Luận văn Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các sơ đồ

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: VAI TRÒ CỦA THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ TỔ CHỨC HẸ THỐNG QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH CẤP TỈNH 3

1.1. Những vấn đề chung về thu ngân sách nhà nước 3

1.1.1. Khái niệm về đặc điểm thu ngân sách nhà nước 3

1.1.2. Nội dung thu ngân sách nhà nước và phân loại thu ngân sách nhà nước 4

1.1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước 5

1.2. Tổ chức quản lý thu ngân sách cấp tỉnh 7

1.2.1. Các khoản thu cố định 8

1.2.2. Các khoản thu phân định giữa các cấp ngân sách 8

1.2.3. Các khoản thu bổ sung từ ngân sách Trung ương 11

1.2.4. Mối quan hệ giữa ngân sách cấp tỉnh với các cấp ngân sách khác 12

1.3. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước 13

1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế 13

1.3.2. Hệ thống thuế ở Việt Nam và phân loại thuế 14

1.3.3. Tổ chức bộ máy thu thuế 16

Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO (VÍ DỤ Ở TỈNH VIÊNG CHĂN) 26

2.1. Những đặc điểm cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội chi phối công tác quản lý thu ngân sách nhà nước của Lào trong thời gian qua 26

2.1.1. Đặc điểm chung 26

2.1.2. Tình hình kinh tế Lào 30

2.1.3. Tình hình xã hội 31

2.2. Tổng quản về thực trạng quản lý thu ngân sách nhà nước Lào và thu ngân sách địa phương (ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn) 31

2.2.1. Tình hình thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 31

2.2.2. Thực trạng thu ngân sách ở tỉnh Viêng Chăn 33

2.2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thuế địa phương cấp huyện 53

2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy ngành thuế trong thời gian qua 48

2.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thuế Trung ương 48

2.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan thuế tỉnh Viêng Chăn 52

2.4. Những vấn đề đang đặt ra trong công tác quản lý thu ngân sách nhà nước 55

Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO (VÍ DỤ Ở TỈNH VIÊNG CHĂN) 58

3.1. Mục đích nhiệm vụ của công cuộc cải cách tăng cường quản lý thu thuế giai đoạn hiện nay 58

3.1.1. Những đòi hỏi khách quan tiếp tục công cuộc cải cách tăng cường quản lý thu thuế trong giai đoạn hiện nay của Lào 58

3.1.2. Những mục tiêu định hướng trong công cuộc cải cách tăng cường quản lý thu thuế 59

3.1.3. Nhiệm vụ chủ yếu của tăng cường quản lý thu thuế 61

3.2. Các giải pháp cụ thể của ngành thuế 61

3.2.1. Hoàn thiện chính sách thuế 61

3.2.2. Tăng cường quản lý thu thuế 64

3.2.3. Cải tiến tổ chức bộ máy thuế 78

3.2.4. Cải tiến cơ sở vật chất kỹ thuật, con người thực thi công tác hành chính thuế 82

KẾT LUẬN 85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc96 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 5,0 25.032 5,26 2 Thuế thu nhập cá nhân 1.856 0,5 1.831 0,41 1.930 0,4 3 Thu sử dụng vốn NS 1.543 0,4 1.642 0,37 1.510 0,3 4 Thuế nhà đất 342 0,085 366 0,08 300 0,063 5 Thuế môn bài 361 0,09 381 0,086 379 0,08 6 Lệ phí trước bạ 1.046 0,26 934 0,2 1.050 0,22 7 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 347 0,087 213 0,048 230 0,048 8 Thuế giá trị gia tăng 17.239 4,3 17.072 3,84 18.916 3,98 9 Thuế tiêu thụ đặc biệt 4.475 1,12 5.250 1,18 6.304 1,327 10 Thuế tài nguyên 4.552 1,14 7.487 1,7 7.558 1,59 11 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 1.973 0,49 1.776 0,4 700 0,147 12 Thuế xuất nhập khẩu 14.441 3,6 13437 3,0 16.200 3,41 13 Các loại thuế khác 1.236 0,31 158 0,04 196 0,041 Thu Thuế 63.942 72.787 80.305 16,9 Nguồn: [38]. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nguồn thu của NSNN từ khu vực kinh tế NQD có xu hướng tăng nhanh. Ngay từ năm đầu tiên áp dụng các sắc thuế (năm 1999) tổng thu thuế ở khu vực kinh tế NQD là 5.581 tỷ đồng và hàng năm tăng khoảng 10%. Giá trị tổng sản lượng của khu vực kinh tế NQD chiếm 60% và quốc doanh chiếm 40%. Giá trị tổng sản lượng của khu vực kinh tế này bằng 150% so với giá trị sản lượng của khu vực KTQD nhưng tỷ lệ thu thuế từ thành phần kinh tế này chỉ bằng 30% so với tỷ lệ thu thuế của thành phần quốc doanh. Cơ cấu thuế thu từ khu vực này được thể hiện chi tiết qua Bảng 2.5. Bảng 2.5: Cơ cấu thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh theo sắc thuế. (Đơn vị: tỷ đồng). TT Sắc thuế 1999 2000 2001 2002 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1 Thuế GTGT 2.695 48,4 2.601 45 3.090 46,3 3.414 46 2 Thuế TTĐB 33 0,6 49 0,8 61 0,9 64 0,9 3 Thuế thu nhập DN 2.433 43,6 2.664 46 3.008 46 3.454 46,8 4 Thuế tài nguyên 49 0,9 40 0,7 38 0,6 37 0,5 5 Thuế môn bài 341 6 360 6 378 6 372 5 6 Thuế xuất nhập khẩu (*) - - - - 7 Thuế khác 30 0,5 88 1,5 10 0,2 59 0,8 Tổng cộng 5.581 100 5.802 100 6.585 100 7.400 100 Nguồn: Bộ Tài chính năm 2001. Đối với khu vực kinh tế NQD, Nhà nước đã có chủ trương phát triển từ đại hội VI nhưng thực sự có sự đổi mời toàn diện và có cơ chế thông thoáng sau khi có Nghị quyết TƯ 5. Hệ thống thuế áp dụng cho các thành phần kinh tế này đã được ban hành từ những năm 90. Tuy nhiên, hệ thống thuế áp dụng cho các DNCNNQD đã có nhiều tín hiệu đáng mừng như số thuế hàng năm tăng khoảng 10%, đặc biệt năm 2001 tăng 13,5%, năm 2002 tăng 12,3%. Mức tăng của tổng số thuế nộp từ thành phần kinh tế này chưa tương xứng với tiềm năng và mức độ phát triển của nó. Cơ cấu thuế nộp cũng thể hiện sự điều tiết của Nhà nước chủ yếu thông qua thuế TNDN và thuế GTGT. Tỷ lệ thuế TNDN chiếm 46% và tỷ lệ thuế GTGT chiếm 46,2% theo như biểu đồ 2.4. Biểu đồ 2.4: Cơ cấu thu thuế của khu vực NQD năm 2001 Nguồn: [ 38 ]. Như vậy, các loại thuế trong hệ thống thuế đối với các DNNQD có vị trí và vai trò khác nhau. Mức độ tác động của từng loại thuế sẽ được xem xét và phân tích cụ thể để có những chính sách phù hợp. Hệ thống thuế áp dụng cho các DNCNNQD đã thể hiện rõ nét việc sử dụng công cụ thuế của Nhà nước đối với khu vực kinh tế này. Tuy nhiên, sử dụng công cụ thuế còn phải căn cứ vào tác động của từng loại thuế đối với xã hội, đối với Nhà nước, đối với doanh nghiệp và đối với người lao động. Về bộ máy quản lý thuế được phân cấp theo ngành dọc. Các cơ quan quản lý thuế phân bố bám sát địa bàn và hoạt động của đối tượng nộp thuế. Cán bộ thu thuế đã được đào tạo chuyên môn sâu hơn. Hệ thống thuế đã được phân cấp và ổn định nguồn cho địa phương. Chức năng của các tổ chức trong ngành ngày càng được xác định rõ ràng, đầy đủ hơn. Nhà nước tách công tác hoạch định chính sách thuế ra khỏi các ban điều hành và quản lý tài chính. Hệ thống thuế đã được tổ chức lại theo chuyên ngành, thống nhất từ trung ương đến địa phương, phân chia rõ 3 bộ phận trong ngành thuế, đảm bảo hành thu và kiểm tra việc thu thuế. Đồng thời nâng cao năng lực quản lý, điều hành của cán bộ thuế để khắc phục tình trạng quan liêu, phân tán trong chỉ đạo và quản lý. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn và năng lực quản lý cho cán bộ, công chức đã được nâng lên. Bên cạnh đó, Nhà nước đã thực hiện công cuộc hiện đại hóa công nghệ quản lý và tuyển chọn cán bộ, công chức có trình độ cao nên tỷ lệ nhân viên có trình độ từ đại học trở lên ngày càng tăng. - Về cơ chế quản lý thu thuế: Nhà nước đã từng bước áp dụng chế độ tự báo cáo và kê khai thuế. Với từng sắc thuế đã áp dụng cơ chế thu riêng, những sắc thuế về GTGT, thuế TNDN, thuế môn bài, thuế tài nguyên và thuế TTĐB do DN kê khai và cơ quan kiểm tra và quyết toán thuế theo định kỳ. Riêng đối với những hàng hóa xuất nhập khẩu thì quản lý thu thuế theo lô hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Doanh nghiệp cũng thực hiện cơ chế tự kê khai để cơ quan thuế kiểm tra và áp dụng thuế. Doanh nghiệp sẽ nộp thuế thông qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trên cơ sở các thông báo thuế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cơ chế quản lý thu thuế có khá nhiều bất cập nên cơ quan thuế đã áp dụng những quy định riêng cho mỗi sắc thuế. Thuế môn bài được thu trước hàng năm, thuế tài nguyên được thu theo lượng tài nguyên khai thác cho từng loại tài nguyên, thuế GTGT thu hàng tháng và thuế TNDN tạm thu trước quyết toán sau theo định kỳ. Những cơ chế quản lý thu thuế rất chặt chẽ nhưng không linh hoạt. Nhiều trường hợp vướng mắc trong khâu quản lý thu thuế như về hoàn thuế GTGT của doanh nghiệp bỏ vốn mua nguyên liệu dùng trong nhiều tháng, hóa đơn viết sai trong một tháng nhưng phát hiện sửa trong tháng khác v.v... Do đó, cơ quan quản lý thuế liên tục phải ban hành các quy định hướng dẫn nhằm tháo gỡ các vướng mắc nảy sinh. Chính vì vậy DN cũng mất rất nhiều thời gian để cập nhật và tuân thủ các quy định liên quan. Thực trạng này đã xảy ra nhiều năm nay và còn có nhiều quan điểm khác nhau trong các xử lý. 2.2.2.2. Tác động của hệ thống thuế đối với DNCNNQD - Tác động đối với đối tượng nộp thuế Tổng hợp tác động của hệ thống thuế đánh vào các DN cho thấy giá cả hàng hóa công nghiệp sẽ phải chịu gánh nặng thuế tương đối lớn và rất khó cạnh tranh với các hàng hóa công nghiệp của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Việc nghiên cứu tác động của các loại thuế này là rất quan trọng. Theo các phương pháp đánh giá phân tích của tác giả E.Stigliz trong cuốn "Kinh tế học công cộng" thì các công cụ thuế được xem xét tác động trên các khía cạnh về gánh nặng thuế, tác động của thuế đối với ngành, hãng sản xuất, tác động tới xã hội và người lao động như thế nào. Tuy nhiên, một hệ thống thuế tác động tới các yếu tố trên của nền kinh tế xã hội sẽ có những kết quả rất khác nhau. Chuẩn mực về hiệu quả của một hệ thống thuế chính là kết quả của các mục tiêu đạt được. Nhiều mục tiêu đặt ra sẽ không thể đạt được nếu nó nằm ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất của một quốc gia. Hệ thống thuế sẽ tác động có hiệu quả khi kích thích phát triển kinh tế và dịch chuyển đường giới hạn khả năng sản xuất cao hơn. Trong các DNNN, phần lớn vốn do Nhà nước cấp và giao vốn nên Nhà nước phải lo quản lý và thu hồi vốn của mình. Khi Nhà nước tiến hành cổ phần hóa các DNNN thì sẽ có nhiều hơn các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh cùng bị áp dụng một hệ thống thuế thống nhất. Như vậy, tác động của hệ thống thuế đối với các DNCNNQD sẽ rất mạnh mẽ. Phân tích theo các phương pháp kinh tế học hiện đại thì hệ thống thuế áp dụng cho các DNCNNQD có những tác động chủ yếu như sau: Gánh nặng thuế khi áp dụng hệ thống thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa thể xác định chính xác. Với chính sách phát triển kinh tế như hiện nay thì phần lớn các DNQD hoạt động trong những ngành độc quyền. khi Nhà nước đánh thuế vào ngành này tất yếu giá thành sẽ tăng lên và người tiêu dùng chịu gánh nặng thuế. Chẳng hạn như ngành điện, ngành viễn thông v.v... Do đó nó sẽ đẩy chi phí sản xuất và tiêu dùng lên cao hơn các nước khác trong khu vực. Ngược lại, phần lớn các DNCNNQD hoạt động trong các ngành cạnh tranh hay nhóm độc quyền nên gánh nặng thuế phụ thuộc vào độ co giãn cung hay cầu của ngành hàng đó. Thực tế, các DN sẽ chịu gánh nặng thuế khi giá cả hàng hóa không tăng lên và ngược lại người tiêu dùng sẽ phải chịu gánh nặng thuế khi phải mua với giá hàng hóa cao hơn. Chính vì vậy, nhiều DN sẽ bán hàng với hai mức giá: Giá có hóa đơn và giá không có hóa đơn nhằm hạn chế tác dụng của hệ thống thuế đánh vào hàng hóa và người sản xuất như họ. Nếu Nhà nước không phân tích và xem xét kỹ tác động này thì tất yếu dẫn đến hiện tượng sử dụng công cụ thuế một cách tùy tiện. Các mức thuế suất đặt ra còn thiếu căn cứ khoa học dẫn đến tình trạng sai và sửa nhiều. Có một thực tế là nhiều nội dung và chế độ thuế ở nước ta không ổn định gây nhiều khó khăn cho cả DN trong nước và DN nước ngoài. Mặt khác, hệ thống thuế đánh vào hàng hóa và đánh vào người sản xuất đã tạo ra môi trường kinh doanh có chi phí quá cao so với các nước khác trong khu vực. Hệ thống thuế đánh vào bất kỳ loại hàng hóa hay giai đoạn sản xuất nào đều có ảnh hưởng tới cả nền kinh tế do sự liên kết đa ngành. Do đó, tác động của hệ thống thuế áp dụng cho các DNNQD phải được giải quyết trên cơ sở bài toán kinh tế liên ngành nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của nó. Nếu xem xét về mặt định tính thì gánh nặng thuế hiện nay ở nước ta do các DN phải chịu khi thuế tăng mà giá cả hàng hóa không tăng, và ngược lại. Sự biến động về chỉ số giá ở nước ta trong 4 năm gần đây có biến động ít như đồ thị 2.1. Đồ thị 2.1: Biến động chỉ số giá trong giai đoạn 1999 - 2002 Nguồn: [38]. Như vậy, khi Nhà nước tăng thuế hay đánh thuế trong những giai đoạn nền kinh tế đang chững lại, giá cả hàng hóa không tăng thì mọi gánh nặng thuế sẽ do các nhà sản xuất chịu, khi đó, các doanh nghiệp sẽ không tiếp tục đầu tư hay mở rộng sản xuất và nền kinh tế không phục hồi được. Chính vì vậy, các nước tư bản phát triển luôn luôn sử dụng thuế như là công cụ điều tiết vĩ mô nhằm kích thích nền kinh tế phát triển. Thậm chí, trong những chiến dịch tranh cử tổng thống, các ứng cử viên luôn sử dụng chiêu bài cam kết dùng công cụ thuế này để thuyết minh trước dân chúng như giảm thuế hay tăng thuế v.v... Phần lớn tác động của hệ thống thuế đối với một bộ phận dân cư hay khu vực nào đó còn tùy thuộc vào từng sắc thuế. Tuy nhiên, trên phạm vi nền kinh tế, các DNCNNQD chịu tác nhân thuế thường tính toán trên cơ sở khoản thuế hữu dụng - tức là khoản thuế giá trị thực tế của hàng hóa hay người nộp thuế phải chịu cho toàn bộ các sắc thuế đã áp dụng. Hay nói cách khác, đó là hàm lượng giá trị thuế thực tế trong giá thành của hàng hóa. Để phân tích tính chính xác tác động này, đòi hỏi phải có những con số thống kê phù hợp. ở nước ta, các dữ liệu thống kê chưa chính xác và đầy đủ cho việc phân tích và nghiên cứu các ảnh hưởng trên. Nếu dựa trên sự phân tích về gánh nặng thuế như ở trên sẽ lý giải được nghịch lý tỷ lệ thuế thu từ khu vực kinh tế NQD (6,9%) rất thấp trong GDP của khu vực này nhưng rõ ràng trên thực tế tỷ lệ thuế nói chung so với GDP của cả nền kinh tế lại khá cao (16,9%). Thực chất, đây chỉ là "bề nổi của tảng băng chìm" mà các doanh nghiệp phải gánh chịu. Nếu chỉ xét về những số liệu thống kê đơn thuần như vậy sẽ lầm tưởng gánh nặng thuế của DNNQD là rất thấp. Trên thực tế, mọi hàng hóa do các doanh nghiệp sản xuất ra lại có giá thành rất cao so với các nước khác. Vậy gánh nặng thuế sẽ biểu hiện bằng toàn bộ khoản thuế thực tế kết tinh trong hàng hóa mà doanh nghiệp tiến hành kinh doanh ở một môi trường nhất định. ở Việt Nam, các DNCNNQD nói riêng và doanh nghiệp kinh doanh nói chung có gánh nặng thuế trực tiếp có thể rất thấp nhưng gánh nặng thuế nói chung lại rất cao do môi trường kinh doanh khó khăn và giá thành mọi loại hàng hóa dịch vụ khá cao. Do đó, nếu không tính được ảnh hưởng này sẽ rất khó định ra được các chính sách thuế phù hợp. Mặt khác, tác động của hệ thống thuế đối với các DNCNNQD cũng gây nên sự méo mó - đó là "sự mất trắng". Một hệ thống đánh thuế vào sản xuất sẽ có hiện tượng phần thu thuế của Nhà nước nhỏ hơn phần lợi nhuận DN hay cá nhân sẽ nhận được. Như vậy hệ thống thuế đã gây méo mó và phần tổn thất này là sự mất trắng của hệ thống thuế. Đặc biệt, trong điều kiện mở cửa và xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thì khả năng xảy ra sự mất trắng của hệ thống thuế nước ta càng lớn. Trên thị trường có quá nhiều loại hàng ngoại thay thế hàng nội thì khi hàng hóa của các DN trong nước sản xuất ra có giá cao hơn sẽ bị hàng hóa ngoại cạnh tranh. Đánh thuế vào sản xuất trong nước thì Nhà nước không thể thu thuế với giá trị lớn hơn những tổn thất của DN bị mất. Thậm chí, khi thuế suất càng cao thì nạn buôn lậu càng lớn. Nhà nước không được và DN cũng không được lợi gì nên hiện tượng mất trắng thuế là rất lớn. Nhà nước sẽ không thu được số thuế tương ứng với khoản tổn thất của các DN kinh doanh, trong khi đó người tiêu dùng cũng không được lợi gì khi Nhà nước đánh thuế. Nhà nước ta đã và đang hạn chế tình trạng kinh doanh trốn lậu thuế và nâng cao hiệu quả của hệ thống thuế. Tình trạng nảy sinh sự mất trắng của hệ thống thuế ở nước ta lâu nay vẫn bị xem nhẹ thậm chí có thể nói là không được xem xét một cách khoa học. Do đó, hầu như các chi phí kinh doanh ở nước ta là cao hơn các nước khác và không khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, còn có thể phân tích tác động của hệ thống thuế đến đường khả năng sản xuất của nước ta. Trong năm 2001, giá trị tổng sản phẩm quốc nội nước ta khoảng 30 tỷ USD nhưng trên thực tế đường khả thi sản xuất sẽ không thể đạt được mức sản xuất như đường giới hạn khả năng sản xuất do hệ thống thuế gây ra (Đồ thị 2.2). 30 tỷ USD Tư liệu sản xuất Đường khả năng sản xuất Đường khả thi sản xuất Tư liệu tiêu dùng 30 tỷ USD Đồ thị 2.2: Tác động của thuế đối với đường giới hạn khả năng sản xuất Nguồn: [38]. Nếu giới hạn của đường khả thi sản xuất của nước ta ở trong mức 30 tỷ USD thì đường khả năng sản xuất của cả xã hội sẽ cao hơn mức đó. Mức độ ảnh hưởng này chưa được tính toán một cách khoa học, nên dẫn đến việc áp đặt định tính khi xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế và hoạch định chính sách thuế. Do đó, các chỉ tiêu kinh tế luôn thiếu chính xác và các chính sách thuế luôn bị động và thay đổi liên tục. Nếu căn cứ vào tác động của hệ thống thuế đối với đường giới hạn khả năng sản xuất và đường giới hạn khả thi sản xuất sẽ thấy ảnh hưởng của thuế là rất lớn. Giả định, không có hệ thống thuế thì đường giới hạn khả năng sản xuất của nước ta sẽ cao hơn 30 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, sự phân tích ảnh hưởng này sẽ rất khó khăn khi không có những dữ liệu và phương pháp tính toán chính xác. Thực tế cho thấy nước ta còn yếu về khả năng phân tích kinh tế và nghiên cứu kinh tế mang tính định lượng trong lĩnh vực thuế. Mỗi hệ thống thuế áp dụng phải có những điều kiện cần và đủ nên khi áp dụng hệ thống thuế thiếu sự phân tích sẽ khó lường hết hậu quả của nó. Hệ thống thuế còn ảnh hưởng đến DNCNNQD thông qua tác động nguồn lao động. Theo số liệu của Bộ Lao động thương binh và Xã hội thì tổng số lao động trong lĩnh vực ngoài quốc doanh rất lớn và tăng nhanh. Mức cung lao động ở nước ta là rất lớn, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm rất cao. Nếu Nhà nước áp dụng hệ thống thuế đánh vào sản xuất hay người lao động sẽ ảnh hưởng đến mức cung và cầu lao động. Lực lượng lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ ảnh hưởng nhiều nhất bởi tỷ lệ lao động trong khu vực này chiếm khoảng 90% lực lượng lao động toàn xã hội. Như vậy, hệ thống thuế áp dụng cho các DNCNNQD sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến lực lượng lao động này. Chính vì vậy, hệ thống thuế sử dụng ở đây phải bao hàm cả thuế thu nhập cá nhân và bảo hiểm xã hội. Ngoài những tác động của các loại thuế trong hệ thống thuế đánh vào sản xuất, còn phải xem xét thuế đánh vào người lao động. Thuế đánh vào người sử dụng lao động hay người lao động đều có những ảnh hưởng nhất định. Đối với người lao động sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc làm và thu nhập. Trong những năm qua tỷ lệ thiếu việc làm cũng phản ánh một phần nào sự ảnh hưởng của hệ thống thuế ở nước ta. Tỷ lệ thất nghiệp và hệ thống thuế có mối quan hệ thông qua tác động của cung và cầu lao động cho DN. Đánh thuế đối với "đầu vào" hay "đầu ra" đối với DN đều gây ra những ảnh hưởng. Thông thường, hậu quả của hệ thống thuế đánh vào DN và người lao động sẽ ảnh hưởng đến cung cầu về lao động và tạo ra sự thay đổi về tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp ở nước ta trong những năm qua (Xem bảng 2.6). Bảng 2.6: Tổng số lao động và tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm trong nền kinh tế TT Năm Tiêu chí 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1 Tổng số người lao động (ngàn người) Khu vực ngoài quốc doanh 30.623 31.226 31.849 32.542 33.200 - Khu vực Nhà nước 3.137 3.266 3.383 3.433 3.501 - 2 Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm (%) Thành thị 5,88 6,01 6,35 7,4 6,44 6,26 Nông thôn 27,89 26,86 28,87 26,51 26,14 25,63 Nguồn: [35, số 116, trang 6]. Khi phân tích hệ thống thuế áp dụng cho các DNCNNQD Nhà nước cũng không thể không xem xét đến tác động của nó tới người lao động. Do đó, việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với các DNCNNQD cũng ảnh hưởng đến người lao động và lực lượng lao động. Nếu phân tích theo phương pháp kinh tế học tiên tiến thì mức độ đóng bảo hiểm xã hội cũng ảnh hưởng lớn đến cung và cầu lao động. Thuế thu của người lao động hay đánh vào người sản xuất đều có tác động như nhau nếu chi phí đó được tính như chi phí về nhân công. Nước ta chưa thu "thuế việc làm" nhưng người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội là 15% tổng quỹ lương do người sử dụng lao động phải nộp và 5% tổng quỹ lương do người lao động phải nộp. Về cơ bản sẽ là 20% tổng quỹ lương phải chi nộp cho Nhà nước. Như vậy, chi phí tiền lương sẽ tăng cao hơn và mức cân bằng cung cầu sẽ thay đổi. Mức lương sẽ tác động vào mức cầu và cung lao động. Tỷ lệ thất nghiệp và không có việc làm ở mức cao như nước ta tất yếu có tác động của hệ thống thuế đánh vào DN và người lao động. Tuy nhiên, hiện nay sự phân tích tính chính xác về sự ảnh hưởng này còn kém. Hệ thống thuế áp dụng cho các DNCNNQD hiện nay có tác động rất mạnh mẽ đến sự phát triển của các doanh nghiệp. Từng loại thuế có những tác động khác nhau đối với doanh nghiệp, tuy nhiên hai loại thuế có tác động mạnh nhất đến DNCNNQD là thuế TNDN và thuế GTGT. Số thu của hai loại thuế này từ DNCNNQD chiếm hơn 90% mức đóng góp của họ. Do đó, xem xét tỉ mỉ hai loại thuế này sẽ phản ánh được công cuộc cải cách thuế giai đoạn 1991 - 2001, đồng thời rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho việc cải cách thuế tiếp theo. Thuế TNDN của DNCNNQD có mức đóng góp vào ngân sách rất cao, chiếm hơn 45%. Thuế TNDN hiện nay có sự mất trắng thể hiện qua tình trạng Nhà nước bị thất thu vì thuế suất cao nên DN né tránh sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng không chịu nổi thuế TNDN. Mặt khác, thuế TNDN cũng tác động đến quyền lợi trực tiếp của DN nên họ luôn tìm cách trốn thuế. Doanh nghiệp thường đưa giá thành cao hơn thực tế để giảm thuế TNDN. Đồng thời, thuế TNDN luôn có độ trễ trong thu thuế rất lớn do cả cơ quan thuế và người nộp thuế khó thống nhất quan điểm về xác định số thuế phải nộp. Thuế TNDN ảnh hưởng đến quyết định đầu tư sản xuất kinh doanh của DNCNNQD rất mạnh. Việc miễn giảm thuế TNDN luôn tạo cho DNCNNQD những ưu ái trong đầu tư. Nhà nước ta đã ban hành luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài qua việc vận dụng cơ chế ưu đãi về thuế. Tuy nhiên, hiện nay Nhà nước chưa thể kiểm soát được tác động của thuế TNDN đối với gánh nặng thuế cho DN hay người tiêu dùng mặc dù về bản chất là thuế đánh vào người sản xuất. Để luật thuế này thực sự trở thành thuế trực thu Nhà nước cần tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của mình đối với nền kinh tế thị trường, đặc biệt là thông qua tác động vào cung và cầu của hàng hóa. Tình trạng phổ biến hiện nay là người tiêu dùng vẫn phải chịu gánh nặng thuế nhiều hơn DN khi hiệp hội tiêu dùng của nước ta hoạt động chưa hiệu quả. Quyền lợi của người tiêu dùng bị vi phạm tràn lan, lời cam kết bảo hành và dịch vụ kèm theo không được DN thực hiện nghiêm túc. Như vậy, xét về tác động của thuế TNDN đối với DNCNNQD hiện nay còn nhiều bất cập chưa được Nhà nước quan tâm thích đáng do đó hạn chế rất nhiều hiệu quả của luật thuế. Đối với các loại thuế gián thu như thuế GTGT, thuế TTĐB hiện nay cũng có nhiều tác động đến DN. Thuế GTGT có tác động lớn nhất đến DNCNNQD với mức đóng góp hơn 46%. Vì vậy, nếu thu thuế GTGT có độ trễ lớn sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến thu NSNN đối với khu vực kinh tế này. Nhà nước đã phải quy định chặt chẽ việc báo cáo và nộp thuế GTGT theo từng tháng. Thu thuế GTGT cũng ảnh hưởng lớn đến người tiêu dùng và doanh nghiệp. Khi chuyển đổi sang hệ thống thuế mới nhiều doanh nghiệp có mức đóng góp ít hơn nhưng cũng có nhiều DNCNNQD sẽ chịu thuế nhiều hơn thuế doanh thu trước đây. DNCNNQD sẽ chịu thuế hay người tiêu dùng chịu thuế sẽ tùy thuộc vào giá cả hàng hóa sau khi đánh thuế. Mặc dù về bản chất thuế GTGT là đánh vào người tiêu dùng nhưng thực chất người tiêu dùng và người sản xuất đấu tranh với nhau dựa trên quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa được xác lập trong giao dịch. Khi giá cả hàng hóa tăng cao thì người tiêu dùng mới phải chịu thuế. Nếu chỉ số giả cả bình quân tăng quá thấp thì doanh nghiệp phải chịu thuế nhiều hơn. Thậm chí, trong nhiều trường hợp giá cả tăng lên mà người tiêu dùng không chấp nhận mua thì các doanh nghiệp đã đưa ra tiêu thức bán hàng không xuất hóa đơn hoặc viết hóa đơn thấp hơn giá trị thực nhằm né tránh gánh nặng thuế này. Thuế GTGT cũng gây ra sự mất trắng rất lớn khi khả năng người tiêu dùng hạn chế chi tiêu hay tìm mua hàng lậu thuế giá rẻ. Trong những trường hợp này, Nhà nước thất thu thuế mà DN cũng không thu được lợi nên Nhà nước cần phải có những biện pháp tăng cường công tác quản lý thuế trên nhiều mặt. Mặc dù, những năm gần đây nạn gian lận hoàn thuế GTGT rất lớn đã thất thoát của Nhà nước hàng trăm tỷ đồng nhưng hiệu quả của thuế GTGT vẫn đáng được quan tâm. Sự sai sót không phải là nguyên lý gây ra sự mất trắng thuế mà do chính sách thuế và cơ chế quản lý do đó hạn chế về thuế GTGT ở nước ta lại xoay quanh vấn đề gian lận hoàn thuế. Trên thực tế, việc gian lận xảy ra chủ yếu nảy sinh trong buôn bán hàng nông, hải sản xuất khẩu qua đường biên giới. Cho nên, không thể coi đây là hạn chế về sự mất trắng của thuế GTGT. Đối với tác dụng của thuế GTGT đối với DNCNNQD hiện nay là khá mạnh mẽ. Phần lớn các DN này hoạt động trong các ngành chế biến phục vụ tiêu dùng nên bị ảnh hưởng nhiều. Trong giai đoạn vừa qua giá cả hàng hóa từng chủng loại mặt hàng có khác nhau nên để phân định gánh nặng thuế của từng loại mặt hàng phải lập đề án cụ thể. Để thấy rõ hơn tác động của thuế GTGT, có thể phân tích kỹ hơn về gánh nặng thuế khi áp dụng luật thuế GTGT trong năm 2000. Năm 1999, luật thuế được ban hành và có hiệu lực nhưng ảnh hưởng của nó diễn ra rõ ràng nhất vào năm 2000. Rất khó đánh giá khi hiệu quả của luật thuế còn chưa phát huy và số liệu thống kế về thu thuế còn phải bù trừ với các khoản thuế nợ đọng của hệ thống thuế cũ. Tác động của thuế GTGT đối với nền kinh tế nước ta nói chung và DNNQD là rất lớn. Đến này 2000, số liệu phân tích về gánh nặng thuế của một số nhóm hàng cụ thể theo cách đánh thuế GTGT theo biểu đồ 2.5. Nhóm mặt hàng Tỷ lệ thuế (%) Biểu đồ 2.5: Người tiêu dùng và DN chia sẻ "gánh nặng thuế" Nếu sự biến động giá cả sau khi áp dụng thuế GTGT chủ yếu do thuế gây nên: Cả người tiêu dùng và doanh nghiệp đều chịu gánh nặng thuế. Nguồn: [39]. Như vậy, nếu xét riêng tác động của thuế GTGT trong giai đoạn này thì thấy tính chất thuế đã có sự thay đổi nền có nhiều DN còn lúng túng trong khai báo thuế gây tâm lý lo lắng và dè dặt. Tuy nhiên, Bộ Tài chính đã có những giải pháp tình thế giải quyết cho những doanh nghiệp gặp khó khăn khi tính theo luật thuế mới. Tuy nhiên, để có những đánh giá xác đáng cần phân tích tác động của hệ thống thuế đối với đối tượng của thuế đó là đối tượng chịu thuế. - Tác động đối với đối tượng chịu thuế. Đối tượng chịu thuế được các DN đặc biệt chú trọng vì nó quyết định các loại thuế mà DN phải nộp khi kinh doanh các mặt hàng hay lĩnh vực nào đó. Mỗi sắc thuế đều quy định rất rõ các đối tượng chịu thuế và các đối tượng nộp thuế. Các đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế chịu sự điều tiết của sắc thuế sẽ là phạm vi điều chỉnh cơ bản của mỗi sắc thuế. Nhiều DN nộp thuế có thể nhầm vai trò của họ khi tham gia nộp thuế trên thực tế thì tùy vào từng loại thuế để phân định chính xác vai trò này. Trường hợp, DN tham gia những lĩnh vực hay mặt hàng chịu thuế sẽ chịu sự điều tiết của thuế về lĩnh vực hay hàng hóa đó, thường là những loại thuế gián thu. Riêng thuế TNDN là thuế trực thu, đánh trực tiếp vào DN. Xét trên phương diện kinh doanh, DN luôn coi các khoản thuế phải nộp như những khoản chi phí thuế để tính vào giá thành của đối tượng chịu thuế. Tác động của hệ thống thuế đối với DNCNNQD thực tế là tác động mạnh đến đối tượng chịu thuế. Do đó, dù DNCNNQD tiến hành kinh doanh trên bất kỳ lĩnh vực nào nói chung đều b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV chinh thuc.doc
  • docBia - ThS.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan