Luận văn Hoạt động kiểm sát thu thập và đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐÔNG KIỂM SÁT THU

THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN

ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ . 10

1.1. Khái niệm hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự . 10

1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 10

1.1.2. Khái niệm thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS. 12

1.1.3. Khái niệm hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự. 16

1.2. Nội dung, nguyên tắc, biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ

trong giai đoạn điều tra VAHS. 17

1.2.1. Nội dung thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự. 17

1.2.2. Nguyên tắc thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự. 18

1.2.3. Biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự. 21

1.3. Kiểm sát thu thập, đánh giá chứng trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự . 21

1.3.1. Khái niệm kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự. 21

pdf44 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động kiểm sát thu thập và đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ án hình sự. 7. Kết cấu của Luận văn Chương 1: Lý luận chung về kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật về kiểm sát thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 10 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐÔNG KIỂM SÁT THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội ở mức độ nguy hiểm nhất được pháp luật hình sự quy định bảo vệ. Hành vi đó gây ra hoặc đe dọa gây ra các thiệt hại ở mức độ cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS. Vì vậy phải kiên quyết đấu tranh làm rõ xử lý, trừng trị và qua đó giáo dục mọi người ý thức pháp luật mang lại công lý, công bằng. Để làm rõ được hành vi phạm tội cần phải khám phá, điều tra. Hoạt động khám phá tội phạm đặt ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phải làm rõ các yếu tố như có hành vi phạm tội hay không, ai là người gây ra hành vi đó; mức độ lỗi, hậu quả thiệt hại; nguyên nhân điều kiện và các yếu tố khác phải chứng minh trong vụ án hình sự. Theo Điều 63 BLTTHS năm 2003 thì những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự: - Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. - Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội. - Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo. - Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. 11 Để chứng minh các nội dung trên thì phải dựa vào chứng cứ, chứng cứ được coi là phương tiện chứng minh trong vụ án hình sự; theo pháp luật TTHS Việt Nam trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT trong hoạt động điều tra trách nhiệm thu thập, đánh giá chứng cứ chủ yếu thuộc về CQĐT và cơ quan này thực hiện hoạt động điều tra thông qua hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự. BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQĐT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không bắt buộc chứng minh mình vô tội vì thế CQĐT phải tìm cho được những chứng cứ để làm rõ yêu cầu trên, đó chính là hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Nói cách khác: hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động của CQĐT bằng các hành vi tố tụng hợp pháp khám phá tội phạm, làm rõ bức tranh toàn cảnh chân thực về vụ án đã xảy ra, để từ đó xử lý vụ án hình sự theo quy định của pháp luật TTHS (TTHS). Hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng của CQĐT trong giai đoạn điều tra, giai đoạn điều tra với ý nghĩa là giai đoạn của TTHS được bắt đầu từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và căn cứ để khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra theo quy định pháp luật TTHS. Giai đoạn điều tra VAHS có mục đích khám phá sự thật khách quan vụ án để cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng tồn tại các quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra. Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng điều tra là hoạt động của CQĐT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Quan điểm này cho rằng điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do một CQĐT thực hiện. Từ điển Luật học giải thích "điều tra là hoạt động TTHS do người và cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm cơ sở cho việc truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự" [29, tr.257]. 12 Hoạt động TTHS để chứng minh sự thật vụ án là một quá trình liên tục, kế tiếp nhau trải qua nhiều giai đoạn, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau tiếp tục giải quyết nội dung vụ án trên cơ sở kết quả của giai đoạn trước. Mỗi giai đoạn là một bước độc lập của chu trình tố tụng, lý luận về giai đoạn chỉ ra mỗi giai đoạn khác nhau bởi các yếu tố: Chủ thể và thẩm quyền tố tụng khác nhau; nhiệm vụ quyền hạn tố tụng khác nhau; hành vi tố tụng và kết quả khác nhau; văn bản tố tụng và thời hạn tố tụng riêng biệt [31, tr.527]. Trong cả chu trình đó theo BLTTHS thì giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án là giai đoạn hai. Giai đoạn điều tra vụ án có trách nhiệm làm rõ tất cả các yếu tố phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003. Giai đoạn điều tra có nhiệm vụ chính là áp dụng mọi biện pháp điều tra tiến hành làm rõ và kết luận vụ án để giải quyết nhiệm vụ này phải tiến hành các hoạt động điều tra. Như vậy giai đoạn điều tra là khái niệm của luật TTHS chỉ một giai đoạn, chu trình của TTHS. Tóm lại, từ những nhận định trên có thể chỉ ra khái niệm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự bắt đầu từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khi kết luận điều tra vụ án. Ở giai đoạn này CQĐT tiến hành các hoạt động theo quy định của BLTTHS để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng, chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án từ đó kết luận và xử lý vụ án theo thẩm quyền. 1.1.2. Khái niệm thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS Như đã phân tích đặc điểm của giai đoạn điều tra có nội dung chính là hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ để kết luận vụ việc thẩm 13 quyền của CQĐT đối với vụ án, nói cách khác hoạt động điều tra chính là hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án. Để giải quyết vụ án, ở giai đoạn điều tra là sự tiếp tục giả định của giai đoạn khởi tố với ý nghĩa là đã có hành vi phạm tội và hành vi đó có dấu hiệu tội phạm cần phải điều tra ra Quyết định “khởi tố vụ án”. Ở giai đoạn này CQĐT phải dựa vào chứng cứ để khẳng định sự kiện tội phạm được giả định. Muốn có được chứng cứ thì CQĐT phải tiến hành các hoạt động thu thập nó, thu thập chứng cứ là khâu đầu tiên của quá trình chứng minh trong điều tra vụ án hình sự. Theo BLTTHS Việt Nam hiện hành thu thập chứng cứ trong TTHS phải bảo đảm các đặc điểm sau đây: Một là, thu thập chứng cứ là hoạt động tố tụng của CQĐT được quy định cụ thể trong BLTTHS về thẩm quyền, nội dung, hình thức, bị giới hạn trong thời gian nhất định (thời hạn điều tra vụ án). Hai là, thu thập chứng cứ là việc phát hiện, ghi nhận phản ánh các thông tin dấu vết, vật chứng từ vụ việc có dấu hiệu tội phạm vào tài liệu hồ sơ vụ án theo các quy định của pháp luật TTHS để làm cơ sở chứng minh trong giải quyết tin tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và giải quyết vụ án hình sự. Ba là, Thu thập chứng cứ trực tiếp do thủ trưởng CQĐT và ĐTV được giao điều tra vụ án thực hiện; Bốn là, việc tiến hành các hoạt động TTHS ở giai đoạn điều tra (hoạt động phát hiện, thu thập chứng cứ) phải tuân thủ đúng pháp luật (bảo đảm hợp pháp). Năm là, chứng cứ thu thập được là cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, xem xét dưới giác độ hoạt động kiểm sát thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án thì hoạt động này được quy định tại Điều 113 BLTTHS năm 2003 gồm các nội dung: Chủ thể tiến hành hoạt động kiểm sát là VKS cùng cấp (trực tiếp là Viện trưởng, Phó viện trưởng và kiểm sát viên); đối tượng hoạt động kiểm sát đối với “kiểm sát việc khởi tố, kiểm 14 sát các hoạt động điều tra (các hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ) và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT (do thủ trưởng CQĐT và ĐTV) thực hiện; khách thể là bảo đảm hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ có căn cứ và đúng pháp luật; phạm vi từ khi nhận được tin báo về tội phạm đến khi kết thúc giai đoạn điều tra VAHS. Nói cách khác như vậy khái niệm “Giai đoạn điều tra trong hoạt động kiểm sát thu thập đánh giá và sử dụng chứng cứ” rộng hơn quan niệm về giai đoạn tố tụng điều tra VAHS như đã nêu. Từ phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau: Thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động điều tra theo TTHS của CQĐT mà trực tiếp là ĐTV được phân công thực hiện nhằm phát hiện, ghi nhận phản ánh các thông tin chứng cứ từ vụ việc có dấu hiệu tội phạm vào tài liệu hồ sơ vụ án theo các quy định của pháp luật TTHS để làm cơ sở ra quyết định khởi tố vụ án, bị can và chứng minh trong giải quyết vụ việc đã được khởi tố. Thu thập chứng cứ kết quả mang lại là hệ thống chứng cứ đã được phản ánh trong hồ sơ VAHS, ĐTV phải sử dụng chứng cứ vào quá trình chứng minh, muốn đưa vào chứng minh thì ĐVT phải đánh giá chứng cứ. Đáng giá chứng cứ là hoạt động tư duy của ĐTV đối với tài liệu chứng cứ đã thu thập được. Đánh giá chứng cứ bao gồm các hoạt động kiểm tra, nghiên cứu và phân tích về chứng cứ. Kiểm tra chứng cứ là hoạt động xem xét lại chứng cứ với các thuộc tính (ba thuộc tính) của chứng cứ để khẳng định cái gì là chứng cứ thì sẽ phân tích đánh giá, cái gì không là chứng cứ thì sẽ đưa ra khỏi hồ sơ vụ án. Kiểm tra chứng cứ là để đưa đến đánh giá, đánh giá chỉ được thực hiện khi đã kiểm tra tính pháp lý của chứng cứ và khẳng định đây là thành phần của hồ sơ vụ án được đưa vào quá trình chứng minh. Đánh giá chứng cứ có thể đánh giá riêng rẽ từng chứng cứ, có thể đánh giá tổng hợp các chứng cứ. 15 Theo quan điểm của tiến sĩ Đỗ Văn Đương thì: Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic, xử lý và tích tụ thông tin của người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, được tiến hành trên cơ sở những hiểu biết của mình về những tài liệu thu thập được, dựa trên những quy định của pháp luật, ý thức pháp luật, niềm tin nội tâm để xác định độ tin cậy và giá trị chứng minh của từng chứng cứ trong vụ án hình sự, được thực hiện trong suốt quá trình tố tụng nhằm làm sáng tỏ toàn bộ sự thật khách quan của vụ án một cách khách quan toàn diện và đầy đủ [9, tr.166]. Theo đó đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự có các đặc điểm chính sau đây: Một là, đây là hoạt động tư duy logic của Thủ trưởng CQĐT và ĐTV về các chứng cứ (thông tin chứng cứ) đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Chỉ đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ mà không đánh giá các chứng cứ ngoài hồ sơ vụ án. Hai là, chủ thể đánh giá chứng cứ dựa trên sự hiểu biết pháp luật và các kiến thức khoa học của bản thân về các sự vật hiện tượng; đánh giá đồng thời còn phải dựa trên niềm tin nội tâm vào công lý, công bằng và ý chí của người làm luật trên một ý thức hệ pháp luật thống nhất. Đánh giá chứng cứ phải loại bỏ mọi suy nghĩ chủ quan, áp đặt mang tính tâm lý cá nhân mà phải hướng tới quá trình truy tìm chân lý, loại bỏ các mâu thuẫn để khẳng định tính nhất quán của nội dung sự kiện pháp lý nhận định. Ba là, đánh giá chứng cứ là quá trình liên tục, thực hiện trong suốt quá trình chứng minh, thực hiện ngay khi thu thập được từng chứng cứ mà không chờ đến điều tra xong mới đánh giá. Đánh giá từng chứng cứ trong tổng thể các chứng cứ của vụ án để có kế hoạch truy tìm các chứng cứ còn thiếu trong vụ án. Nói cách khác: Bản chất của đánh giá chứng cứ là đặt các chứng cứ như một tư liệu, giả định, tiền đề từ đó xây dựng nên bức tranh toàn cảnh về vụ án với từng mảnh ghép là chứng cứ - tìm ra tính chân thực, logic của các sự kiện, 16 phát hiện mâu thuẫn, loại trừ sự suy diễn chủ quan – đưa đến kết luận đủ hay chưa đủ, có hay không có căn cứ kết luận sự kiện phạm tội đang giải quyết. Bốn là, đánh giá chứng cứ là quá trình tổng hợp theo nguyên tắc đánh giá từng chứng cứ cá biệt để xác định giá trị chứng minh, đồng thời đánh giá tổng thể chứng cứ trong vụ án để tìm ra chân lý vụ án. Vì vậy khi đánh giá phải nhuần nhuyễn yêu cầu về tính khách quan, tính toàn diện và tính đầy đủ. Từ các quan điểm và các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm chung nhất về đánh giá chứng cứ: Đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động tư duy của Thủ trưởng CQĐT, ĐTV theo quy định của BLTTHS tiến hành xem xét, kiểm tra các chứng cứ đã thu thập được để xác định tính hợp pháp, tính xác thực và tính liên quan của chứng cứ, qua đó làm rõ có sự việc phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội cũng như giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. 1.1.3. Khái niệm hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Thu thập và đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS là hoạt động pháp lý của CQĐT và ĐTV trong giai đoạn điều tra VAHS: về chủ thể đây là hành vi của con người cụ thể thực hiện, chủ thể của hoạt động này Thủ trưởng CQĐT và ĐTV có thẩm quyền thực hiện. Là hoạt động của con người cụ thể nên hoạt động thu thập chứng cứ có chủ thể tiến hành là ĐTV, có nội dung là quyền và nghĩa vụ được quy định trong BLTTHS, có khách thể là các thông tin về tài liệu chứng cứ trong vụ án được biểu hiện ra bằng các tài liệu chứng cứ trong quá trình điều tra thu thập được là biên bản ghi nhận hoạt động tố tụng các loại; các chứng cứ, vật chứng khác có phạm vi là từ khi phát hiện hoặc tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố về tội phạm đến khi kết thúc điều tra VAHS ở giai đoạn điều tra bằng một trong ba loại quyết định (Đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án hoặc đề nghị việc truy tố). Hoạt 17 động thu thập chứng cứ là hoạt động đặc biệt được quy định cụ thể về quy trình, thủ tục, hình thức và hậu quả trong BLTTHS. Như vậy có thể khẳng định hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án như sau: Hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS là hành vi TTHS của Thủ trưởng CQĐT và ĐTV được phân công điều tra VAHS thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định trong BLTTHS để thu thập chứng cứ phục vụ quá trình giải quyết VAHS ở giai đoạn điều tra có phạm vi từ khi tiếp nhận tin báo về tội phạm đến khi ban hành các quyết định TTHS ở giai đoạn kết thúc điều tra VAHS. 1.2. Nội dung, nguyên tắc, biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS 1.2.1. Nội dung thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Thu thập chứng cứ là để phục vụ nhiệm vụ chứng minh trong những giai đoạn nhất định; ở giai đoạn điều tra VAHS, nhiệm vụ đặt ra là CQĐT phải xác định rõ tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, tạo điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án; xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố. Cụ thể là nhiệm vụ giai đoạn này phải giải quyết các nội dung theo quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003 vào giai đoạn điều tra. Nhiệm vụ giai đoạn điều tra sẽ chi phối nội dung thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn này. Nội dung của thu thập chứng cứ ở giai đoạn điều tra là kết quả minh chứng được các thông tin về tội phạm được vật chất hóa thành tài liệu trong hồ sơ vụ án để phục vụ việc xử lý vụ án ở các giai đoạn tiếp theo nếu có như giai đoạn truy tố, xét xử VAHS; Trong giai đoạn điều tra cũng như toàn bộ các quá trình TTHS, pháp luật TTHS yêu cầu phải chứng minh vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ gồm các chứng cứ buộc tội và các chứng cứ gỡ tội; 18 cả tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trong vụ án. Nói cụ thể: Nội dung đánh giá chứng ở giai đoạn điều tra phải bảo đảm gồm các yêu cầu sau: Một là, đánh giá chứng cứ đã thu thập được để khẳng định vụ việc đã khởi tố trong quyết định khởi tố có hay không có căn cứ theo quy định tại điều 100 BLTTHS năm 2003. Nếu không có căn cứ thì ra quyết định đình chỉ vụ án. Hai là, đánh giá chứng cứ để xác định ai là người thực hiện hành vi phạm tội để khởi tố bị can; việc áp dung các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp tố tụng khác với bị can (nếu có) đã đảm bảo căn cứ luật định; Ba là, đánh giá chứng cứ để xác định hành vi khách quan của bị can về tính chất, mức độ, hậu quả đã bảo đảm đúng tội danh, khoản, điểm đã khởi tố; nếu chưa phù hợp thì phải thay đổi, bổ sung tội danh. Bốn là, đánh giá chứng cứ để xác định trong vụ án còn có hay không người phạm tội (đồng phạm); nếu còn đồng phạm thì phải khởi tố bổ sung. Năm là, đánh giá chứng cứ để xác định các nội dung khác như: nguyên nhân, hậu quả, xác định thiệt hại, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ 1.2.2. Nguyên tắc thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Một là, nguyên tắc thu thập, đánh giá chứng cứ theo quy định của pháp luật: Để điều tra vụ án CQĐT có thể dụng nhiều biện pháp khác nhau, biện pháp tố tụng (công khai), biện pháp điều tra nghiệp vụ (bí mật, trinh sát) để phát hiện chứng cứ và thu thập chứng cứ; nhưng BLTTHS quy định chỉ các biện pháp nào phù hợp với quy định của BLTTHS quy định mới coi là hợp pháp, mới có giá trị chứng minh. Tính hợp pháp của chứng cứ phải bảo đảm do ĐTV có thẩm quyền thực hiện, được thu thập bằng biện pháp đã quy định, hình thức và kết quả phải thể hiện theo thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định cho tùng loại tương ứng. 19 Hai là, nguyên tắc khách quan, toàn diện và đầy đủ: CQĐT khi tiến hành đánh giá chứng cứ trước hết phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đầy đủ, kịp thời trong thu thập chứng cứ. Tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá chứng cứ là thực tế khách quan. Trong trường hợp có nhiều chứng cứ thu được những thông tin không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau thì phải căn cứ vào thực tế khách quan để đánh giá mà không định trước giá trị của bất kỳ chứng cứ nào. Mỗi chứng cứ phải được xem xét riêng và đem so sánh với các chứng cứ khác, đặt nó trong mối liên hệ với các chứng cứ khác, phát hiện kịp thời lỗ hổng của hệ thống chứng cứ trong vụ án đang điều tra, xét xử. Khi các chứng cứ không tạo thành hệ thống cùng đi đến một kết luận về tình tiết cần phải chứng minh trong vụ án hình sự thì cần xem xét trong hệ thống đó, chứng cứ nào kết luận theo hướng ngược lại, nguồn của chứng cứ này, đặc biệt là tính khách quan của chứng cứ này có ý nghĩa quan trọng để ta chấp nhận sử dụng chứng cứ đó hay không. Chủ thể đánh giá chứng cứ không thể tùy tiện loại bỏ một chứng cứ nào đó trong hệ thống chứng cứ đã thu thập được mà phải đánh giá khách quan, toàn diện tất cả các chứng cứ của vụ án. Mọi chứng cứ đã thu thập, mọi tình tiết được xác định bằng các chứng cứ đều phải được xem xét đến. Trong đó, có những tình tiết buộc tội, những tình tiết gỡ tội, những lời khai, những lý lẽ của các bên tham gia tranh luận đều phải được xem xét. Cần phải đưa ra các giả thuyết về tính đúng đắn, sai lầm của mỗi chứng cứ để từ đó đánh giá một cách tổng quát và toàn diện nhằm chứng minh một tình tiết hay nhiều tình tiết liên quan trong vụ án. Ba là, nguyên tắc đánh giá chứng cứ trong mối quan hệ tổng thể các vấn đề của vụ án: CQĐT khi tiến hành đánh giá chứng cứ phải đặt chứng cứ trong mối quan hệ tổng thể các vấn đề của vụ án. Bởi, các chứng cứ trong 20 cùng một vụ án sẽ luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau trong việc chứng minh làm rõ sự thật của vụ án. Chỉ thu thập được một vài chứng cứ rời rạc, thiếu mối liên hệ với nhau, không tạo thành hệ thống thì không thể đi đến kết luận chính xác được. Các chứng cứ đã thu thập được phải cho phép xác định các sự kiện trong vụ án hình sự theo một trật tự nhất định về không gian và thời gian phù hợp với hiện thực khách quan [9]. Tuy nhiên, nếu có một chứng cứ xác định một sự kiện nào đó tồn tại một cách khách quan, đủ chi phối toàn bộ quá trình bao gồm nhiều vấn đề khác nhau thì không cần phải chứng minh thêm vấn đề khác. Bốn là, nguyên tắc giải thích sự nghi ngờ theo hướng có lợi cho bị can: Nguyên tắc này có nghĩa là nếu trong giai đoạn điều tra, các chứng cứ về vụ án còn đang tranh cãi và mâu thuẫn, nếu sự kiện này hay sự kiện khác có thể được giải thích theo những hướng khác nhau về lý do xuất hiện và diễn biến của nó, nếu như chứng cứ này hoặc chứng cứ khác còn có sự nghi ngờ thì phải chấp nhận việc quyết định theo hướng có lợi cho bị can. Điều này cũng có nghĩa là sự buộc tội phải được và chỉ đươc dựa vào các sự kiện không có sự nghi ngờ, rằng những gì có sự nghi ngờ, không xác thực cần phải được loại trừ ra khỏi cơ sở để buộc tội, rằng kết luận về tính có lỗi của bị can có thể được rút ra chỉ khi tính có lỗi được chứng minh mà không có sự nghi ngờ nào. Tuy nhiên, không nên nhận thức và áp dụng nguyên tắc này một cách giản đơn rằng cứ có sự nghi ngờ là lập tức giải thích theo hướng có lợi cho bị can. Thực tiễn cho thấy rằng, trong nhiều trường hợp khi điều tra và xét xử vụ án hình sự, những người tiến hành tố tụng thường có sự nghi ngờ về tính chính xác của các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được. Nếu có sự nghi ngờ như vậy thì những người tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp theo quy định của pháp luật để thu thập và xác định thêm các chứng cứ khác, loại bỏ sự nghi ngờ đối với các chứng cứ hiện có, sự nghi ngờ về các sự kiện do chứng cứ hiện có cung cấp. 21 Nguyên tắc giải thích sự nghi ngờ theo hướng có lợi cho bị can phải là trong trường hợp điều nghi ngờ này không thể làm rõ được nữa vì không còn cơ sở xác minh, không thể áp dụng biện pháp xác minh được nữa, không còn thời hạn mà luật cho phép chứ không phải cứ xuất hiện nghi ngờ là ngay lập tức áp dụng nguyên tắc này. Đây cũng chính là nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 BLTTHS năm 2015. 1.2.3. Biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Biện pháp thu thập chứng cứ là cách thức mà CQĐT tiến hành thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS; cách thức tiên hành thu thập chứng cứ phải dựa trên cơ sở khoa học và chứng minh được bằng khoa học. Cách thức thu thập chứng cứ chính là các hoạt động tố tụng mà BLTTHS quy định cho mỗi loại hoạt động nhất định như: cách thức hỏi cung, lấy lời khai là hỏi đáp, ghi nhận sự trình bày; khám nghiệm hiện trường là việc nghiên cứu dấu vết, mô tả, đo vẽ, sao chụp thông số hiện trường; việc nhận dạng là kết quả quan sát so sánh... 1.3. Kiểm sát thu thập, đánh giá chứng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 1.3.1. Khái niệm kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2013 và BLTTHS năm 2003 và 2015, chức năng kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra được giao cho VKS thực hiện. Đây là một trong hai nội dung thuộc chức năng của VKS là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố trong các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra VAHS. Giai đoạn điều tra VAHS, CQĐT có nhiệm vụ chính là thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ để làm rõ tội phạm và chủ 22 thể thực hiện tội phạm cũng như các tình tiết khác của vụ án để làm cơ sở giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, nói cách khác đây chính là hoạt động điều tra vụ án hình sự. Hoạt động điều tra vụ án (hoạt động tố tụng) là hoạt động đặc biệt vì nó tác động đến quyền con người, lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân; do vậy dễ dẫn đến sai lầm, vi phạm, gây oan sai nên cần có cơ chế kiểm tra, giám sát đánh giá đặc biệt. Cơ chế đó được BLTTHS quy định là VKS tiến hành kiểm sát hoạt động điều tra (thu thập, đánh giá) của CQĐT trong điều tra khám phá vụ án hình sự. Kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT trong điều tra vụ án hình sự là bộ phận của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp; hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra chính là hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ, do đó kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của ĐTV và CQĐT trong giai đoạn điều tra chính là hoạt động kiểm sát điều tra của VKS và KSV với CQĐT và ĐTV trong giai đoạn điều tra vụ án. Kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ hẹp hơn so với hoạt động điều tra vụ án, là bộ phận của hoạt động điều tra VAHS. Chức năng kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT và ĐTV. Kiểm sát hoạt động điều tra là bộ phận cấu thành, là nhiệm vụ cụ thể của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát hoạt động điều tra với tính chất là một chức năng của VKS thì nó có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động TTHS được thực hiện bởi CQĐT trong g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050008273_5323_2002963.pdf
Tài liệu liên quan