Luận văn Hoàn thiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 4

1.1. Thu, chi ngân sách nhà nước và vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội 4

1.2. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh 18

1.3. Nội dung cơ bản về quản lý thu, chi ngân sách nhà nước 21

1.4. Một số kinh nghiệm về quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của một số thành phố thuộc tỉnh ở trong nước 34

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA THÀNH PHỐ NHA TRANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY 36

2.1. Đặc điểm, tình hình kinh tế-xã hội của thành phố Nha Trang có liên quan đến quá trình quản lý thu, chi ngân sách nhà nước 36

2.2. Thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang từ năm 2001 đến nay 39

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang từ năm 2001 đến nay 45

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ NHA TRANG 77

3.1. Quan điểm hoàn thiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của thành phố Nha Trang 77

3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang 79

KẾT LUẬN 108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110

 

 

 

doc115 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12755 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợ, Ban quản lý bến tàu du lịch,các trường thuộc phòng Giáo dục,phòng Quản lý đô thị, phòng Tài nguyên môi trường, phòng Tư pháp, Công ty Môi trường đô thị, UBND các xã, phường. Nhìn chung các đơn vị đã tổ chức thực hiện công tác thu phí, lệ phí tương đối tốt, hoàn thành dự toán thu được giao và quyết toán kịp thời với cơ quan Thuế. Chi cục thuế thành phố cũng đã thường xuyên kiểm tra việc chấp hành chế độ và quyết toán thu nộp phí, lệ phí của các đơn vị. Công tác ghi thu ghi chi các khoản phí, lệ phí được để lại quản lý chi qua ngân sách được thực hiện kịp thời, đúng quy định. Qua thanh tra, kiểm toán định kỳ chưa phát hiện cơ quan, đơn vị nào tự ý đặt ra các khoản phí, lệ phí ngoài quy định. 2.3.1.2. Kết quả đạt được về quản lý chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang từ năm 2001 đến nay Quản lý chi NSNN trên địa bàn thành phố Nha Trang trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến đáng kế, quy mô chi ngân sách không ngừng tăng lên và quản lý sử dụng ngân sách chặt chẽ, hợp lý, hiệu quả hơn. Thứ nhất, chi đầu tư phát triển Đây là nội dung chi được thành phố đặc biệt quan tâm trong những năm qua. Kết quả về quản lý chi đầu tư phát triển được thể hiện cụ thể sau: - Đã tuân thủ các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng, về cấp phát thanh toán vốn đầu tư, về quyết toán vốn đầu tư; từ đó góp phần hạn chế tối đa việc lãng phí, thất thóat trong đầu tư xây dựng cơ bản ngay từ khâu quyết định đầu tư, bố trí vốn đầu tư, thực hiện đầu tư và thanh quyết toán vốn đầu tư. - Bố trí cơ cấu chi đầu tư bám sát yêu cầu phục vụ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh và thành phố đề ra. Quá trình thực hiện chi đầu tư phát triển luôn coi trọng đầu tư cơ sở hạ tầng và tập trung ngân sách ở mức cao nhất để thực hiện mục tiêu này nhằm tạo ra điều kiện môi trường thuận lợi cho thành phố trong quá trình phát triển. Theo đó chi đầu tư trong những năm qua tập trung vào việc cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị của thành phố, chỉnh trang đô thị, đầu tư cho SNGD …; ngoài ra vốn đầu tư còn bố trí để thực hiện các chương trình KT-XH của thành phố như: xóa đói giảm nghèo, kiên cố hóa kênh mương, giao thông nông thôn và nâng cấp hẻm nội thị, điện chiếu sáng công cộng khu vực nội thành và ngọai thành… - Thành phố đã tập trung thực hiện các giải pháp đồng bộ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: + Xác định đúng đắn sự cần thiết phải đầu tư đối với các dự án, công trình để có quyết định đầu tư chính xác, phù hợp với điều kiện và khả năng của ngân sách. + Nâng cao năng lực của các chủ đầu tư thông qua việc kiện toàn, củng cố bộ máy các ban quản lý chuyên nghiệp của thành phố, cũng như tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của ban quản lý trực thuộc UBND các xã, phường. + Nâng cao chất lượng công tác tư vấn: lập dự án, lập thiết kế dự toán, thi công, giám sát. + Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án,thẩm định thiết kế tổng dự toán… + Tăng cường công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng, tiến hành xử phạt hợp đồng đối với các nhà thầu thi công làm ăn gian đối không đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm đối với các chủ đầu tư và các bên có liên quan trong quản lý chất lượng công trình. - Mặc dù nguồn vốn chi đầu tư còn phát triển theo phân cấp hạn hẹp, song thành phố cũng tìm mọi biện pháp để tăng thêm vốn đầu tư, cũng như có nhiều đề xuất kiến nghị với tỉnh Khánh Hoà trong việc bổ sung thêm vốn đầu tư cho việc phát triển KT-XH cũng như đảm bảo môi trường sinh thái. Thứ hai, đối với quản lý chi thường xuyên Kết quả quản lý chi thường xuyên ở thành phố Nha Trang được thể hiện cụ thể như sau: - Về cơ bản đã đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng và mở rộng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của thành phố. Ngoài các khoản chi thường xuyên, ngân sách thành phố đã đáp ứng các nhu cầu có tính đột xuất nhất là trong trường hợp thiên tai, bão lụt cũng như các trường hợp trợ cấp đột xuất khác. Từ đó hoàn thành vai trò là nguồn lực tài chính để thành phố hoàn thành tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH đã đề ra. - Việc thực hiện chu trình ngân sách đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể. Trong khâu lập dự toán các đơn vị đã bám sát các định mức phân bổ ngân sách và định mức sử dụng NSNN ban hành cũng như nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương mình. Quá trình xét duyệt dự toán, phân bổ ngân sách đã thực hiện đúng quy định của luật NSNN; việc chấp hành dự toán đã có nhiều tiến bộ, kinh phí chi thường xuyên được quản lý sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm; từng bước có sự đổi mới từ thủ tục cho đến thời gian cấp phát và xem xét hiệu quả sau cấp phát, công tác kiểm soát chi của kho bạc ngày càng chặt chẽ hơn; công tác lập, thẩm định, xét duyệt báo cáo quyết toán đã đi vào nề nếp, chất lượng báo cáo quyết toán đã được nâng lên rõ rệt, báo cáo quyết toán đã phản ánh tương đối chính xác và trung thực tình hình sử dụng ngân sách cũng nhưng hoạt động của đơn vị trong năm ngân sách. - Cơ cấu chi ngân sách đã từng bước đổi mới, chú ý mục tiêu phục vụ các chương trình KT-XH của thành phố như: chương trình xóa đói giảm nghèo,giải quyết việc làm,chương trình phát triển thương mại du lịch, chương trình phát triển kinh tế vùng đảo, chương trình phổ cập giáo dục tiểu học,trung học cơ sở, trung học phổ thông…Cơ cấu chi ngân sách thành phố đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố đề ra. - Các cơ quan đơn vị và cá nhân hưởng thụ từ các khoản chi thường xuyên đã có ý thức trong việc sử dụng có hiệu quả, hạn chế được tiêu cực. - Các đơn vị thực hiện thí điểm khoán kinh phí hành chính theo quyết định 192/2001/QĐ-TTg bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực, hiệu quả hoạt động, tính chủ động trong thực hiện nhiệm vụ công tác đã được nâng lên một bước. Ở các đơn vị này đã chủ động sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối, thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cải tiến quy trình nghiệp vụ, riêng đối với phòng Tài chính - kế hoạch còn đăng ký xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 trong quy trình cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ cá thể.Các cơ quan đã đề ra quy chế chi tiêu nội bộ làm cho ý thức tiết kiệm chống lãng phí được nâng lên, việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của đơn vị đi vào thực chất hơn. Thu nhập của cán bộ, công chức được nâng lên, đời sống được cải thiện đáng kể. Qua kiểm tra quyết toán các đơn vị này cho thấy thu nhập mỗi cán bộ, công chức tăng thêm từ 500.000đ – 600.000đ /tháng, đây cũng là mức tăng đáng kể đối với người hưởng lương nhà nước. - Việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ đã đạt được những kết quả rất khả quan. Các đơn vị sự nghiệp có thu được giao quyền tự chủ tài chính đã từng bước cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ, sắp xếp lại tổ chức bộ máy và người lao động theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, việc quản lý khai thác và mở rộng nguồn thu sự nghiệp được chú trọng hơn, ý thức sử dụng kinh phí tiết kiệm hơn,thu nhập của viên chức sự nghiệp được nâng lên đáng kể. Qua kiểm tra quyết toán cho thấy thu nhập bình quân người lao động đã tăng thêm từ 900.000đ- 1.000.000đ/tháng. Các đơn vị đã phấn đấu tăng thu một cách tự giác để nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức đơn vị, thực tế cho thấy sau khi được giao quyền tự chủ tài chính các đơn vị này đều hoàn thành kế hoạch năm sau cao hơn năm trước từ 15-20%. 2.3.2. Những hạn chế, yếu kém trong quản lý thu, chi ngân sách nhà nước từ năm 2001 đến nay 2.3.2.1. Hạn chế, yếu kém về quản lý thu ngân sách nhà nước Thứ nhất, công tác kế hoạch hoá nguồn thu chưa được coi trọng đúng mức. Đây là một trong những hạn chế lớn hiện nay về công tác quản lý thu ngân sách. Cơ quan quản lý thu ngân sách chưa làm tốt công tác kế hoạch hóa các nguồn thu để từ đó có biện pháp quản lý và thu đúng, thu đủ. Hạn chế này thể hiện ở chỗ chưa nắm chắc được khả năng nguồn thu trên địa bàn bao gồm các nguồn thu đã có, nguồn thu sẽ phát sinh để từ đó có biện pháp đa dạng hóa các nguồn thu. Đối với nguồn thu chính là thuế NQD do không có kế hoạch hóa nguồn thu đối với khu vực này cho nên thiếu cơ sở để xây dựng các biện pháp quản lý nhằm thu đúng, thu đủ. Ngoài ra do chưa có chiến lược phát triển nguồn thu nên buộc phải tập trung quản lý thu đối với các đơn vị doanh nghiệp, hộ kinh doanh đã có với mức thuế tương đối cao để nhằm đạt được dự toán được giao. Thứ hai, công tác xây dựng dự toán thu ngân sách chưa có cơ sở vững chắc, đôi khi còn mang yếu tố chủ quan, cảm tính. Dự toán thu là cơ sở để điều hành, quản lý thu ngân sách nhưng chưa được xây dựng một cách có khoa học, thường tham khảo số kiểm tra của Sở Tài chính tỉnh và tình hình thu ngân sách năm hiện hành, dự ước khả năng phát triển KT-XH của năm kế hoạch đề đề ra dự toán thu (tuy nhiên số kiểm tra của Sở Tài chính thường cũng dựa trên số kiểm tra của Bộ Tài chính mà thông báo cho các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Tuy nhiên trong thực tiễn xây dựng dự toán thường dựa vào yếu tố chủ quan, kinh nghiệm.Điều này cũng xuất phát từ nguyên nhân công tác kế hoạch hóa nguồn thu còn yếu, ngoài ra còn có nguyên nhân khách quan là thường bị áp đặt của cơ quan cấp trên về số thu ngân sách nhất là thu thuế từ khu vực kinh tế NQD. Thứ ba,tốc độ áp dụng các thành tựu công nghệ thông tin trong quản lý thuế còn chậm, trình độ năng lực cán bộ làm công tác tin học chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, do đó hiệu quả công tác tin học chưa cao, còn tốn nhiều thời gian công sức, ảnh hưởng đến công tác khác.Công tác thu thập, hệ thống hóa và xử lý thông tin về đối tượng nộp thuế chưa theo kịp yêu cầu phát triển, các dử liệu về lịch sử doanh nghiệp, về các mối quan hệ chủ yếu của doanh nghiệp, tình hình chấp hành pháp luật, nhân thân của doanh nghiệp chưa được cập nhật thường xuyên… Thứ tư, tình trạng thất thu thuế, sót hộ,nợ đọng thuế, dây dưa, gian lận thương mại còn phổ biến. Đây là một trong những yếu kém mà nhiều năm nay ngành thuế của thành phố vẫn chưa khắc phục được. Mặc dù tổng số thu hàng năm đều vượt so với dự toán được giao nhưng trong đó rất nhiều loại thuế còn thất thu lớn. Tình trạng thất thu về thuế được phân tích cụ thể như: + Thất thu về thuế NQD là khoản thất thất thu rất lớn từ 25 - 30%, tập trung vào các đối tượng kinh doanh nhỏ, lĩnh vực ăn uống, dịch vụ du lịch, nhà hàng khách sạn. Mặc khác, các doanh nghiệp NQD còn có thủ đoạn mua bán hóa đơn kê, khai khống chứng từ,lập hồ sơ giả để nhằm mục đích được hưởng các khoản hoàn thuế. Theo báo cáo cục thuế tỉnh Khánh Hoà trên địa bàn thành phố Nha Trang trong thời gian 2 năm (2004-2005) đã có hơn 30 doanh nghiệp lớn và hàng chục doanh nghiệp nhỏ làm thủ tục xin hoàn thuế, nhưng không đúng thực chất làm thất thoát nguồn thu gần 2 tỷ đồng. + Hiện nay, có hơn 2.800 đơn vị tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố thường xuyên sử dụng ấn chỉ thuế và hàng trăm lượt hộ kinh doanh sử dụng hóa đơn lẻ. Nhưng đơn vị nghiêm túc thực hiện chiếm tỷ lệ 82% và số đơn vị đã để mất hoá đơn, cơ quan thuế đã xử lý chiếm 5%. Điều này cho thấy nhiều đơn vị đã tìm mọi cách để trốn thuế mà ngành thuế khó có thể kiểm soát được. + Việc quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, các doanh nghiệp đã dùng nhiều thủ đoạn để giảm lợi nhuận nhằm giảm thuế phải nộp. Nhiều doanh nghiệp đã khai báo không cụ thể và chính xác,dẫn đến việc thu thuế đối với các doanh nghiệp này đạt tỷ lệ còn thấp (trong 4 năm qua có hơn 30% doanh nghiệp không đạt kế hoạch số thuế phải nộp). Đối với những doanh nghiệp hoạt động trên các địa bàn ngoài thành phố việc khai báo nộp thuế đối với các đối tượng chưa được tiến hành chưa cụ thể,dẫn đến việc nắm nguồn thu chưa chắc chắn và còn bỏ sót. + Đặc biệt là hoạt động mua bán, chuyển nhượng nhà đất, thuế thu nhập, thuế đánh vào các hoạt động xây dựng tỷ lệ thất thu còn lớn và trên thực tế không kiểm soát được. Tình trạng sót hộ là phổ biến nhất là đối với hộ kinh doanh cá thể, số lượng hộ kinh doanh Chi cục thuế quản lý thu thuế thường thấp hơn so với báo cáo của cơ quan đăng ký kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể còn dùng nhiều thủ đọan như thường xuyên thay đổi địa điểm kinh doanh, thay đổi người đứng tên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để được giảm mức thuế. Ngoài ra tình trạng gian lận thương mại, khai giảm doanh thu để trốn thuế diễn ra hết sức phức tạp đôi khi diễn ra vượt quá khả năng kiểm soát của ngành thuế. Tình trạng nợ đọng thuế còn lớn và có xu hướng ngày càng tăng, trong đó số nợ khó thu chiếm tỷ lệ không phải là nhỏ.Theo báo cáo kiểm toán ngân sách đến hết năm 2002 số nợ đọng thuế là 7,704 tỷ đồng, chiếm 6,6% trên số thuế phải thu cả năm, trong đó nợ có khả năng thu hồi là 5,276 tỷ đồng, nợ không có khả năng thu hồi là 2,518 tỷ đồng đến cuối năm 2005 là 9,328 tỷ,trong đó nợ khó đòi là 3,316 tỷ đồng [15]. Chi cục thuế cũng chưa thật sự kiên quyết trong việc tham mưu UBND Thành phố ban hành các quyết định cưỡng chế hành chính để thu hồi nợ đọng đối với các trường hợp có điều kiện trả nợ thuế nhưng dây dưa, chây ỳ không chịu trả, ngoài ra công tác phối hợp với các cơ quan có liên quan như công an,biên phòng, viện kiểm sát, UBND các xã, phường trong việc đôn đốc thu hồi nợ thuế cũng chưa tốt, chưa mang lại hiệu quả. Thứ năm, sự lãnh đạo,chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự phối hợp giữa các ban ngành với ngành thuế trong quá trình quản lý thu thuế còn hạn chế. - Việc lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, HĐND,UBND thành phố đối với công tác quản lý thu thuế có khi chưa thường xuyên, liên tục, quyết liệt, thường chỉ tập trung vào quý 1 và quý 4 để đảm bảo hoàn thành kế hoạch thu được tỉnh giao. - Lãnh đạo UBND các xã, phường chưa thật sự quan tâm đến công tác thuế, chưa phát huy được vai trò của Hội đồng tư vấn thuế ở địa phương, một số nơi còn có tư tưởng không chỉ đạo,không phối hợp thì cũng đã có ngành thuế thu, ngân sách địa phương thì nghiễm nhiên được hưởng theo tỷ lệ điều tiết đã được HĐND tỉnh quy định. - Các ban ngành chưa thực sự quan tâm phối hợp với ngành thuế trong công tác quản lý thu thuế, đôi khi còn có quan điểm cho rằng công tác quản lý thu thuế là của ngành thuế. Thực tế cho thấy ở nơi nào sự phối hợp giữa các ban ngành và ngành thuế tốt, nhịp nhàng thì nơi đó hiệu quả công tác quản lý thu thuế tăng lên đáng kể. Có thể ví dụ như công tác thu thuế hải sản, nếu các đồn biên phòng cửa khẩu phối hợp tốt với ngành thuế thì dứt khóat thu tốt (do nếu không chịu nộp thuế thì ghe nghề không thể xuất bến đi đánh bắt được vì cơ quan biên phòng không không xác nhận sổ hành trình cho tàu). Ngoài ra công tác phối hợp giữ vai trò rất quan trọng trong trường hợp chống thất thu, thu nợ (nhất là các trường hợp cưỡng chế thu hồi nợ thuế), khi quan điểm của các cơ quan bảo vệ pháp luật thống nhất cao và ủng hộ ngành thuế thì dứt khóat thu được nợ còn không thì ngược lại. Thứ sáu, công tác cải cách hành chính trong kê khai nộp thuế, hoàn thuế, sử dụng hoá đơn tuy có một số tiến bộ bước đầu, nhưng vẫn còn hạn chế, chưa đồng bộ, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho SXKD phát triển.Thủ tục hành chính trong quản lý kê khai thuế còn quá rườm rà qua nhiều thủ tục,nhiều bước. Mặt dù đã có sự chỉ đạo trong việc cải cách hành chính đối với vấn đề này nhưng qua thực tế khảo sát điều tra cho thấy sự phiền hà về thủ tục trong việc kê khai tính thuế nộp thuế còn còn rất lớn. Thứ bảy, phương pháp quản lý thu hiệu quả còn thấp Phương pháp quản lý thu thuế ở chi cục thuế thành phố Nha Trang mặc dù đã có những cải tiến nhưng vẫn thiếu khoa học,nhất là đối với các hộ kinh doanh cá thể. Qua khảo sát ở thành phố Nha Trang cho thấy, 80% (trong hơn 11 nghìn hộ kinh doanh) thực hiện phương pháp khoán thuế. Việc thực hiện khoán thuế này có nhiều hạn chế, yếu kém đó là: + Do không xác định được doanh thu của các hộ kinh doanh một cách cụ thể, chính xác (vì không điều tra cụ thể mà chỉ áng chừng nên không đảm bảo tính khoa học) nên mức thế tài định thường không phù hợp có khi quá thấp hoặc ngược lại. Nhiều trường hợp vì chạy theo chỉ tiêu giao hay thành tích mà cán bộ thuế tài định mức thuế quá cao không phù hợp với tình hình kinh doanh của các hộ. + Mức khoán thuế này thường hay tăng lên theo quý, năm (Qua khảo sát các hộ kinh doanh ở các chợ Đầm trong thành phố Nha Trang cho thấy, mức tăng thuế năm sau cao hơn năm trước thường từ 15 - 20%). Việc này chủ yếu chỉ dựa vào cảm tính mà không dựa vào khoa học và thực tiễn.Ngoài ra còn có nguyên nhân khách quan là do chỉ tiêu của tỉnh giao cao nên ngành thuế phải tìm các điều chỉnh tăng thuế, tăng thu ở những lĩnh vực, ngành nghề thu được để bù đắp nơi không thu được nhằm hoàn thành chỉ tiêu. Thứ tám, công tác ủy nhiệm thu cũng bộc lộ một số hạn chế. Thực hiện ủy nhiệm thu là công tác mới nên bước đầu không tránh khỏi những lúng túng trong việc triển khai, trong đó nhân tố cán bộ rất cần phải chú ý khắc phục. Lực lượng cán bộ làm công tác ủy nhiệm thu do các địa phương tuyển dụng và bố trí, tuy nhiên thực tế cho thấy việc bố trí này chưa phù hợp, nhiều trường hợp kiêm nhiệm không đúng quy định, một số nơi thường xuyên thay đổi dẫn đến hậu quả là: - Cán bộ thu chưa thật sự am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, quản lý hộ thiếu liên tục, không sát thực tế, việc theo dõi kết quả thu nộp tiền thuế, theo dõi nợ,báo cáo số liệu chưa chính xác, quản lý hộ mới chưa kịp thời còn để sót hộ,ngược lại có nơi có hiện tượng lạm thu đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp,công tác quản lý sử dụng, thanh toán ấn chỉ thuế còn sai sót. - Cán bộ đa phần còn trẻ nên khả năng giải thích chính sách thuế, vận động thu nợ còn hạn chế, nhiều trường hợp thiếu kiên quyết, ngại va chạm, còn nể nang do có khi đối tượng nộp thuế là người thân, hàng xóm,bà con...(trường hợp này không chi xảy ra riêng đối với cán bộ ủy nhiệm thu mà có nơi còn cả cán bộ chủ chốt của địa phương). - Tư tưởng không ổn định, có người chỉ coi đây là việc tạm thời nên ít quan tâm đến công việc, làm việc qua loa đại khái. - Nhiều địa phương còn cho rằng mức thù lao cho công tác ủy nhiệm thu còn thấp, không đủ bù đắp cho công tác thu, trang bị cơ sở vật chất chưa đầy đủ để phục vụ công tác thu. 2.3.2.2. Tồn tại, yếu kém về quản lý chi ngân sách nhà nước *Đối với quản lý chi đầu tư phát triển Thứ nhất, kế hoạch XDCB hàng năm của thành phố chưa được xây dựng một cách chặt chẽ, khoa học, nhiều trường hợp chưa đảm bảo quy định, gây lãng phí và hiệu quả đầu tư thấp,thể hiện: - Bố trí vốn đầu tư còn dài trải, phân tán, chưa định hình cơ cấu, tỷ lệ phân bổ vốn đầu tư cho từng ngành, theo lĩnh vực, còn bị động do phụ thuộc vào phân cấp vốn đầu tư của tỉnh hàng năm. Nhiều lĩnh vực rất cần thiết phải đầu tư nhưng chưa được quan tâm đúng mức như: cải thiện vệ sinh môi trường, giao thông nông thôn, điện chiếu sáng các xã ngoại thành, cải tạo mở rộng các trục giao thông chính của thành phố… - Nhiều công trình chưa hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư cũng được ghi vào kế hoạch, dẫn đến tình trạng vốn ghi kế hoạch mới ở mức khái toán nên thường phải điều chỉnh bổ sung vốn trong quá trình thực hiện gây bị động trong điều hành ngân sách thành phố. - Nhiều công trình chưa được thẩm định sự cần thiết đầu tư một cách chặt chẽ, chưa xác định chắc chắn hiệu quả KT-XH sau đầu tư của công trình đó mang lại hoặc hiệu quả sau đầu tư sẽ thấp nhưng đã được bố trí kế hoạch vốn. Nhiều khi công trình được bố trí từ ý chí chủ quan của một vài đồng chí lãnh đạo hoặc chỉ là ý kiến của đại biều hội đồng nhân dân (phản ảnh nguyện vọng của cử tri nơi đại biều đó ứng cử). - Một số dự án nhóm C không bố trí được vốn trong 2 năm theo quy định.Qua kiểm tra cho thấy một số dự án như mạng đường Phường Vĩnh nguyên, mạng đường phường Phước long, mạng đường phường Phước hòa có tổng mức đầu tư hàng trăm tỷ đồng nhưng chỉ bố trí hàng năm từ 5 đến 10 tỳ đồng cho mỗi dự án. - Một số công trình dù không thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách thành phố nhưng vì nhiều yếu tố khác nhau vẫn được bố trí ghi kế hoạch vốn như một số công trình của các ngành Công an, Quân sự, Viện kiểm sát, Tòa án… Thứ hai, chất lượng các công tác tư vấn chưa cao nhất là tư vấn lập dự án, lập thiết kế dự toán dẫn đến nhiều sai sót về khối lượng, đơn giá, định mức kinh tế kỹ thuật… kết quả là tính chính xác về tổng mức đầu tư các công trình chưa cao, bố trí vốn cũng không chính xác.Công tác thẩm định dự án, thẩm định thiết kế dự toán cũng còn nhiều sai sót. Thứ ba, tiến độ triển khai các dự án chậm, không đảm bảo hoàn thành trong năm nhất là một số dự án lớn dẫn đến chuyển tiếp, chuyển nợ nhiều, hậu quả là thành phố không hoàn thành kế hoạch đầu tư trong một số năm. Thứ tư, việc tính toán xác định giá trị chỉ định thầu của chủ đầu tư nhiều trường hợp chưa chính xác, chất lượng công tác đấu thầu chưa cao.Công tác nghiệm thu nhiều trường hợp còn sơ sài, chưa đảm bảo đầy đủ thủ tục theo quy định.Chất lượng công trình chưa được quản lý một cách chặt chẽ, nhiều công trình chất lượng kém,mau xuống cấp; chất lượng công tác tư vấn giám sát chưa cao, nhiều đơn vị tư vấn giám sát không đảm bảo có mặt tại hiện trường đúng theo quy định của hợp đồng, chất lượng giám sát kém, có trường hợp còn thông đồng với bên thi công làm cho chất lượng công trình không đảm bảo. Thứ năm, bộ máy quản lý chi đầu tư còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý.Phòng tài chính kế hoạch, cơ quan tham mưu cho UBND thành phố công tác quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng nhưng do trình độ và khả năng của đội ngũ cán bộ còn bị hạn chế nên dẫn đến hiệu quả quản lý chi đầu tư từ ngân sách còn thấp. Thứ sáu, công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư chưa thật sự chặt chẽ.Theo qui định của Bộ Tài chính, KBNN các cấp có trách nhiệm kiểm soát chi đầu tư, cùng phối hợp với ngành tài chính nhằm đảm bảo vốn đầu tư được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Tuy nhiên trong những năm qua, sự kiểm soát chi đầu tư của KBNN thành phố còn hạn chế, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: + KBNN thành phố chưa đổi mới một cách toàn diện về kiểm soát chi đầu tư. Chưa làm tốt quá trình kiểm soát trước, trong và sau khi đã đầu tư. + Chưa có qui định một cách cụ thể rạch ròi, chức năng của việc kiểm soát chi đầu tư ngân sách của các phòng chức năng ở KBNN. Điều này dẫn đến một số khâu chưa kiểm soát chặt chẽ và thiếu thống nhất,đồng bộ trong kiểm soát chi ngân sách giữa các khâu liên quan với nhau. + Nhiều trường hợp cấp phát tạm ứng hoặc thanh toán khối lượng hoàn thành chưa đảm bảo hồ sơ, thủ tục, chưa đảm bảo chế độ quy định. + Công tác cải cách thủ tục hành chính chậm, thiếu niêm yết công khai các quy định về hồ sơ, thủ tục thanh toán vốn đầu tư; thời gian thanh toán chưa đảm bảo theo quy định. KBNN thường bị các chủ đầu tư kêu ca, phàn nàn, cho rằng còn sách nhiễu, cứng nhắc, đôi khi quá máy móc trong giải quyết hồ sơ thanh toán. + Việc phối kết hợp giữa KBNN, Phòng Tài chính Kế hoạch thành phố chưa chặt chẽ.KBNN thường không đảm bảo chế độ báo cáo về kết quả thanh toán vốn đầu tư quý, năm cho cơ quan tài chính theo quy định. Thứ bảy, công tác lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình, hạng mục công trình hoàn thành của các chủ đầu tư thường chưa chậm so với quy định, chất lượng báo cáo còn nhiều sai sót, thiếu mẫu biểu theo quy định. Công tác thẩm định, phê duyệt quyết toán của cơ quan tài chính và UBND thành phố vẫn còn có trường hợp sai sót. * Đối với quản lý chi thường xuyên Những tồn tại, yếu kém trên lĩnh vực quản lý chi thường xuyên tập trung ở các vấn đề như: xây dựng định mức chi, lập dự toán chi, chấp hành dự toán và quyết toán các khoản chi thường xuyên. Thứ nhất, công tác xây dựng định mức chi - Đối với việc xây dựng định mức phân bổ ngân sách: là đơn vị hành chính thuộc tỉnh nên thành phố không có thẩm quyền ban hành các định mức phân bổ ngân sách, thẩm quyền này thuộc về HĐND và UBND tỉnh. Trong giai đoạn 2001-2005 tỉnh đã hai lần ban hành các định mức phân bổ ngân sách cho các thời kỳ ổn định ngân sách 2001-2003 và 2004-2006, các định mức này tương đối toàn diện trên các lĩnh vực để làm cơ sở xây dựng dự toán chi ngân sách cho các cấp ngân sách và các đơn vị sử dụng ngân sách.Tuy nhiên các định mức này cũng bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện: + Căn cứ để xây dựng định mức chưa đủ cơ sở khoa học vững chắc, chưa thật sự bao quát toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhiều khi vẫn còn mang tính bình quân. Đối với khối huyện, thị xã, thành phố các định mức phần lớn chỉ dựa trên tiêu chí dân số mà chưa xem xét đến điều kiện KT-XH và các yếu tố đặc thù của từng nơi, nhất là đối với thành phố Nha Trang, trung tâm hành chính-kinh tế-chính trị-văn hóa của tỉnh nhưng định mức phân bổ ngân sách cũng chi cao hơn bình quân khối huyện 1,2 là không hợp lý. Một số nội dung chi không có định mức cụ thể là chỉ quy định một tỷ lệ % trên tổng chi thường xuyên (như chi SNKT được tính 12% /chi thường xuyên, chi khác ngân sách tính 2%/tổng chi thường xuyên …) không thật sự hợp lý mà thực chất là cân đối chung toàn tỉnh rồi phân bổ lại cho cấp huyện. Định mức chi QLHC cũng mang tính bình quân giữa các lĩnh vực QLNN, các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội nghề nghiệp là chưa phù hợp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCopy of LV.THAC-SY sua lan 2.doc
  • docbiamuclucviettat.doc
Tài liệu liên quan