Luận văn Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

MỞ ĐẦU 1

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu 1

2. Mục đích nghiên cứu 2

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 2

4. Phương pháp nghiên cứu 3

5. Kết cấu của luận văn 3

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP 4

1.1. Tổng quan về xếp hạng doanh nghiệp đối với các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường 4

1.1.1. Khái niệm xếp hạng doanh nghiệp 4

1.1.1.1. Xếp hạng doanh nghiệp 4

1.1.1.2. Mục tiêu của việc xếp hạng doanh nghiệp 5

1.1.1.3. Yêu cầu của việc xếp hạng doanh nghiệp 6

1.1.1.4. Chủ thể trong xếp hạng doanh nghiệp 7

1.1.1.5. Đối tượng xếp hạng doanh nghiệp 7

1.1.2. Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp 7

1.1.2.1. Đối với tổ chức tín dụng 7

1.1.2.2. Đối với các doanh nghiệp 8

1.1.2.3. Đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán 9

1.1.2.4. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước 10

1.1.2.5. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài 10

1.2. Một số nội dung cơ bản của xếp hạng doanh nghiệp 11

1.2.1. Các phương pháp dùng trong xếp hạng doanh nghiệp 11

1.2.1.1.Phương pháp phân tích thống kê 11

1.2.1.2. Phương pháp chuyên gia 11

1.2.1.3. Phương pháp chi tiết 12

1.2.1.4. Phương pháp logic biện chứng 12

1.2.1.5. Phương pháp khảo sát thực tế 12

1.2.2. Trình tự xếp hạng doanh nghiệp 12

1.2.2.1. Thu thập thông tin 12

1.2.2.2. Xác định ngành kinh tế và quy mô của doanh nghiệp 13

1.2.2.3. Phân tích các chỉ tiêu và cho điểm 14

1.2.2.4. Đưa ra kết quả xếp hạng 14

1.2.2.5. Phê chuẩn và công bố kết quả xếp hạng 14

1.2.3. Nguồn thông tin sử dụng trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp 14

1.2.3.1. Thông tin tài chính của doanh nghiệp 14

1.2.3.2. Thông tin phi tài chính 14

1.2.4. Hệ thống chỉ tiêu dùng để xếp hạng doanh nghiệp 15

1.2.4.1. Chỉ tiêu tài chính 15

1.2.4.2. Chỉ tiêu phi tài chính 19

1.3. Các tiêu chí đánh giá xếp hạng doanh nghiệp 21

1.3.1. Quan niệm về xếp hạng doanh nghiệp 21

1.3.2. Các tiêu chí đánh giá xếp hạng doanh nghiệp 22

1.3.2.1. Nguồn thông tin 22

1.3.2.2. Quy trình xếp hạng 22

1.3.2.3. Lựa chọn các chỉ tiêu phân tích 23

1.3.2.4. Xác định ngành kinh tế và quy mô doanh nghiệp 25

1.4. Kinh nghiệm của một số tổ chức xếp hạng doanh nghiệp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 26

1.4.1. Kinh nghiệm của một số tổ chức xếp hạng doanh nghiệp 26

1.4.1.1. Phương pháp xếp hạng tín dụng của công ty KPMG 26

1.4.1.2. Cách xếp hạng của Moody's và Standar &Poor 31

1.4.1.3. Qui trình, nội dung, phương pháp xếp hạng doanh nghiệp tại NHTM NN 33

1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 35

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 37

2.1. Khái quát về CIC (Profile) 37

2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của CIC 37

2.1.1.1. Chức năng của CIC 37

2.1.1.2. Nhiệm vụ của CIC 37

2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ các phòng của CIC 38

2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức 38

2.1.2.2. Nhiệm vụ của các phòng ban: 38

e) Phòng Tổng hợp 42

2.2. So sánh giữa CIC và các cơ quan xếp hạng doanh nghiệp khác 44

2.2.1. Đặc điểm chung 44

2.2.2. Sự khác nhau 44

2.3. Thực trạng về hoạt động xếp hạng doanh nghiệp tại CIC 47

2.3.1. Phương pháp áp dụng 47

2.3.2. Hệ thống chỉ tiêu xếp hạng 47

2.3.3. Xác định ngành kinh tế và quy mô hoạt động 48

2.3.3.1. Xác định ngành kinh tế 48

2.3.3.2. Xác định doanh nghiệp theo quy mô hoạt động 49

2.3.4. Các chỉ số xếp hạng 51

2.3.5. Đưa ra kết quả xếp hạng 56

2.3.6. Khoảng các xếp hạng 57

2.4. Kết quả đạt được tại CIC thời gian qua 58

2.4.1. Về nguồn thu thập thông tin 58

2.4.2. Về phương pháp phân tích 58

2.4.3. Quy trình phân tích 59

2.4.4. Về hệ thống chỉ tiêu 59

2.4.5. Khả năng đáp ứng thông tin 59

2.4.6. Nâng cao uy tín CIC 61

2.5. Tồn tại và nguyên nhân 61

2.5.1. Về con người và mô hình tổ chức 61

2.5.2. Nguồn thông tin đầu vào 61

2.5.3. Phân ngành kinh tế 62

2.5.4. Phương pháp phân tích 62

2.5.5. Hệ thống chỉ tiêu phân tích 63

2.5.6. Hệ thống chấm điểm 64

2.5.7. Khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tác 64

2.5.8. Nhu cầu sử dụng thông tin 64

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 66

XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN TÍN DỤNG 66

3.1. Định hướng hoạt động xếp hạng doanh nghiệp 66

3.1.1. Định hướng của ngành Ngân hàng giai đoạn 2006-2010 66

3.1.2. Định hướng của CIC giai đoạn 2008 đến 2012, tầm nhìn đến năm 2020 67

3.1.2.1. Nâng cao năng lực hoạt động của CIC 67

3.1.2.2. Định hướng hoạt động xếp hạng doanh nghiệp 69

3.2. Giải pháp hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại CIC 70

3.2.1. Giải pháp hỗ trợ hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại CIC 70

3.2.1.1. Hoàn chỉnh mô hình tổ chức 70

3.2.1.2. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tin học 70

3.2.1.3. Tăng cường tuyên truyền, quảng bá sản phẩm xếp hạng doanh nghiệp. 71

3.2.1.4. Đa dạng hoá sản phẩm thông tin và kênh cung cấp thông tin 72

3.2.2. Giải pháp về hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại CIC 73

3.2.2.1. Hoàn thiện thu thập và xử lý nguồn thông tin đầu vào 73

3.2.2.2. Điều chỉnh lại kỹ thuật xếp hạng doanh nghiệp 76

3.3. Một số đề xuất kiến nghị 90

3.3.1. Kiến nghị với CIC 90

3.3.1.1. Mô hình tổ chức 90

3.3.1.2. Về con người 90

3.3.1.3. Xác định giá của sản phẩm xếp hạng doanh nghiệp 91

3.3.1.4. Về thu thập thông tin 91

3.3.1.5. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học 92

3.3.2. Kiến nghị với NHTM 92

3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 93

3.3.4. Kiến nghị với Chính phủ, Nhà nước 93

 

docx122 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2890 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình hình về vốn, tài sản, lao động... cũng khác nhau và có sự cách biệt tương đối rõ nét. Chính vì vậy, phân loại doanh nghiệp theo qui mô là việc làm không thể thiếu được trước khi tính toán các chỉ tiêu tài chính để có thể đi đến xếp hạng doanh nghiệp. Hay nói cách khác, việc xếp hạng doanh nghiệp là việc so sánh doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác để đưa ra sự phân định thứ hạng chúng về tín dụng, việc so sánh đó phải được đặt trong điều kiện quy mô cùng loại. 2.3.4. Các chỉ số xếp hạng Phương pháp xếp hạng doanh nghiệp được áp dụng tại Trung tâm Thông tin tín dụng dựa trên hai phương pháp xếp hạng và phương pháp so sánh. Nguồn số liệu để phân tích chủ yếu nằm trong bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình dư nợ tại ngân hàng và một số thông tin phi tài chính khác. Một là, các chỉ số tài chính. Thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính, người đánh giá có thể xác định tình hình tài chính của doanh nghiệp ở các thời điểm khác nhau. Đồng thời, các chỉ tiêu tài chính cũng tạo điều kiện cho việc so sánh khả năng của doanh nghiệp giữa các thời kỳ và so sánh với các doanh nghiệp khác hay giá trị trung bình của ngành. Các chỉ số tài chính bao gồm bốn nhóm (thể hiện cụ thể ở Bảng 2.02- Bảng chỉ số tài chính áp dụng tại CIC). - Nhóm 1: các chỉ tiêu thanh khoản; - Nhóm 2: các chỉ tiêu hoạt động; - Nhóm 3: các chỉ tiêu về cân nợ; - Nhóm 4: các chỉ tiêu về thu nhập. Bảng 2.03 – Bảng các chỉ số tài chính áp dụng tại CIC STT Chỉ số Nội dung Chỉ tiêu thanh khoản 1 Khả năng thanh toán ngắn hạn Tài sản ngắn hạn + Đầu tư tài chính ngắn hạn / Nợ ngắn hạn 2 Khả năng thanh toán nhanh Tài sản có tính lỏng cao / Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu hoạt động 3 Vòng quay hàng tồn kho Giá vốn hàng bán / Hàng tồn kho bỡnh quõn đầu kỳ 4 Kỳ thu tiền bình quân (Giá trị các khoản thu bình quân / Doanh thu thuần) * 365 5 Doanh thu thuần / Tổng tài sản Doanh thu thuần / Tổng tài sản bình quân đầu kỳ và cuối kỳ Chỉ tiêu cân nợ 6 Nợ phải trả / Tổng tài sản Nợ phải trả / Tổng tài sản 7 Nợ phải trả / Nguồn vốn chủ sở hữu Nợ phải trả / Nguồn vốn chủ sở hữu 8 Nợ khụng đủ tiêu chuẩn / Tổng dư nợ NH Nợ quỏ hạn / Tổng dư nợ NH 9 Tổng dư nợ ngân hàng so với NVCSH Tổng dư nợ / nguồn vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu thu nhập 10 Tổng thu nhập trước thuế / Doanh thu thuần Tổng thu nhập trước thuế / Doanh thu thuần 11 Tổng thu nhập trước thuế / Tổng tài sản Tổng thu nhập trước thuế / Tổng tài sản 12 Tổng thu nhập trước thuế / Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng thu nhập trước thuế / Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân 13 Khả năng thanh toán lãi vay (Tổng lợi nhuận trước thuế + Lãi vay) / Lãi vay (Nguồn tham khảo từ Đề án xếp hạng doanh nghiệp năm 2001) Nhóm 1: Các chỉ tiêu thanh khoản Các chỉ tiêu thanh khoản đo lường khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp. Có hai tỷ số thanh khoản quan trọng là tỷ số khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán nhanh. Đây là một cách để xem xét mức độ bảo vệ người cho vay trong trường hợp cho doanh nghiệp vay để tài trợ vốn lưu động. Chỉ số này cho ta thấy mối liên hệ giữa tài sản có ngắn hạn đối với tài sản nợ ngắn hạn trong cố gắng để chỉ ra sự an toàn của những nhà tài trợ ngắn hạn. Có thể đưa ra các nhận định sơ bộ về các giá trị của tỷ số này như sau: - Tỷ lệ này lớn hơn 1 cho biết một doanh nghiệp có đủ tài sản lưu động để đáp ứng những nghĩa vụ nợ ngắn hạn. Trên quan điểm của những người cho vay, tỷ lệ này càng lớn thì khả năng an toàn của nhà cung cấp tín dụng ngắn hạn càng cao. - Tỷ lệ 2:1 là tỷ lệ tương đối tốt cho hầu hết các doanh nghiệp vì tỷ lệ này cho biết tài sản có ngắn hạn đáp ứng ngay được các khoản nợ ngắn hạn và còn cho phép doanh nghiệp tiếp tục sử dụng tài sản có để kinh doanh. Tuy nhiên, nhược điểm của tỷ lệ này, nó đánh giá doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại (tức thời) mà không tính đến tương lai, trong khi các nhà cho vay thường hướng tới tương lai của doanh nghiệp. - Tỷ lệ nhỏ hơn 1 cho biết tài sản có ngắn hạn không đủ để thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn, nó cho biết doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong lĩnh vực thanh toán. Đối với nhà cung cấp tín dụng ngắn hạn thì đây là dấu hiệu không tốt ảnh hưởng đến độ an toàn của các khoản cho vay. Tuy nhiên sự cấu thành và chất lượng của tài sản lưu động là một nhân tố quan trọng trong phân tích tính thanh khoản của doanh nghiệp . Trên một khía cạnh khác, nếu tỷ lệ này cao thì cũng có thể xảy ra trường hợp hoặc là quỹ tiền mặt tồn đọng nhiều, hoặc mức độ hàng tồn kho đã trở nên quá tải so với nhu cầu và việc quản lý tín dụng kém dẫn tới các khoản phải thu lớn. Hơn nữa, doanh nghiệp có thể không tận dụng tốt khoản tiền đã đi vay. Giá trị chỉ tiêu này ở trong khoảng từ 1 đến 4 là chấp nhận được. Nếu chỉ tiêu nhỏ hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp đã dùng vốn ngắn hạn để đầu tư cho các tài sản cố định và sẽ dẫn đến rủi ro trong thanh toán ngắn hạn. Khả năng thanh toán nhanh Tỷ số này cho biết khả năng chuyển đổi các tài sản có của doanh nghiệp thành tiền để đáp ứng yêu cầu thanh toán cấp thiết các khoản nợ. Do loại hàng hoá tồn kho có khả năng thanh khoản thấp do việc biến chúng thành tiền có thể mất khá nhiều thời gian nên không được tính vào tỷ số này. Giá trị của tỷ số này thường được chấp nhận ở mức từ 1 đến 2. Giá trị của tỷ số này càng cao thì mức độ rủi ro về thanh toán của doanh nghiệp càng thấp song nó cho thấy hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp cũng chưa tốt, những tài sản này có tỷ lệ sinh lời thấp đối với doanh nghiệp. Nhóm 2: Các tỷ số hoạt động Vòng quay hàng tồn kho được biểu thị bằng số lần, thể hiện sự luân chuyển hàng tồn kho tại doanh nghiệp. Kỳ thu tiền bình quân thu tiền bình quân phản ánh số ngày bình quân mà tiền bán hàng hoá được thu hồi. Giá trị của tỷ số này càng cao chứng tỏ hiệu quả thu hồi nợ của doanh nghiệp càng thấp và có thể gặp phải những khoản nợ khó đòi. Giá trị có thể chấp nhận được của tỷ số này thường ở mức trong vòng từ 30 ngày đến 60 ngày. Hiệu quả sử dụng tài sản cho thấy hiệu quả sử dụng toàn bộ các loại tài sản của doanh nghiệp thể hiện một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nhóm 3: Các tỷ số về cân nợ Các tỷ số này đánh giá mức độ tối ưu về cơ cấu tài chính và mức độ rủi ro vì phải lệ thuộc tài chính, nó cho biết khả năng an toàn về tài chính của doanh nghiệp. Nợ phải trả so với tổng tài sản phản ánh cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Giá trị của tỷ số này càng cao chứng tỏ mức độ rủi ro phá sản của doanh nghiệp càng lớn. Trên phương diện các chủ nợ, các định chế tài chính thì nếu tỷ số này càng cao thì khả năng thu hồi nợ của họ càng thấp. Tuy nhiên, trên phương diện doanh nghiệp, tỷ số này càng cao chứng tỏ thành tích vay mượn của doanh nghiệp này tốt, nếu doanh nghiệp hiện có tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ lệ lãi vay thì tỷ số này là tích cực. Ngược lại, sẽ có tác dụng tiêu cực nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp thấp hơn tỷ lệ lãi vay.Đối với các chủ nợ, giá trị của tỷ số này thường được chấp nhận ở mức nhỏ hơn 50%. Nợ phải trả so với nguồn vốn chủ sở hữu phản ánh mức độ đảm bảo cho các khoản nợ bằng vốn riêng của doanh nghiệp. Giá trị của tỷ số này càng cao chứng tỏ mức độ rủi ro đối với các chủ nợ càng lớn. Nợ không đủ tiêu chuẩn so với tổng dư nợ NH thể hiện việc hoàn trả vốn vay ngân hàng đúng hạn của doanh nghiệp, qua đó cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không. Xét trên giác độ tín dụng ngân hàng, đây là chỉ tiêu rất quan trọng khi xét duyệt cho vay. Nợ không đủ tiêu chuẩn (bao gồm: nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN Ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng). Doanh nghiệp được xếp hạng tại CIC nếu có phát sinh nợ không đủ tiêu chuẩn theo số liệu được lưu trữ tại CIC sẽ bị trừ điểm trong tổng điểm chung, nếu không phát sinh nợ không đủ tiêu chuẩn sẽ được cộng điểm. Việc cộng điểm và trừ điểm sẽ được tính theo sự xuất hiện nợ không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp đó qua các năm. Nhóm 4: Các chỉ số về lợi tức Lợi tức chính là mục tiêu của doanh nghiệp đồng thời nó thể hiện kết quả điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi tức so với doanh thu phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp, tỷ số này càng cao và doanh thu của doanh nghiệp càng lớn thì tiềm năng sinh lời càng lớn. Lợi tức so với tài sản đo lường khả năng sinh lời của mỗi đơn vị tiền tệ đầu tư vào doanh nghiệp. Dùng tỷ lệ này để so sánh với mức trung bình của ngành, qua đó biết được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên ứng dụng quan trọng nhất của tỷ số này là so sánh với chi phí sử dụng ngân quỹ của doanh nghiệp (chi phí vốn). Nếu tỷ lệ này lớn hơn chi phí vốn thì doanh nghiệp kinh doanh có lời, nếu nhỏ hơn thì doanh nghiệp bị thua lỗ. Tỷ số này thể hiện sức hấp dẫn của doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư tiềm tàng. Lợi tức so với nguồn vốn đo lường tỷ lệ thu nhập trên vốn đầu tư của các chủ sở hữu. Tỷ lệ này rất hữu ích khi so sánh với tỷ lệ sinh lời cần thiết (tối thiểu) trên thị trường, ví dụ đơn giản nhất là so sánh với trái phiếu chính phủ. Nếu tỷ lệ này lớn hơn tỷ lệ lãi trung bình trên thị trường thì có nghĩa là doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao, có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư. Nếu tỷ lệ này bằng tỷ lệ lãi trung bình trên thị trường thì có nghĩa là doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả ở mức có thể chấp nhận được. Nếu tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ lãi trung bình trên thị trường thì có nghĩa là doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả thấp, không tạo được sức hấp dẫn với các nhà đầu tư. Hai là, các chỉ tiêu phi tài chính Hiện nay CIC đã lượng hoá một số chỉ tiêu phi tài chính như thời gian hoạt động của doanh nghiệp, số năm kinh nghiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, trình độ người đứng đầu doanh nghiệp để tính điểm trong tổng điểm chung. 2.3.5. Đưa ra kết quả xếp hạng Do tính chất quan trọng của các chỉ tiêu tài chính khác nhau, nhất là đối với ngân hàng; được nhìn nhận từ khía cạnh là nhà đầu tư vốn, ngân hàng luôn đánh giá các chỉ tiêu về doanh thu, kỳ thu tiền bình quân, luân chuyển hàng tồn kho là rất quan trọng, vì nó liên quan mật thiết đến việc thu hồi vốn và lãi các khoản vay. Chính vì thế, khi tính điểm của các tỷ số cho doanh nghiệp phải dùng đến phương pháp trọng số để thể hiện chính xác việc cho điểm các chỉ tiêu tài chính, cũng như mức độ tác động khác nhau của các tỷ số tài chính đến khả năng hoàn trả vốn vay của doanh nghiệp (Phụ lục 2.05 – Hệ thống bảng tính điểm các chỉ số phân tích tại CIC). Tổng điểm = S (Điểm tỷ số x Trọng số) Điểm các trọng số được thể hiện từ 1 đến 3. Tuỳ theo sự tác động của các chỉ tiêu tài chính đến tình hình tài chính của từng doanh nghiệp mà xác định điểm trọng số. Mặt khác, việc phân tích xếp hạng doanh nghiệp ở đây đứng trên giác độ của người đầu tư vốn và đặt vấn đề an toàn là quan trọng, do đó, việc xác định điểm của trọng số thiên về khía cạnh đánh giá cao các chỉ tiêu an toàn vốn. Chỉ tiêu có mức độ tác động mạnh, trực tiếp đến tài chính doanh nghiệp, ảnh hưởng nhiều đến an toàn vốn tín dụng ngân hàng bao gồm: Nhóm tỷ số về hoạt động, nhóm tỷ số về cân nợ. Các chỉ tiêu trên được xác định điểm trọng số là 3. Chỉ tiêu có mức độ tác động trung bình tuy quan trọng nhưng chưa thể hiện bản chất tài chính của doanh nghiệp nhất là không thể hiện rõ nét khả năng tạo ra tiền để hoàn trả vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, đây là các chỉ tiêu thể hiện sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này thuộc nhóm các "tỷ số về thu nhập", điểm trọng số là 2. Chỉ tiêu có mức độ tác động yếu hơn, tác động mang tính chất thời điểm, không thể hiện bản chất năng lực tài chính của doanh nghiệp, nhất là đối với tín dụng ngân hàng. Nhóm chỉ tiêu này gồm chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn, thanh toán nhanh. Các chỉ tiêu này có điểm trọng số là 1 và 2. 2.3.6. Khoảng các xếp hạng Xác định khoảng cách hạng Theo phụ lục số 2.05 – Hệ thống bảng tính điểm các chỉ tiêu phân tích tại CIC có thứ tự điểm từ 1 đến 5 tương ứng với từ A đến sau D, kết hợp với phương pháp trọng số khoảng cách hạng được tính như sau: Điểm cho các hạng Dựa vào kết quả khoảng cách loại được tính ở trên để tính điểm cho từng loại như sau (theo phụ lục 2.06 - Bảng xếp hạng doanh nghiệp tại CIC): - Loại AAA có số điểm từ 139 trở lên - Loại AA có số điểm từ 124 đến 138 - Loại A có số điểm từ 109 đến 123 - Loại BBB có số điểm từ 94 đến 108 - Loại BB có số điểm từ 79 đến 93 - Loại B có số điểm từ 64 đến 78 - Loại CCC có số điểm từ 49 đến 63 - Loại CC có số điểm từ 34 đến 48 - Loại C số điểm từ 33 trở xuống 2.4. Kết quả đạt được tại CIC thời gian qua 2.4.1. Về nguồn thu thập thông tin CIC là cơ quan hoạt động theo mô hình sự nghiệp có thu trực thuộc NHNN nên việc thu thập thập thông tin từ các cơ quan Nhà nước khá thuận lợi. Nguồn thông tin bao gồm các báo cáo tài chính doanh nghiệp của CIC hiện nay chủ yếu được mua từ Tổng cục Thống kê, hay thông tin về dư nợ thu thập từ các TCTD và các cơ quan nhà nước khác. Như vậy, CIC là cơ quan có thể thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, điều này giúp cho việc tổng hợp thông tin được đầy đủ, đảm bảo tính chính xác của kết quả xếp hạng doanh nghiệp. 2.4.2. Về phương pháp phân tích CIC là cơ quan Thông tin tín dụng đầu tiên xây dựng một mô hình xếp hạng doanh nghiệp tương đối hoàn chỉnh, có tính chất chung nhất, được áp dụng ở nhiều đối tượng sử dụng thông tin cũng như ở các cơ quan xếp hạng doanh nghiệp khác. Phương pháp xếp hạng doanh nghiệp đã học tập kinh nghiệm của một số nước và áp dần theo thông lệ chung của quốc tế, các bước tiến hành phân tích, đánh giá, xếp hạng đầy đủ theo một quy trình tương đối phổ biến. Các chỉ tiêu phân tích tương đối gọn, cách cho điểm khoa học, có căn cứ lý thuyết và phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Ngoài ra, phương pháp xếp hạng doanh nghiệp của CIC đã được Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) nhận xét và đánh giá cao, khẳng định việc Việt Nam đang ngày càng tiếp cận đến một nền kinh tế hiện đại. 2.4.3. Quy trình phân tích Trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp CIC đã áp dụng quy trình phân tích gồm năm bước cơ bản mà nhìn chung nhiều cơ quan xếp hạng đã và đang áp dụng. CIC đã tiến hành phân ngành kinh tế doanh nghiệp, việc phân ngành kinh tế này bước đầu đã được áp dụng và làm cơ sở cho quá trình xây dựng bảng điểm chuẩn cho từng chỉ số phân tích được đặt trong bối cảnh ngành và quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt đã đưa ra chỉ số trung bình ngành cho từng chỉ tiêu phân tích ở cả ba quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Việc phân ngành kinh tế, xây dựng bảng điểm chuẩn và chỉ số trung bình ngành này làm cơ sở cho các cơ quan xếp hạng doanh nghiệp khác học tập kinh nghiệm, sử dụng trong quy trình xếp hạng doanh nghiệp của chính các cơ quan đó như các NHTM,... Quy trình xếp hạng tín dụng của CIC được xây dựng trên phần mềm tin học hiện đại. Phần lớn tất cả các khâu trong quá trình phân tích đã được mã hoá và lập trình. Điều này giúp cho quá trình xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi, kết quả phân tích được đảm bảo chính xác và đáp ứng tốt nhu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin. 2.4.4. Về hệ thống chỉ tiêu Hệ thống chỉ tiêu xếp hạng doanh nghiệp theo hai nhóm chỉ tiêu chính đó là chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính, lượng hoá các chỉ tiêu này thành thang điểm trong tổng điểm chung được bắt đầu xây dựng tại CIC vào những năm 2000 đã là căn cứ, cơ sở chung và những kinh nghiệm quý báu giúp nhiều cơ quan đặc biệt là NHTM học tập, áp dụng để xây dựng cho mình một phương pháp xếp hạng với những đặc trưng riêng. 2.4.5. Khả năng đáp ứng thông tin Kết quả xếp hạng doanh nghiệp của CIC đã đáp ứng nhu cầu của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau như: cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà đầu tư vốn và cho chính bản thân doanh nghiệp. Kết quả xếp hạng doanh nghiệp của CIC giúp cho các NHTM với tư cách là các nhà đầu tư vốn có được những thông tin tham khảo hữu ích trong việc tìm kiếm và lựa chon khách hàng, phân loại khách hàng từ đó đưa ra những quyết định cho vay đúng đắn, hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng; đề ra chính sách khách hàng phù hợp như: xác định hạn mức tín dụng, thời hạn cho vay, mức lãi suất, biện pháp bảo đảm tiền vay. Đây là một trong những công cụ hữu hiệu giúp các ngân hàng nâng cao năng lực quản lý trong việc cho vay, thu nợ và xử lý rủi ro tín dụng. Xét trên góc độ quản lý toàn danh mục tín dụng, kết quả đánh giá, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp đã mang lại hiệu qủa giúp NHTM trong việc đề ra chiến lược Marketing nhằm hướng tới những khách hàng có ít rủi ro hơn, ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng tổn thất tín dụng. Điều này được thể hiển rõ ở số lượng hỏi tin về sản phẩm xếp hạng doanh nghiệp từ các TCTD tại CIC ngày càng gia tăng. Kết quả xếp hạng doanh nghiệp đã giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước phục vụ cho việc nghiên cứu cảnh báo như xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp có dư nợ từ 100 tỷ VND báo cáo Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, xếp hạng tín dụng các tổng công ty 90-91 và các tập đoàn kinh tế lớn phục vụ cho Ban lãnh đạo NHNN, Ban kinh tế trung ương; xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp cần lưu ý theo báo cáo của Văn phòng Chính phủ theo công văn số 668/VPCP-KTTH ngày 29/06/2004. Ngoài ra, CIC còn cung cấp hàng loạt doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước như dệt may, giày da, thuỷ sản, giao thông vận tải, xây dựng... cho Ban lãnh đạo NHNN giúp cho công tác nghiên cứu và hoạch định chính sách. Kết quả xếp hạng tại CIC còn cung cấp cho một số doanh nghiệp và cho chính bản thân doanh nghiệp đó, giúp các doanh nghiệp nắm rõ tình trạng hoạt động kinh tế của mình, để trên cơ sở đó đưa ra các kế hoạch điều chỉnh chiến lược, kế hoạch cải tiến các hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, mở rộng thị trường hay tăng khả năng cạnh tranh, hướng tới sự phát triển bền vững. Trong thời gian gần đây, CIC đã ký kết hợp đồng kinh tế với Thời báo kinh tế để cung cấp kết quả xếp hạng tín dụng về các doanh nghiệp đoạt giải rồng vàng và doanh nghiệp có thương hiệu mạnh. Thời báo kinh tế đã sử dụng kết quả xếp hạng này để làm căn cứ tính điểm các doanh nghiệp này. 2.4.6. Nâng cao uy tín CIC Sản phẩm xếp hạng doanh nghiệp giúp cho việc đa dạng hoá sản phẩm của CIC, giúp cho CIC đạt được mục tiêu hoàn thiện cung cấp thông tin ra. Chất lượng xếp hạng doanh nghiệp tại CIC đã được xã hội, các tổ chức và chính các doanh nghiệp thừa nhận, điều này khẳng định được vị trí của CIC đối với khách hàng, nâng cao uy tín, năng lực, vai trò của CIC trong hệ thống ngân hàng nói riêng và trong nền kinh tế thị trường, với xu thế hội nhập nói chung. 2.5. Tồn tại và nguyên nhân Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nghiệp vụ xếp hạng tín dụng tại CIC vẫn còn tồn tại một số vấn đề làm ảnh hưởng đến chất lượng phân tích, xếp hạng doanh nghiệp như sau: 2.5.1. Về con người và mô hình tổ chức Về cán bộ thực hiện. Số lượng cán bộ thực hiện trực tiếp nghiệp vụ phân tích, xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm thông tin tín dụng còn thiếu và chưa có nhiều kinh nghiệm. Đây là lần đầu tiên tại Việt nam có một tổ chức như CIC thực hiện việc xếp hạng, tín dụng doanh nghiệp trong khi trên thế giới, vấn đề này rất phổ biến. Về mô hình tổ chức. Hiện nay, nghiệp vụ xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện tại CIC trên cở sở một phòng nghiệp vụ trực thuộc gồm chỉ có 8 cán bộ bao gồm cả cán bộ quản lý. Vì vậy, việc thực hiện một nghiệp vụ có quy mô tầm cỡ, có tính chuyên môn cao như vậy là điều bất cập và gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. 2.5.2. Nguồn thông tin đầu vào Đối với số liệu báo cáo tài chính. Nguồn thu thập thông tin tài chính gặp nhiều khó khăn, số liệu về báo cáo tài chính của các doanh nghiệp chưa đầy đủ và chưa được kiểm toán, có nhiều doanh nghiệp chỉ có số liệu 2 năm, thậm chí một năm. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc tính toán chỉ số trung bình ngành và tính chính xác của kết quả xếp hạng doanh nghiệp. Mặt khác, các thông tin tài chính thu thập được mới chỉ tập trung ở các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn rất khó thu thập, thiếu số liệu để phân tích, dẫn đến việc xếp hạng tín dụng ở nhóm doanh nghiệp này chưa thực hiện được nhiều. Đối với thông tin phi tài chính. Thông tin phi tài chính rất cần thiết cho việc xếp hạng doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thu thập các thông tin phi tài chính còn gặp nhiều khó khăn do CIC không có đủ điều kiện tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp (khó khăn về nhân lực, cơ sở pháp lý). 2.5.3. Phân ngành kinh tế Việc phân ngành kinh tế theo 8 ngành như hiện nay là quá rộng, chưa phù hợp và chưa sát thực với hoạt động thực tiễn đang diễn ra sôi động trong nền kinh tế thị trường. 2.5.4. Phương pháp phân tích Phương pháp dùng trong xếp hạng doanh nghiệp của CIC vẫn còn đơn điệu, chủ yếu dựa vào phương pháp so sánh mà ít sử dụng kết hợp với các phương pháp đánh giá, xếp hạng khác như phương pháp chuyên gia hay phương pháp chi tiết. Đó là các chỉ tiêu để đối chiếu và so sánh lại được cố định, không thay đổi cho phù hợp với thực tế luôn diễn biến phức tạp và đa dạng. Điều này thể hiện ở bảng các chỉ số tài chính áp dụng cho chấm điểm các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế và các chỉ số trung bình ngành thường là cố định. Hiện nay, do môi trường kinh doanh luôn luôn biến động, do vậy khi xếp hạng doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực và xếp hạng tín dụng hàng năm nên căn cứ vào tình hình phát triển chung của ngành để đánh giá. Các tiêu chuẩn đánh giá theo các bảng chỉ tiêu tài chính phân theo ngành chưa tính đến môi trường hoạt động khó khăn khi các doanh nghiệp trong một ngành gặp phải. (ví dụ như năm 2005 được đánh giá là một năm có môi trường hoạt động không ổn định và khó khăn đối với lĩnh vực thương mại, đặc biệt là nhập khẩu vậy các chỉ tiêu trong chuẩn áp dụng đối với các doanh nghiệp này phải thấp hơn mức chuẩn của năm trước.) Bên cạnh đó, trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp, CIC đã đề cập đến phương pháp trọng số, tuy nhiên phương pháp này được áp dụng hoàn toàn theo chủ quan đánh giá, chưa có sự khảo sát, thống kê thực tế. 2.5.5. Hệ thống chỉ tiêu phân tích Các chỉ tiêu được đưa vào phân tích để xếp hạng doanh nghiệp tại CIC trong giai đoạn hiện nay chưa thực sự khoa học và đầy đủ đó là: Phương pháp xếp hạng doanh nghiệp tại CIC chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu tài chính. Tuy nhiên, các chỉ số tài chính này vẫn còn thiếu như các hệ số tự tài trợ, khả năng thanh toán các khoản vay, tài sản đảm bảo các khoản vay, trong khi các chỉ số này rất quan trọng và cần thiết đối với các nhà cho vay như các TCTD. Các yếu tố phi tài chính được lượng hoá tính điểm trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp tuy đã đề cập những còn quá ít và sơ sài. Việc lượng hoá các chỉ tiêu phí tài chính mới chi dừng lại ở mức độ đánh giá người đứng đầu doanh nghiệp và thời gian hoạt động doanh nghiệp. Đặc biệt chưa đề cập nhiều đến các khoản vay, đến mức độ rủi ro của khoản vay và khả năng thất thoát khi vỡ nợ. trong khi đó điều này lại rất cần thiết và là mối quan tâm của các nhà đầu tư nói chung và NHTM nói riêng. Do đối tượng xếp hạng của CIC chủ yếu là các doanh nghiệp nên trong hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thiếu một chỉ tiêu quan trọng là tốc độ tăng trưởng của vốn chủ sở hữu. Ví dụ như có những doanh nghiệp chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác có hiệu quả hơn, tuy nhiên giá mặt hàng này thấp, dẫn đến doanh thu giảm, điều này làm cho doanh nghiệp bị xếp hạng giảm đi. Hoặc có doanh nghiệp tăng vốn chủ sỡ hữu, tức là tăng khả năng tự chủ về tài chính tuy nhiên tổng thu nhập chưa thể tăng tương ứng làm cho các chỉ tiêu về thu nhập của doanh nghiệp giảm xuống, tức là làm tụt điểm của doanh nghiệp. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đang đi vào quá trình phát triển, nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng này là rất lớn và quan trọng, nhưng CIC chưa sử dụng các chỉ số phân tích để đánh giá khả năng định giá trên thị trường đối với các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu như tỷ lệ giá cả trên thu nhập một cổ phần (PER) hay tỷ lệ giá cả trên giá trị ghi sổ. 2.5.6. Hệ thống chấm điểm Theo thông lệ, việc chấm điểm doanh nghiệp đều dựa vào các chỉ tiêu phân tích, bao gốm các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu phi tài chính. Thực tế việc chấm điểm các doanh nghiệp Việt Nam thì các chỉ tiêu phi tài chính thường được coi trọng hơn các chỉ tiêu tài chính. Hiện nay, CIC đang áp dụng thang điểm với tổng số điểm tối đa là 153, tổng số điểm tối thiểu là 31 phân cho 2 nhóm chỉ tiêu tài chính và phi tài chính theo tỷ lệ 70/30. Điều này cho thấy, trong quá trình chấm điểm doanh nghiệp CIC đã sử dụng điểm các chỉ tiêu tài chính cao hơn các chỉ tiêu phi tài chính. Như vậy, chưa thực sự phù hợp với thông lệ chung. 2.5.7. Khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tác Sản phẩm đầu ra về xếp hạng doanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThs5.docx
Tài liệu liên quan