc tạm thời, nên rất khó khăn cho các đối tượng này khi họ bị mất việc. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hiện tượng người lao động thất nghiệp là không thể tránh khỏi, thậm chí ở vào từng thời điểm nhất định số đối tượng này là rất lớn. Theo số liệu điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam tháng 7/2000 cho thấy cả nước có 36.206.200 lao động có việc làm thường xuyên, trong đó: - Làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp có 22.650.000 người, chiếm 62,56%. - Làm việc trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng 4.761.400 người, chiếm 13,15%. - Làm việc trong nhóm ngành dịch vụ 8.794.800 người, chiếm 24,29%. Với các số liệu trên, nếu trừ đi những người làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp (đối tượng chưa bắt buộc phải tham gia BHXH), thì số lao động tham gia BHXH năm 2000 mới chỉ chiếm 30,7% tổng số lao động đang làm việc trong nhóm ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ (năm 2000 có 4.162.805 người tham gia BHXH). Dưới đây ta có thể chỉ ra một trong những bất cập này. Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ quy định thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động làm việc trong các cơ sở Y tế, Giáo dục, Văn hóa, Thể thao ngoài công lập, những mãi đến 20/10/2000, tức là sau hơn một năm các Bộ, ngành chức năng mới ra được thông tư hướng dẫn thực hiện, nhưng lại chưa tính đến khả năng tham gia thực tế của đối tượng, cụ thể là với giáo viên mầm non thuộc các bản làng, thôn, xã, nhất là ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, thu nhập hàng tháng của họ phụ thuộc vào khả năng đóng góp của cha, mẹ học sinh; khoản đóng góp này thường chỉ đủ cho những sinh hoạt thiết yếu của các cô giáo; qua điều tra, có tới 50% giáo viên mầm non thu nhập dưới mức lương tối thiểu; nhiều tỉnh, Ngân sách còn phải cấp thêm mỗi tháng từ 50.000 - 100.000 đồng mới đảm bảo cuộc sống cho các cô giáo. Trong trường hợp này, người lao động đóng BHXH trên nền lương nào; ai là chủ sử dụng lao động; phương thức đóng; mức hưởng sau này sẽ tính như thế nào... Chính vì vậy cho đến nay, việc triển khai thực hiện thu BHXH đối với các đối tượng này còn rất nhiều bất cập và rất khó khăn. Hai là: Chưa có cơ chế khuyến khích người lao động đóng BHXH cao hưởng cao, đóng BHXH theo thu nhập thực tế, hiện nay chỉ trừ số lao động làm việc trong khu vực hành chính sự nghiệp là không có sự chênh lệch lớn giữa tiền lương tháng theo ngạch, bậc và thu nhập thực tế, còn lại đều có sự chênh lệch lớn, thậm chí là rất lớn, nhất là ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài; trên thực tế có không ít doanh nghiệp, tiền lương theo ngạch bậc của người lao động chỉ từ 600.000-700.000 đồng, trong khi đó thu nhập thực tế của họ lại lên đến 2 hoặc 3 triệu đồng; đó là những hạn chế làm giảm tính cộng đồng, chia sẻ rủi ro và công bằng xã hội trong việc thực thi chính sách BHXH nói chung và pháp luật về quản lý thu BHXH nói riêng. Ba là: Chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa rủi ro, mất cân đối thu, chi quỹ BHXH: Việc tập trung thống nhất nguồn thu BHXH của 5 chế độ BHXH vào một quỹ chung đã làm giảm hiệu quả và tính chủ động của cơ quan BHXH trong việc phân tích, đánh giá tình hình để kịp thời đưa ra các biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa rủi ro, đồng thời làm cho công tác kiểm tra, giám sát, hạch toán thu, chi quỹ gặp không ít khó khăn. Chính vì vậy qua hơn 9 năm thực hiện chính sách BHXH theo cơ chế mới, nhưng đến nay BHXH Việt Nam và các Bộ chức năng chưa phân tích, chỉ ra được mức đóng, mức hưởng của từng chế độ là bao nhiêu cho phù hợp để có những điều chỉnh cần thiết. Việc quy định tỷ lệ hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH cao cùng với việc phải xử lý các chính sách khác như sắp xếp tổ chức, tinh giảm biên chế… làm cho quỹ BHXH khó có thể cân bằng thu - chi BHXH và về lâu dài sẽ bị thiếu hụt. Theo các chuyên gia tài chính, với mức đóng góp như hiện nay: người lao động đóng 5% và người sử dụng lao động đóng 15% với giả định không có sự thay đổi về chính sách BHXH thì chỉ đến năm 2020, quỹ BHXH sẽ dần dần bị thâm hụt trong một thời gian dài và không còn khả năng thanh toán. Trong điều kiện như hiện nay, chính sách BHXH thay đổi nhiều (nghỉ hưu sớm, thêm chế độ nghỉ dưỡng sức…) thì thời gian thâm hụt quỹ BHXH sẽ càng nhanh đến hơn. Bốn là: Việc thực hiện các quy định của pháp luật về xử lý các vi chính sách BHXH nói chung và quy định về nghĩa vụ đóng BHXH nói riêng còn rất hạn chế, kém hiệu quả: Quy định của pháp luật trong việc xử lý các vi phạm chính sách BHXH còn quá nhẹ so với số tiền chậm nộp hoặc bị chiếm dụng hàng tỷ đồng của không ít các doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp sẵn sàng nộp tiền phạt đến lần thứ hai, thứ ba hoặc hơn nữa thay cho việc đóng BHXH. Nghị định số 38/NĐ-CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật, quy định mức phạt 2.000.000 đồng đối với các vi phạm về chính sách BHXH. Mặt khác cơ chế xử lý chưa rõ ràng, cơ quan BHXH là người trực tiếp và thường xuyên phát hiện ra các vi phạm chính sách BHXH nhưng lại không được quyền xử phạt, mà do các cơ quan chức năng khác xử lý. Qua đợt giám sát tình hình thi hành Bộ luật Lao động, trong đó có chính sách BHXH của ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội khóa IX cho biết: kiểm tra ở hai Tổng công ty: một Tổng công ty sử dụng 15.000 lao động; một Tổng công ty sử dụng 5.000 lao động trong 1 năm họ không đóng BHXH hơn 15 tỷ đồng; nếu tính trong cả nước đối với khu vực tư nhân thì quỹ BHXH đã thất thu một lượng tiền rất lớn; còn nếu tính cho tất cả các khu vực khác thì con số còn lớn hơn nhiều. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã lên tiếng cảnh báo tình trạng vi phạm chính sách BHXH của Công ty TNHH Thiên Hộ - thành phố Hồ Chí Minh (công ty liên doanh với nước ngoài) sử dụng thường xuyên 2.600 lao động, từ năm 1997-2002, hàng tháng công ty vẫn thu 5% tiền lương của người lao động đóng BHXH, nhưng lại không đóng BHXH cho cơ quan BHXH với số tiền lên đến 22 tỷ đồng. Việc nợ đọng hoặc trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp, trước hết làm thất thu quỹ BHXH, nhưng điều quan trọng hơn làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động, bởi vì theo quy định hiện nay, nếu người lao động, đơn vị sử dụng lao động không đóng BHXH thì cơ quan BHXH có quyền từ chối giải quyết chế độ, chính sách BHXH cho người lao động. Theo báo cáo của BHXH các tỉnh, thành phố, từ khi Nghị định số 38/NĐ-CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ có hiệu lực thi hành, số đơn vị bị phát hiện có các vi phạm chính sách BHXH lên tới hàng nghìn, nhưng số đơn vị bị xử phạt chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Mức xử phạt này đã được tăng lên 20.000.000 đồng (Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội khóa X thông qua ngày 2/7/2002), nhưng cơ chế thực hiện vẫn chưa có gì thay đổi. Do vậy, trên thực tế chưa có tác dụng ngăn chặn các vi phạm chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH (về nội dung này, Điều 50 Luật An sinh xã hội Thái Lan quy định: Người sử dụng lao động nào không chịu nộp các khoản đóng góp hoặc khoản tiền phải nộp thêm, hoặc không chịu nộp đầy đủ thì Tổng thư ký cơ quan An sinh xã hội có quyền ký lệch tịch thu, tịch biên và bán đấu giá tài sản của người đó tới mức cần thiết đủ để trả cho các khoản đóng góp BHXH chưa nộp). Năm là: Chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước đối với quỹ BHXH. Hiện tại chính sách BHXH mới chỉ quy định: thời gian làm việc trước 1/1/1995 của cán bộ, công nhân viên chức trong biên chế nhà nước và thời gian phục vụ trong lực lượng vũ trang của quân nhân, công an nhân dân được coi là có đóng BHXH; kinh phí chi trả do ngân sách nhà nước đảm bảo; quỹ BHXH chỉ chịu trách nhiệm đảm bảo kinh phí chi trả cho các đối tượng được hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH từ 1995 trở đi, bởi vì số người này đều có thời gian làm việc trước năm 1995 (là thời gian người lao động chưa đóng BHXH, nhưng nay quỹ BHXH phải chi trả). Còn sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước đối với quỹ BHXH cho đến nay vẫn chưa thực hiện được, việc cân đối thu - chi quỹ BHXH gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện hiện nay, số người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH đang có xu hướng tăng nhanh qua từng năm. Ta có thể thấy được tình hình này qua biểu dưới đây. Biểu số 2.4: Đối tượng và kinh phí chi trả BHXH do NSNN và quỹ BHXH đảm bảo Năm Ngân sách nhà nước đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo Đối tượng (người) Tiền chi trả (triệu đồng) % so với năm trước Đối tượng (người) Tiền chi trả (triệu đồng) % so với năm trước 1 2 3 4 5 6 7 1996 1.750.418 4.387.903 100 20.618 383.144 100 1997 1.716.257 5.163.093 +25,7 43.566 593.525 +54,9 1998 1.683.500 5.128.425 -0,7 70.077 751.629 +26,6 1999 1.650.709 5.015.620 -2,2 105.303 940.351 +25,1 2000 1.616.673 6.239.494 +24,4 145.730 1.330.680 +41,5 2001 1.588.545 7.321.410 +17,3 191.135 1.856.339 +39,5 2002 1.557.004 7.033.016 225.439 2.585.554 Nguồn: Báo cáo quyết toán hàng năm của Bảo hiểm xã hội Việt Nam Nhìn vào các số liệu trên, ta thấy ngược lại với xu hướng giảm chi của ngân sách nhà nước cho các đối tượng hưởng BHXH trước năm 1995 là xu hướng tăng chi của quỹ BHXH cho các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH từ năm 1995 trở đi, bình quân từ năm 1996-2006, mỗi năm tăng 37,8%, trong khi đó số thu BHXH cùng thời gian này chỉ tăng bình quân 20,1%. Với mức tăng này, nếu không có sự đóng, hỗ trợ của ngân sách nhà nước để chi trả lương hưu cho người lao động thuộc khu vực Nhà nước về hưu kể từ 1995, quỹ BHXH sẽ dần bị thâm hụt và mất khả năng chi trả. Về lý thuyết cũng như thực tế các đối tượng hưởng BHXH do ngân sách nhà nước đảm bảo chi trả sẽ giảm dần qua các năm (giảm khoảng 2%/năm) và như vậy, số tiền chi trả cũng sẽ giảm theo. Tuy nhiên, nhìn vào biểu số 5 ta thấy một số năm có tăng lên như năm 1997, tăng so với năm 1996 là 25,7%, năm 2000 tăng so với năm 1999 là 24,4%… nguyên nhân là do cơ quan BHXH phải giải quyết các trường hợp tồn đọng từ năm 1995 trở về trước, do Chính phủ bổ sung thêm quyền lợi được hưởng của đối tượng và do tăng tiền lương tối thiểu. Sáu là: Chưa có giải pháp hiệu quả cho công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Hiện nay, ngoài việc chủ động nguồn để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH, quỹ BHXH mới chủ yếu cho Quỹ hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam, Bộ Tài chính và các ngân hàng thương mại vay với lãi suất ưu đãi, nên khả năng sinh lời thấp, thậm chí có những năm tỷ lệ lạm phát cao hơn lãi suất cho vay, quỹ BHXH không bảo toàn được giá trị, mà còn bị thâm hụt so với sức mua thực tế của đồng tiền. Đây là điều mà nhiều chuyên gia tài chính của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã cảnh báo. Để hiểu sâu hơn về hạn chế này, ta có thể xem các số liệu trong biểu số 6. Biểu số 2.5: Hoạt động đầu tư, tăng trưởng quỹ BHXH năm 2001 Nơi đầu tư Tiền đầu tư (tỷ đồng) Lãi suất đầu tư (%/năm) Tiền lãi thu từ đầu tư (tỷ đồng) Mua công trái chính phủ 700 10 70 Mua trái phiếu kho bạc 1.000 5,4 54 Quỹ hỗ trợ phát triển 7.700 5,4 415 Ngân hàng ĐTPT Việt Nam 3.200 5,1 163 Bộ Tài chính 2.078 3,6 74 Các ngân hàng thương mại 6.374 6,6 400 Tổng số 21.052 1.100 Nguồn: Báo cáo quyết toán năm 2001 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam Trong tổng số 21.052 tỷ đồng đầu tư, BHXH Việt Nam chỉ được chủ động thực hiện đầu tư vào các ngân hàng thương mại với số tiền 6.374 tỷ đồng (chiếm 30,3%), còn lại 14.678 tỷ đồng (69,7%) là đầu tư theo chỉ định của Chính phủ với lãi suất thấp. Với các số liệu trên, ta nhận thấy chỉ có khoản đầu tư vào Công trái Chính phủ và các ngân hàng thương mại là có khả năng tăng trưởng, còn vào các địa chỉ khác, khả năng này rất hạn chế. Ta giả sử, nếu các khoản đầu tư còn lại đều được đầu tư vào các ngân hàng thương mại với lãi suất 6,6%/năm, thì trong năm 2001 sẽ thu về được 1.316 tỷ đồng, nhiều hơn số lãi đã thu được 216 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện nay, khi tốc độ tăng thu BHXH còn có sự chênh lệch quá lớn với tốc độ tăng chi, thì 216 tỷ đồng là con số rất có ý nghĩa đối với việc bảo toàn và làm tăng khả năng chi trả của quỹ BHXH. - Nguyên nhân: Thứ nhất: ảnh hưởng của chiến tranh và của chính sách BHXH trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, trải qua hơn 30 năm, từ khi có Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH thi hành từ năm 1962, chúng ta đã xây dựng và thực hiện chính sách BHXH trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, người lao động không phải đóng BHXH; kinh phí chi trả các chế độ BHXH phần lớn do ngân sách nhà nước đảm bảo. Cơ chế này dẫn đến tình trạng: - Về phía người sử dụng lao động cũng như người lao động không quan tâm đến việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH mà chỉ quan tâm đến quyền lợi được hưởng về BHXH. - Về phía Nhà nước, vì phải tập trung sức người, sức của vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nên mới chỉ quan tâm đến hiệu quả xã hội của chính sách BHXH, còn hiệu quả kinh tế chưa trở thành mục tiêu được quan tâm, do vậy, khi mới xây dựng, hoạch định chính sách BHXH theo cơ chế mới, nhất là từ năm 1995 khó tránh khỏi những ảnh hưởng của thời kỳ bao cấp, dẫn đến những bất cập, những tồn tại, hạn chế trong các chính sách BHXH đã ban hành. Thứ hai: Hiệu lực quản lý hoạt động BHXH còn thấp: quy định của pháp luật trong việc xử lý các vi phạm chính sách BHXH chưa rõ về cơ chế, hiệu quả kém. Theo quy định hiện hành, chỉ có Thanh tra lao động và Thanh tra Liên ngành mới có quyền xử phạt các đơn vị khi vi phạm chính sách BHXH. Trong khi đó lực lượng Thanh tra lao động lại quá mỏng, theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trên phạm vi toàn quốc chỉ có gần 100 người; con số này nếu so với trên 90.000 đơn vị sử dụng lao động thì quá nhỏ. Hơn nữa, nhiệm vụ thanh tra, phát hiện và xử lý các vi phạm chính sách BHXH lại không phải là trách nhiệm chính của lực lượng này. Thứ ba: Thiếu một hệ thống chính sách BHXH đồng bộ, hệ thống chính sách BHXH ở nước ta vừa thiếu lại vừa thừa, tính khả thi của một số chính sách còn thấp; sự gắn kết giữa các chính sách chưa chặt chẽ, nhất là trong các quy định của pháp luật về mức đóng và hưởng BHXH, một số chính sách chỉ quan tâm đến quyền được hưởng của người lao động mà không tính đến nguồn để đảm bảo chi trả. Nguyên nhân chính của tình hình này là chính sách BHXH của ta còn nặng về sửa đổi, bổ sung để giải quyết các tồn tại, phát sinh trước mắt, chưa có tầm chiến lược lâu dài phù hợp với tình hình của đất nước, của các nước trong khu vực và trên thế giới. Những chuyên gia và cơ quan có trách nhiệm hoạch định, xây dựng chính sách BHXH chưa nắm chắc và cũng chưa lường hết những diễn biến ở cơ sở, ở trong nước và tình hình thế giới; chưa thường xuyên tổng kết thực tiễn để rút ra bài học, kinh nghiệm về tính quy luật của hoạt động BHXH trong cơ chế thị trường. 2.2.2.Thực trạng quản lý chi bảo hiểm xã hội Chi trả các chế độ BHXH là bước tiếp theo và cũng là kết quả của các hoạt động trước đó là thu BHXH và xét duyệt hồ sơ của người lao động khi đủ điều kiện hưởng BHXH theo quy định của pháp luật. Chi trả các chế độ BHXH là hoạt động liên quan trực tiếp đến tiền nhằm đảm bảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van - chinh thuc.doc
  • docmuc luc.doc
Tài liệu liên quan