Luận văn Hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội – Chi nhánh Sơn Tây

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.i

DANH MỤC BẢNG BIỂU .iii

MỞ ĐẦU .5

CHưƠNG 1.8

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT

ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THưƠNG MẠI .8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8

1.2. Cơ sở lý luận về hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương mại

11

1.2.1. Khái quát về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 11

1.2.2. Khái quát về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại 17

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng rk not

defined.

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng rk not

defined.

CHưƠNG 2: PHưƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ THIẾT KẾ LUẬN VĂN

2.1. Các phương pháp nghiên cứu

2.1.1. Phương pháp thu thập thông tin

2.1.2. Phương pháp tiếp cận

2.1.3. Phương pháp tổng hợp, phân tích thông tin

2.1.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp

2.2. Thiết kế nghiên cứu

CHưƠNG 3: THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG

THưƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI – CHI NHÁNH SƠN TÂYrk not def

3.1. Tổng quan về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội – Chi nhánh Sơn Tây

 

3.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển MB Sơn Tây

pdf30 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 792 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội – Chi nhánh Sơn Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: chủng tộc, tuổi, giới 9 tính và tình trạng hôn nhân, thu nhập và chi tiêu; Nghiên cứu của Kim và Devaney (2001), sử dụng dữ liệu khảo sát tài chính tiêu dùng của 3.376 cá nhân sử dụng thẻ tín dụng (tín dụng tiêu dùng) ở Hoa Kỳ năm 1998 và phân tích bằng mô hình hồi quy hai bước của Heckman đã kết luận nhiều yếu tố ảnh hưởng tới thẻ tín dụng của cá nhân, các yêu tố ảnh hưởng tới khả năng sử dụng, ngoài tuổi cá nhân có ảnh hưởng thuận, các yếu tố trình độ học vấn của cá nhân, thu nhập, tài sản thanh khoản, bất động sản, lãi suất và kì hạn khoản vay cùng có tác động nghịch. Các yếu tố tác động thuận tới lượng tín dụng: trình độ học vấn, mức thu nhập và giá trị bất động sản; Nghiên cứu của Zhu và De’Armond (2005), sử dụng thông tin từ khảo sát chi tiêu dùng của 7.579 cá nhân ở Hoa Kỳ năm 2001, bằng phân tích mô hình hồi quy Logit đã kết luận các yếu tố ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê tới lượng vốn tín dụng của cá nhân bao gồm: tuổi và trình độ học vấn của cá nhân, thu nhâp và có nguồn vay khác. Trong đó chỉ có trình độ học vấn có tác động nghịch, các yếu tố khác đều có tác động thuận tới lượng vốn vay tiêu dùng của cá nhân ; Và các nghiên cứu khác như: Nghiên cứu của Barro, J. Robert (1976) về thị trường cho vay, khoản vay có thế chấp và tỉ lệ lãi suất; Nghiên cứu của Paul F.Smith trong giai đoạn 1949 – 1959 về các hoạt động cho vay tiêu dùng trên thị trường Mỹ, cho thấy cái nhìn tổng quan về cho vay tiêu dùng, những lợi ích và sự cần thiết của nghiệp vụ này ở nhiều lĩnh vực, qua đó cung cấp các kinh nghiệm quý báu cho các ngân hàng Việt nam nói chung và Ngân hàng Quân Đội nói riêng trong việc phát triển và hoàn thiện hoạt động cho vay tiêu dùng. Tại Việt Nam, với cơ cấu dân số trẻ, năng động, nhu cầu tiêu dùng lớn tạo cơ hội thuận lợi cho các ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh và đây cũng là nghiệp vụ ngân hàng hiện đại giúp hoạt động của ngân hàng trong nước ngày càng phát triển, đa dạng hóa hoạt động theo hướng hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế và luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của người dân. Theo Vụ chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà Nước), với sự tham gia tích cực của nhiều ngân hàng, hiện nay, tổng dư nợ cho vay tiêu dùng ở Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình 20%/năm; về thị phần, dư nợ cho vay tiêu dùng mới chỉ chiếm khoảng 8,02%/tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống cho 10 thấy hoạt động này còn rất nhiều tiềm năng phát triển. Tuy nhiên đây cũng là dịch vụ đem lại không ít những khó khăn cho các ngân hàng Việt Nam như: khó khăn về kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ nói chung và bản thân ngân hàng nói riêng đã gây không ít trở ngại đối với việc thúc đẩy hoạt động cho vay tín dụng đạt tới những giá trị tiềm năng vốn có, buộc các ngân hàng không ngừng đưa ra các biện pháp giải quyết để có thể khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Sự phát triển và đa dạng của hoạt động cho vay tiêu dùng trong những năm qua đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trong nước như: Nguyễn Đức Long (2015), nêu lên thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại các công ty tài chính, qua đó cũng đề cập đến những thách thức và đưa ra những gợi ý quản lý giúp phát triển hoạt động này; Nguyễn Thị Kim Thanh và các tác giả(2015), nêu lên thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam, qua đó chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và đưa ra những gợi ý quản lý giúp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam; Hoàng Đức (2012), khái quát sản phẩm tín dụng tiêu dùng mới tại một số ngân hàng, đồng thời dự báo tín dụng tiêu dùng sẽ bùng nổ trong thời gian sắp tới và các rủi ro có thể gặp phải trong hoạt động tín dụng tiêu dùng tại các ngân hàng; Nguyễn Thị Kim Thanh (2012), tổng quan thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng trên thế giới, tập trung một số vấn đề như: thuận lợi và khó khăn trong cho vay tiêu dùng tại Việt Nam, cơ cấu sản phẩm, cơ cấu khách hàng, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, tỉ lệ nợ xấu, triển vọng phát triển cho vay tiêu dùng, hành lang pháp lý các khuyến nghị đối với Chính phủ, cơ quan quản lý nhằm thúc đẩy lành mạnh thị trường tín dụng tiêu dùng tại Việt Nam; Lê Thị Kim Huệ (2013), đưa ra cái nhìn tổng quan về thị trường cho vay tiêu dùng Việt Nam trong thời gian qua, trong đó chỉ ra những sai lầm và hạn chế mà các ngân hàng, tổ chức tài chính mắc phải khiến cho hoạt động này chưa phát triển mạnh mẽ và đề xuất các giải pháp khắc phục. Bên cạnh đó có những luận văn thạc sỹ nghiên cứu về hoạt động cho vay tiêu dùng như: Trần Hạnh Khôi (Đại học Kinh tế Quốc dân, 2010), đã phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á. Tuy nhiên, tác giả chưa phân tích đủ các yếu tố tác động, đặc biệt thiếu việc khảo sát nhu cầu, sự hài lòng của khách hàng vay vốn tại ngân hàng để tìm ra các điểm hạn chế trong quy trình cấp tín dụng gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình tiếp cận vốn. Điều này dẫn đến kết luận thực trạng phát triển cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á không chuẩn xác, đề xuất các giải pháp không đồng bộ; 11 Nguyễn Thành Công (Đại học Kinh tế quốc dân, 2009), đã đề cập đến các vấn đề sau: khái niệm hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương mại, hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng trong thị trường ngân hàng Việt Nam, vai trò và ý nghĩa của cho vay tiêu dùng đối với sự phát triển của thị trường tài chính, xu hướng của sự phát triển cho vay tiêu dùng trên thế giới và tác động của nó tới Việt Nam. Thêm vào đó, công trình nghiên cứu về cho vay tiêu dùng ở phạm vi địa phương, trong đó hệ thống hóa được lý luận cơ bản cho vay tiêu dùng, đặc điểm cho vay tiêu dùng và thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội, chi nhánh Thanh Xuân, phương hướng và giải pháp đẩy mạnh. Các công trình trên nghiên cứu về hoạt động cho vay tiêu dùng nói chung ở các góc độ khác nhau đã cho thấy triển vọng phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương mại và đưa ra được các cách tiếp cận, các phương pháp nhằm phát triển hoạt động này. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu về hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội – Chi nhánh Sơn Tây, và đây là khoảng trống để tác giả thực hiện đề tài “Hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội – Chi nhánh Sơn Tây”. 1.2. Cơ sở lý luận về hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương mại 1.2.1. Khái quát về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.2.1.1. Khái niệm cho vay Theo Điều 2, quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng đưa ra định nghĩa: “ Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi ”. Theo Điều 1, số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03 tháng 2 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước nêu rõ: “Khách hàng vay tại tổ chức tín dụng là các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài có nhu cầu vay vốn, có khả năng trả nợ để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống ở trong nước và nước ngoài. 12 Trường hợp khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định riêng ”. Như vậy cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu (ngân hàng thương mại) sang người sử dụng (người vay), sau một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. 1.2.1.2. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định của Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại. Các nguyên tắc đó được khái quát như sau: - Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn lẫn lãi với thời gian xác định. Các khoản cho vay của Ngân hàng có nguồn gốc chủ yếu từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản Ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi như đã cam kết. Do vậy Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển. - Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thỏa thuận với Ngân hàng, không trái các quy định của pháp luật và các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các Ngân hàng. Bên cạnh đó, mỗi Ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo Ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh hoạt động của Ngân hàng. - Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay chứng minh cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ Ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, Ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. 13 1.2.1.3. Điều kiện cho vay Khách hàng chỉ có thể vay vốn của ngân hàng khi họ đã thỏa mãn tất cả các điều kiện vay vốn. Theo luật pháp Việt Nam, nội dung các điều kiện vay vốn gồm: Thứ nhất, khách hàng phải có đủ tư cách pháp lý Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng là quan hệ được pháp luật bảo vệ. Vì vật, nó phải được lập trên cơ sở quy định của pháp luật. Do đó, các chủ thể tham gia phải có đủ tư cách pháp lý. Hơn thế, trong quan hệ tín dụng sẽ phát sinh sự chuyển giao và giao dịch về tài sản do đó cần có sự xác nhận của các bên tham gia theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy, khách hàng phải có đủ tư cách pháp lý để thực hiện các giao dịch. Thứ hai, vốn vay phải được sử dụng hợp pháp Vốn vay phải được sử dụng hợp pháp tức là không vi phạm pháp luật và mục đích sử dụng vốn vay phù hợp với đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Vì vậy, khi khách hàng sử dụng vốn bất hợp pháp thì các tài sản đó sẽ bị phong tỏa hoặc tịch thu từ đó ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng. Ngoài ra, khi vốn vay sử dụng bất hợp pháp thì tư cách pháp lý của khách hàng có thể bị mất đi do đó ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng hợp pháp giữa ngân hàng với khách hàng. Thứ ba, khách hàng phải có năng lực tài chính lành mạnh để đảm bảo hoàn trả tiền vay đúng hạn đã cam kết. Lý do khách hàng phải có tình hình tài chính lành mạnh có thể được hiểu như sau: doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh tức là doanh nghiệp đó có khả năng quản lý tốt: chứng minh sự phát triển ổn định của khách hàng, đảm bảo cho khách hàng có cơ sở vững chắc về tài chính để đảm bảo cho cam kết hoàn trả tiền vay đúng hạn. Thứ tư, khách hàng phải có phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi và hiệu quả (đối với khách hàng có dự án, phương án sản xuất kinh doanh). Khách hàng phải có phương án khả thi và hiệu quả vì bản chất của Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh trong đó việc cho vay phải đảm bảo các nguyên tắc sinh lời cơ bản. Do đó dự án và phương án mà ngân hàng tài trợ vốn phải đảm bảo tính khả thi và hiệu quả. Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại, nguồn thu từ phương 14 án và dự án vay vốn được coi là nguồn thu “thứ nhất” đảm bảo an toàn vốn cũng như phát triển liên tục của khách hàng và ngân hàng. Thứ năm, khách hàng phải thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định. Ngân hàng Thương mại quan tâm đến đảm bảo tiền vay vì: Đảm bảo tiền vay là công cụ bảo đảm trong việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của khách hàng trong quan hệ vay vốn. Đảm bảo tiền vay cũng cung cấp nguồn thanh toán “thứ hai” cho Ngân hàng Thương mại (trong trường hợp khách hàng không trả được khoản vay). 1.2.1.4. Phân loại cho vay Các khoản cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách theo các tiêu chí khác nhau, bao gồm mục đích, tài sản đảm bảo (nếu có), kỳ hạn, phương pháp hoàn trả và nguồn gốc. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. * Theo thời hạn cho vay - Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. - Cho vay trung hạn: Là các khoản vay có thời hạn từ một năm đến năm năm. Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thức vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập. - Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên năm năm. Đây là loại hình được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. * Theo mục đích vay - Cho vay kinh doanh: Là loại tín dụng cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ thể 15 kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa. - Cho vay tiêu dùng: Là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân như mua sắm nhà cửa, xe cộ, * Theo tài sản đảm bảo - Cho vay không có đảm bảo: Là loại cho vay không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng đó. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân kỹ thuật mà không cần một nguồn thu nợ bổ sung thứ hai. - Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có them một nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. * Theo đối tượng tham gia quy trình cho vay - Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. - Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay thông qua các tổ, hội, đội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người sử dụng tiền sai mục đích. * Theo phương thức cho vay 16 - Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của Ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng, tức là vốn từ Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. - Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thế tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ, khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp Ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ, sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. - Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay, qua đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. * Theo phương thức hoàn trả - Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ: Cho vay trả góp - Cho vay chỉ có một thời hạn trả nợ hay cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn. - Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy vào khả năng tài chính của mình, người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào. 1.2.1.5. Vai trò của hoạt động cho vay * Đối với ngân hàng Dư nợ cuối kỳ là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng hoạt động của ngân hàng. Cho vay của ngân hàng lớn mà mức dư nợ thấp chứng tỏ ngân hàng làm ăn có hiệu quả, uy tín của ngân hàng cao, nhiều người đã biết đến ngân hàng. Khi uy tín của ngân hàng tăng cao thì việc tăng vốn điều lệ hoặc huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân 17 cư gửi vảo ngân hàng sẽ dễ dàng và có chi phí thấp hơn. Từ đó tạo điều kiện mở rộng quy mô, mạng lưới của ngân hàng nhờ đó mà ngày càng phát triển, các hình thức cho vay được đa dạng hóa nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng. * Đối với khách hàng Nhờ có ngân hàng cho vay mà khách hàng sẽ có thể thực hiện được những dự định, dự án của mình. Do vậy nghiệp vụ này mang lại lợi nhuận cho khách hàng hay giải quyết được các vấn đề mà khách hàng gặp phải trong vấn đề cấp bách. Tuy vậy, khách hàng cần phải tính toán đến khả năng chi trả để việc chi tiêu hợp lý. * Đối với nền kinh tế - Góp phần thúc đẩu sản xuất phát triển: tín dụng ngân hàng với tư cách là nơi tập hợp trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích lũy vốn cho nền kinh tế. - Góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả: tín dụng ngân hàng đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông, do đó, trong điều kiện nền kinh tế bị lạm phát, tín dụng được xem như là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần làm giảm lạm phát. - Góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội: Hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư. Trong nền kinh tế ngoài các ngân hàng còn có hệ thống những tổ chức sẵn sàng cung cấp vốn vay cho các cá nhân để phát triển kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa, tư liệu sinh hoạt nhằm mục đích cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, qua đó góp phần ổn định trật tự xã hội. 1.2.2. Khái quát về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Cơ sở hình thành hoạt động cho vay tiêu dùng Khi cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu vay tiêu dùng ngày một gia tăng gắn 18 liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng lâu bền như nhà, xe, đồ dùng sang trọng, nhu cầu du lịch, Tuy nhiên để nhu cầu được đáp ứng đúng lúc, đúng thời điểm không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện được bởi còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán. Vậy vấn đề cần giải quyết chính là mâu thuẩn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán. Trên thực tế có hai cách giải quyết. Cách thứ nhất là mua bán chịu. Tuy nhiên cách này chỉ có lợi đối với người mua, còn bất lợi đối với người bán. Người mua sẽ được sử dụng hàng hóa trước khi có đủ số tiền cần thiết, nhưng người bán sẽ thu hồi vốn chậm hoặc thậm chí bị người mua quỵt tiền. Khi cần tiền để nhập hàng hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh thì đến lượt người bán sẽ dễ rơi vào tình trạng thiếu phương tiện thanh toán. Vì vậy cách mua bán chịu không phổ biến và khả thi, hơn nữa lại gặp nhiều rủi ro. Cách thứ hai là người mua đi vay tiền, họ sẽ cảm giác là đã đủ phương tiện thanh toán. Cách này vừa thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và nhà sản xuất cũng bán được hàng. Như vậy là cần đến một tổ chức thứ ba hỗ trợ cả người mua và người bán để họ luôn luôn có phương tiện thanh toán đối với các nhu cầu của họ. Tổ chức thứ ba đó chính là các trung gian tài chính, mà quan trọng nhất là các Ngân hàng Thương mại. Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng cũng là cách để ngân hàng gia tăng lợi nhuận, đặc biệt trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay. Nhiều doanh nghiệp lớn khi thiếu vốn đã không tìm đến ngân hàng để vay tiền mà thay vì đó họ tự tài trợ chủ yếu bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Hơn nữa, nhiều công ty tài chính hoặc giữa các ngân hàng cạnh tranh với nhau trong cho vay làm cho thị phần cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút buộc ngân hàng phải mở rộng thị trường cho vay tiêu dùng, hướng tới tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Ngân hàng cho vay tiêu dùng một mặt tăng thu nhập cho bản thân ngân hàng, mặt khác tạo ra uy tín cho ngân hàng. Một lý do khác góp phần vào sự hình thành cho vay tiêu dùng đó là đặc điểm luân chuyển hàng hóa tiêu dùng. Ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp và cá nhân là một mảng hoạt động quan trọng của ngân hàng. Quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa nếu như không có tiêu dùng thì sẽ bị tắc nghẽn, hàng hóa không tiêu thu được dẫn đến doanh 19 nghiệp bị ứ đọng vốn và quá trình sản xuất vì thế mà không thể tiếp tục. Vai trò của ngân hàng lúc này trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho họ trước khi họ tích lũy đủ số tiền cần thiết. Khách hàng có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua hàng và doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hóa, từ đó có thể trả nợ cho ngân hàng cũng như doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất và sẽ tìm tới ngân hàng để tiếp tục vay vốn. bên cạnh đó, người tiêu dùng có thu nhập khá hoặc cao, thu nhập tương đối ổn định, vay tiêu dùng giúp họ nâng cao mức sống, tăng khả năng được đào tạo, giúp họ có cơ hội tìm kiếm công việc có mức thu nhập cao hơn. Như vậy cho vay tiêu dùng sẽ có lợi cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và cả ngân hàng. Sự hình thành cho vay tiêu dùng là điều cần thiết và tất yếu. 1.2.2.2. Khái niệm cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng là một hình thức cấp tín dụng nhằm hỗ trợ cho nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng hàng ngày của cá nhân và hộ gia đình. Có thể hiểu một cách đơn giản là hình thức tổ chức tín dụng cho các khách hàng được sử dụng một khoản tiền trên tài khoản của tổ chức tín dụng đó để dùng trong tiêu dùng cá nhân, với điều kiện khách hàng đó phải đáp ứng được những yêu cầu về khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng cho vay. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như trang trải cho nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ các nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch, trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có thể thưởng thức mức sống cao hơn. Đây là những nhu cầu thiết yếu của cá nhân và hộ gia đình, những hoạt động này không sinh lợi. Có thẻ so sánh khoản vay tiêu dùng với khoản vay đwọc thực hiện với mục đích sản xuất hoặc để mua các sản phẩm nhằm tạo ra nguồn vốn như cổ phiếu và trái phiếu. 1.2.2.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng có những đặc điểm riêng khác với tín dụng ngân hàng nói chung: - Đối tượng của các khoản cho vay tiêu dùng: Đó là các cá nhân, hộ gia đình. Nhu cầu vay của cá nhân phụ thuộc vào tình hình tài chính của họ. Đối với cá nhân có mức 20 thu nhập thấp, nhu cầu tín dụng thường không cao, nó chỉ xuất hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu gia đình tạo sự cân đối giữa thu nhập và chi tiêu. Đối với cá nhân có mức thu nhập trung bình, nhu cầu tín dụng phát triển mạnh do ý muốn vay mượn để mua hàng tiêu dùng lớn hơn khoản tiền dự phòng của mình. Đối với những người có thu nhập cao, nhu cầu tín dụng tiêu dùng nảy sinh nhằm tăng thêm khả năng thanh toán hoặc một khoản tài trợ rất linh hoạt trong chi tiêu khi mà nguồn vốn của họ đã nằm trong khoản đầu tư. - Mục đích vay nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050008117_3749_2006117.pdf
Tài liệu liên quan