Luận văn Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở (Qua khảo sát thực tiễn ở xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An)

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: HOẠT ĐỘNG TỰ QUẢN CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ 13

1.1. Một số khái niệm cơ bản 13

1.2. Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở - những nội dung cơ bản 24

1.3. Mối tương quan giữa hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở 55

Chương 2: THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT HUY HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TỰ QUẢN CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 72

2.1. Thực trạng của hoạt động tự quản cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở 72

2.2. Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở qua khảo sát thực tiễn tại cộng đồng dân cư xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An 84

2.3. Mục tiêu, quan điểm, phương hướng và giải pháp triển khai hiệu quả hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở 98

KẾT LUẬN 129

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 132

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 134

 

 

 

doc135 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9955 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở (Qua khảo sát thực tiễn ở xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu của chính quyền nhà nước và phù hợp với những mục tiêu mà cộng đồng dân cư trong làng đề ra. Theo quy chế thì trưởng thôn không chỉ chịu trách nhiệm với cộng đồng thôn xóm mà có trách nhiệm thực thi những chủ trương, chính sách của chính quyền địa phương. Như vậy ở đây trưởng thôn đóng vai trò trung gian giữa nhà nước và xóm thôn, là người quản lý những hoạt động của cộng đồng theo mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên nhưng mặt khác lại là người đứng đầu bộ máy hoạt động tự quản cộng đồng. Trưởng thôn là người vừa thay mặt nhà nước để triển khai các công việc chung theo yêu cầu của xã hội, mặt khác lại là người khởi xướng, giải quyết những công việc nảy sinh trong hoạt động tự quản của cộng đồng. Nhờ vào vai trò của trưởng thôn mà nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động của các cộng đồng dân cư cơ sở tương đối khép kín này. Trưởng thôn, làng, ấp, bản có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Hướng dẫn, đôn đốc, tổ chức vận động nhân dân thực hiện nghĩa vụ và quyền công dân, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, các quyết định của uỷ ban nhân dân và các công việc được uỷ ban nhân dân xã uỷ nhiệm. Phối hợp với Ban công tác Mặt trận thôn, làng, ấp, bản; tổ chức thực hiện các nghị quyết của cộng đồng dân cư Phối hợp với các tổ chức kinh tế, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các hội hướng dẫn nhân dân phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, giữ gìn trật tự trị an, an toàn xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, thôn làng ấp bản. Phối hợp với Ban công tác mặt trận ở thôn, làng, ấp, bản hướng dẫn hoạt động của các Ban hoà giải, Ban an ninh, Ban sản xuất, Ban kiến thiết. Phát hiện và báo cáo kịp thời với uỷ ban nhân dân xã những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích và quyền tự do dân chủ của công dân Định kỳ 6 tháng báo cáo công tác và tự phê bình, kiểm điểm trước Hội nghị thôn, làng, ấp, bản. Được tham gia dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng, được hưởng phụ cấp theo quy định của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương [10]. Vị trí xã hội trong làng còn thể hiện qua việc phân biệt các tầng lớp xã hội theo tuổi tác, tuy rằng ngày nay truyền thống trọng xỉ đã có phần giảm bớt nhưng yếu tố tôn trọng người già, người cao tuổi vẫn là một giá trị xã hội mà làm tăng thêm tình đoàn kết và cung cách ứng xử có nề nếp ở cộng đồng dân cư. Trong hoạt động tự quản của cũng cần phải tính đến sự tồn tại khác biệt của các nhóm xã hội, các cộng đồng nhỏ trong làng. Ngay trong một làng, vị trí xã hội, vai trò xã hội của đồng đồng thân tộc (họ hàng), gia đình cũng khác nhau, những dòng họ to, nhỏ với số lượng thành viên nhiều hay ít, những dòng họ đóng góp nhiều cho cộng đồng hay những dòng họ đỗ đạt có nhiều chức sắc đều ảnh hưởng nhất định đến việc bàn bạc, đóng góp sức mình vào hoạt động tự quản của cộng đồng Mỗi một cộng đồng dân cư ở cơ sở thông qua thiết chế làng xã đều tồn tại nhiều mối quan hệ đặc thù của hoạt động tự quản: - Quan hệ giữa các dòng họ với nhau - Quan hệ giữa cộng đồng dân cư với dòng họ - Quan hệ giữa cộng đồng với các cá nhân trong cộng đồng - Quan hệ giữa cộng đồng với các giới - Quan hệ giữa cộng đồng với từng hộ gia đình - Quan hệ của cá nhân với các nhóm xã hội khác Sự chồng chéo đan xen những quan hệ trong nội bộ cộng đồng dân cư làm cho cộng đồng dân cư cơ sở trở thành một hệ thống xã hội phức tạp, đa dạng và gắn kết với nhau mà chỉ có tự bản thân cộng đồng dân cư mới hiểu rõ và giải quyết được, sự trì trệ hay phát triển đi lên đều phụ thuộc vào hoạt động tự quản có phát huy được hiệu quả hay không. 1.3.3. Sự tác động lẫn nhau giữa hoạt động tự quản và quyền lực nhà nước ở cơ sở Mối tương quan này cũng chính là mối tương quan giữa phép nước và lệ làng; giữa pháp luật và hương ước, giữa những quy định bắt buộc và những quy định ràng buộc trên cơ sở thảo thuận với nhau giữa con người với con người. Mối tương quan này chính là hình thức lưỡng tính của thể chế chính trị, pháp lý làm quân bình sự phát triển mọi mặt của đời sống chính trị mỗi đơn vị làng xã và cả quốc gia. Nhìn vào mối quan hệ giữa hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở và quyền lực nhà nước thông qua mối quan hệ giữa pháp luật và Hương ước ta thấy trong các thời kỳ dựng và giữ nền độc lập của nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam có 4 bộ luật tiêu biểu: Hình thư triều Lý; Hình thư triều Trần; Quốc triều hình luật của triều Lê và Hoàng triều luật lệ của nhà Nguyên. Để tồn tại và phát huy hiệu lực thì phải dựa trên một trên một nền tảng pháp lý cơ bản của cộng đồng dân cư làng xã, đó là Hương ước. Sự tương quan này cũng thể hiện mối quan hệ giữa Làng và Nước. Tự quản là việc của làng, là nền tảng của việc thực thi quyền lực nhà nước, là chỗ dựa để quyền lực nhà nước phát huy hoạt động hiệu quả của mình, vừa duy trì được những đặc thù văn hoá dân tộc Việt Nam. Nhưng mặt khác nó cũng thể hiện sự mâu thuẫn với nhau giữa một bên là tính cục bộ địa phương và bên kia là tính quốc gia; một bên là vi mô, một bên là vĩ mô; một bên là tính thống nhất nhưng một bên là tính riêng rẽ. Để phân biệt giữa một bên là hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và một bên là sự quản lý của nhà nước thống nhất và mâu thuẫn như thế nào ta có thể nêu những nét chính sau: - Quyền lực của nhà nước phải dựa vào sự tự quản của cộng đồng dân cư để thẩm thấu những nhiệm vụ của mình. Nhìn vào hình thức thì hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư là một hình thức không chịu sự quản lý của bất kỳ đối tượng nào ngoài dân cư vùng miền, làng xã của mình cho nên nó tưởng chừng như phong toả quyền lực của nhà nước và đặc biệt là hình thức pháp lý của cộng đồng dân cư là quy ước và hương ước thì nó lại càng phong toả vai trò của pháp luật nhà nước. Nhưng trên thực tế cơ cấu tổ chức vi mô bộ máy tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở được quy định trong các Hương ước đều là công cụ của “cai trị” của chính quyền nhà nước. Vậy trên một ý nghĩa nào đó thì hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở chính là sự hoá thân của quyền lực nhà nước trong sự phù hợp với phong tục, tập quán, lối sống của từng cộng đồng dân cư ở cơ sở. Hương ước làng Tây Mỗ trong lời tựa đã viết: "Đối với làng tức là đối với nước, vì góp làng lại thành nước, làng là gốc nước, làng có hay thì nước mới thịnh vậy”. Điều đó có nghĩa làng là gốc nước và quyền lực nhà nước là được điều chỉnh, được tổ chức thực hiện ở các làng. Xét về lý luận thì quyền lực nhà nước là tính quy phạm phổ biến chung; tuy nhiên nó không áp dụng chung cho mọi đối tượng, mọi nơi trong hoàn cảnh làng Việt Nam tự trị và có lối sống, phong tục khác nhau. Chính vì vậy để đi vào đời sống và phát huy khả năng điều chỉnh của mình thì quyền lực nhà nước thông qua chủ trương chính sách, pháp luật phải tìm cách hoá thân vào cộng đồng dân cư cơ sở thông qua các quy định của hương ước, lệ làng. Xét về khía cạnh này thì hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở với quyền lực nhà nước thống nhất nhau. Mặt khác, hoạt động tự quản cộng đồng dân cư ở cơ sở thông qua hình thức là Hương ước cũng đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước. Từ thời phong kiến đạo dụ của Lê Thánh Tông (1442-1497) đã nói: "Các làng xã không nên có Hương ước riêng vì đã có pháp luật chung của nhà nước...làng nào có phong tục khác lạ thì có thể cho lập khoán ước...khoán ước thảo xong phải được quan trên kiểm duyệt hoặc bãi bỏ”. Ngày nay, mỗi một hương ước ở làng xã ra đời đều được thông qua các cơ quan cấp trên kiểm duyệt chặt chẽ. Sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước cho thấy mặc dù Hoạt động tự quản là việc riêng của mỗi làng xã nhưng nó không thể vượt qua khuôn khổ của sự quản lý nhà nước và hoạt động tự quản chính là hình ảnh cụ thể của quyền lực nhà nước được cụ thể hoá trong các điều kiện đặc thù của mỗi cộng đồng dân cư ở cơ sở. - Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở không chỉ là sự biểu hiện cụ thể của quyền lực nhà nước, mà còn là sự bổ sung quan trọng cho quyền lực nhà nước. Sự quản lý nhà nước dù cụ thể đến mấy cũng không thể nào bao quát được tất cả các đặc thù của cộng đồng dân cư ở cơ sở, đặc biệt là các cộng đồng dân cư cổ truyền với các đặc điểm riêng của mình. Vậy nên mỗi một cộng đồng dân cư cụ thể luôn cần đến các quy định cụ thể gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện cho mọi thành viên trong cộng đồng cơ sở. Hoạt động tự quản của công đồng dân cư ở làng xã nó phản ánh được nhu cầu tổ chức và phát triển của mỗi làng xã cụ thể. Vậy: - Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư thông qua Hương ước đã biến các quy định chung của nhà nước thành các quy định cụ thể của làng . - Hoạt động tự quản đơn giản hoá các quy định của nhà nước làm cho sự quản lý của nhà nước trở nên gần gũi, thâm nhập vào hệ tư tưởng đời sống của mỗi một người dân, làm cho các quy định của nhà nước trở nên dễ hiểu, dễ áp dụng. Qua hoạt động tự quản thì sự quản lý của nhà nước thấm sâu vào cộng đồng dân cư rất nhanh mà không ồn ào tốn kém. - Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư thông qua Hương ước đã biến cái khô cứng có tính nguyên tắc lạnh lùng của pháp luật nhà nước thành cái uyển chuyển, linh động và biến hoá dung dị. Đặc biệt, khi hoạt động tự quản phát huy thì nó sẽ bổ khuyết các lỗ hổng của nhà nước trong các mối quan hệ cụ thể của cộng đồng dân cư bởi nó là thực tế sống động của cuộc sống luôn có nhu cầu phát triển; phát sinh những vấn đề mà nhà nước chưa đặt ra hoặc đặt ra rồi nhưng chưa triển khai cụ thể và giải quyết thấu đáo. - Hoạt động tự quản diễn ra trong khuôn khổ quy định của nhà nước: Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư sở dĩ có hiệu lực điều chỉnh, tác động sâu sắc đến những người dân cơ sở vì ngoài sự phù hợp của phương thức này đưa lại với người dân như sự phù hợp về phong tục, tâm lý, lối sống thì hoạt động tự quản luôn đảm bảo được những khuôn khổ các quy định của nhà nước buộc tính tập trung xuất hiện trong hoạt động này. Ta thấy xuất hiện các hình thức chế tài, xử phạt trong Hương ước và thực chất thì nó là sự cụ thể hoá phạm vi, mức độ trong mối quan hệ với luật nước và được chính quyền nhà nước chấp nhận bảo trợ. Vậy, đằng sau hoạt động tự quản là sự quản lý của nhà nước làm cho đời sống của người dân yên tâm hơn, tự tin hơn và mặt khác nó cũng có tính cưỡng chế đối với những sai phạm để có tính hướng đích. - Hoạt động tự quản không chỉ bị quy định bởi sự quản lý của nhà nước mà về phần mình hoạt động tự quản chi phối mạnh mẽ đến sự quản lý của nhà nước. Sự quản lý của nhà nước muốn phát huy tốt thì phải xử lý mối quan hệ giữa lợi ích nhà nước và lợi ích cộng đồng dân cư. Con tàu nhà nước sẽ đi đến đâu nếu không có ai lên tàu? Vậy lợi ích của cộng đồng dân cư cũng chính là lợi ích của nhà nước; Vậy nên để để sự quản lý của nhà nước thẩm thấu vào đời sống của cộng đồng dân cư ở cơ sở thì ắt hẳn phải phát huy những hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở để khơi dậy những lợi ích thiết thân của người dân. Bởi một lẽ khác cộng đồng dân cư cũng chính là đời sống thực tiễn; văn hoá truyền thống, đạo lý của dân tộc; sự quản lý của nhà nước là sự quản lý văn minh đều phải xuất phát trên cái nền này và không nằm ngoài bản sắc dân tộc. - Tuy nhiên hoạt động tự quản và sự quản lý của nhà nước không chỉ tác động lẫn nhau mà còn mâu thuẫn với nhau. + Sự quản lý của nhà nước khẳng định sự cai trị từ trên xuống, tập trung thống nhất và muốn hạn chế hoạt động tự quản của cộng đồng. Ngược lại hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở lại có xu hướng xác lập và củng cố quyền tự quyết, tự làm của mình. Mặt khác sự quản lý của nhà nước mang tính chất vĩ mô toàn quốc gia. Ngược lại hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở lại mang tính vi mô; thậm chí khép kín bởi sự phù hợp với đặc trưng của từng cộng đồng dân cư. Mâu thuẫn giữa hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư với sự quản lý của nhà nước còn được biểu hiện ở phương diện thực thi pháp luật. Có những vướng mắc đặt ra có khi là luật nước không phù hợp với tình hình địa phương; có chỗ hoạt động tự quản có những quy định trái với luật nước. Vấn đề không phải thắng hay thua giữa 2 đối tượng mà vấn đề là sẽ tạo những bất cập cho sự phù hợp với lợi ích của người dân. 1.3.4. Tự quản và quản lý - mối quan hệ giữa thôn và xã Thôn từ trong cộng đồng dân cư cổ truyền vẫn thường gọi là làng, đây là một phân thể của xã. Nhưng xã là một không gian rộng lớn hơn, định hình, nó cố định với vị thế của một cấp quản lý hành chính mà ta vẫn thường gọi là cơ sở. Thôn là một khái niệm năng động bởi tính chất ít hành chính hoá hơn nên cũng ít tính quan liêu hơn so với xã và các cấp trên. Ý nghĩa sâu xa của thôn, làng là bởi nó gắn bởi nó gắn bó máu thịt với từng người dân ở nông thôn, kể cả những người dân ở đô thị cũng vậy, cũng đều thấy trong huyết mạch của mình dòng tâm thức của thôn quê từ cha ông lịch sử để lại. Ở hiện tại thì thôn biểu đạt một ý nghĩa kép. Về phương diện quản lý thì thôn nhận sự uỷ nhiệm của xã, thực thi những nhiệm vụ của xã nhưng nó không phải là một cấp hành chính mà chỉ có ý nghĩa theo lối định danh hành chính. Về phương diện chủ yếu khác thì thôn là một cộng đồng dân cư vừa theo địa vực vừa có tính huyết thống. Thôn là nơi diễn ra hoạt động tự quản cộng đồng, đây là thuộc tính điển hình về chức năng, vai trò của thôn. Thôn có đời sống hoạt động riêng của nó, của sự gắn kết cộng đồng tự nhiên và bền vững lịch sử. Đó là một cộng đồng xã hội, cộng đồng văn hoá. Xã và thôn đều có chung vị trí, vai trò của cơ sở nhưng có chức năng, vị thế khác nhau. Xã là cấp cơ sở của quản lý hành chính nhà nước. Chính quyền xã là hình ảnh đại diện của nhà nước, của chính phủ ở cơ sở nông thôn. Chức năng, quyền hạn quản lý đó thể hiện trên phạm vi xã, do đó quyền quản lý của xã xuống tận thôn xóm, tất cả mọi ngõ, mọi nhà, mọi gia đình và cá nhân. Xã có quyền chỉ thị cho thôn, chỉ đạo thôn, uỷ quyền cho thôn theo chức năng, thẩm quyền có giới hạn. Trong khi đó thôn là một cộng đồng hoạt động tự quản, không có chức trách, thẩm quyền quản lý, không phải là một cấp hành chính, không có tư cách pháp nhân, không có con dấu. Bộ máy của xã hình thành nên theo luật tổ chức chính quyền, theo Hiến pháp và các đạo luật khác của nhà nước có liên quan. Bộ máy đó do dân bầu nhưng theo phương thức dân chủ đại diện. Các thành viên Hội đồng nhân dân xã, những đại biểu của dân thay mặt dân bầu ra chủ tịch và các chức danh trong Uỷ ban nhân dân như một cơ quan chấp hành của Hội đồng. Trong khi đó ở thôn, toàn dân thực chất là là toàn thể các chủ hộ dân trực tiếp bầu ra trưởng thôn. Đây là người cầm chịch cho hoạt động tự quản của dân, cùng với dân trong thôn tự quản lý công việc của mình. Đó là dân chủ trực tiếp. Thôn tự quản đồng thời cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ do xã uỷ quyền. Xã quản lý bằng pháp luật, chính sách, chế độ, cơ chế, có bộ máy hoàn chỉnh, có quyền và là một cấp ngân sách. Trong khi đó, trưởng thôn cùng với dân tự quản bằng hương ước như một thoả ước tập thể, không được trái luật, phải tuân thủ luật nhưng vẫn có một “không gian quyền lực” do dân thôn cùng tự nguyện cùng cho phép, tự nguyện thực hiện. Xã và các cấp trên xã cho phép thôn dùng Hương ước để tự quản, đồng thời cũng thông qua hương ước để quản lý thôn. Tuy nhiên Hương ước đó là phải đúng với luật pháp, không trái với những quy định của nhà nước. Quản lý ở xã mang tính pháp lý chính thống, có cả cưỡng chế, cưỡng bức theo pháp luật, lý trí, trong khi ở thôn lại dùng thuyết phục, phân công, hợp tác, tự nguyện giao lưu, khế ước, tự nguyện giao lưu, đồng thuận theo “tập quán pháp” và “thoả ước”. Quản lý và tự quản trong xã - thôn và trong thôn xã không đối lập hay loại trừ nhau, không chia cắt nhau mà dựa vào nhau, hỗ trợ và thúc đẩy, chi phối lẫn nhau. Thôn tự quản theo sợi dây liên hệ giữa các chủ thể nhân cách: cá nhân - chủ hộ - trưởng thôn - trưởng họ - theo những điều khoản của Hương ước, quy ước, đồng thời tuân thủ pháp luật. Dư luận xã hội trong cộng đồng thôn là một sức mạnh điều chỉnh của tự quản cộng đồng. Tự quản còn có sức hỗ trợ của đạo đức, kinh tế, tâm lý, lối sống. Còn quản lý luôn quy chiếu theo quyền và nghĩa vụ do luật định, quản lý ứng xử với con người theo luật, theo các thiết chế, bộ máy, phương tiện công cụ đã có. Quản lý chặt chẽ, nghiêm minh, có hiệu lực sẽ tạo ra môi trường, điều kiện để thúc đẩy tự quản. Tự quản hỗ trợ mạnh mẽ cho quản lý, làm giảm bớt gánh nặng và sự quá tải của quản lý. Quản lý không thu hẹp, kìm hãm, gò bó, can thiệp vào tự quản nhưng tự quản cũng không vượt qua quản lý, không xem thường quản lý. Quản lý kiểm soát tự quản và điều chỉnh những điều tự quản sai trái. Tự quản cung cấp cho quản lý những thông tin và kết quả để thúc đẩy quản lý tốt hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn, đồng thời tự quản giám sát quản lý, tham gia vào quản lý. Đây chính là quan hệ và tập trung - dân chủ và kỷ luật, kỷ cương, là quan hệ giữa pháp luật và hương ước, quy ước, quy chế ở xã - thôn hiện nay. Đó cũng chính là những biểu hiện chủ yếu của sự tác động qua lại giữa quản lý và tự quản, của quan hệ giữa xã và thôn, là sự thể hiện sinh động giữa hoạt động tự quản trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở. Chương 2 THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TỰ QUẢN CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 2.1. THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG TỰ QUẢN CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ 2.1.1. Những vấn đề đặt ra của cộng đồng dân cư trong việc triển khai hoạt động tự quản ở cộng đồng dân cư cơ sở Nói đến cộng đồng dân cư ở cơ sở là nói đến yếu tố cổ truyền và thức tỉnh những yếu tố hiện đại, cộng đồng dân cư ở Việt Nam hàng ngàn năm qua đã ghi biết bao công lao cho quá trình phát triển. Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh những cơ hội là những thách thức, khó khăn mới đang đặt ra, đó là một cộng đồng với các vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; những phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, sức cạnh tranh thấp, chất lượng nhiều loại nông sản thấp. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng bị ô nhiễm. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn nhìn chung còn thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng ngày càng lớn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc [18]. Vậy, cộng đồng dân cư khi phát huy hoạt động tự quản trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở phải đối diện với những thực trạng gì, những hạn chế từ trong lịch sử cho đến hiện tại, những gì chưa loại bỏ được thì những cái mới phát sinh yêu cầu giải quyết: - Đa dạng về chủng tộc, đông người, nhiều mối quan hệ và nhiều yêu cầu lợi ích. Nếu nhà nước không lưu ý đến vấn đề này thì những vấn đề bức bách khác sẽ nẩy sinh, nó sẽ không còn là vấn đề của cộng đồng cơ sở nữa mà có thể trở thành vấn đề quốc gia và quốc tế. Ví dụ ở Malaixia: Cộng đồng dân cư người Hoa và người Ấn nhập cư. Hiến pháp năm 1957 của nhà nước Malai xia quy định sự hoà hợp rộng rãi giữa cộng đồng dân các cộng đồng dân cư này để làm ăn và phát triển. Nhưng Hiến pháp năm 1971 lại đưa ra “quyền độc lập tối cao của những người Mãlai thống trị, vị trí đặc biệt của những người Mã lai”. Từ đây, dẫn đến sự chuyển đổi về quyền lực chính trị của nhà nước Malaixia; các đảng phái thì không thể tranh thủ được những phiếu bầu bằng cách khởi động những đối lập sắc tộc. Ở Việt Nam chúng ta, tính phân tán, cát cứ, cục bộ địa phương gắn liền với tâm lý phường hội tồn tại dai dẳng ở cộng đồng làng xã Việt Nam. Nó có căn nguyên sâu xa từ nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ với kỹ thuật sản xuất thủ công, lạc hậu, lực lượng sản xuất chậm phát triển và chưa diễn ra sự phân công lao động xã hội triệt để. - Tâm lý phường hội gắn liền với tính phân tán cát cứ, cục bộ địa phương vẫn tồn tại dai dẳng trong cộng đồng dân cư cơ sở bởi nó có căn nguyên từ xa xưa với nền kinh tế tiểu nông và lối sống khép kín trong những không gian biệt lập, chia cắt. Tính phức tạp của những hạn chế nói trên còn bị chi phối bới tâm lý dòng họ, sự ganh đua nhau về mặt lợi ích, về những hư danh giữa dòng họ này với dòng họ khác dẫn đến sự chạy đua với nhau về vật chất giữa các dòng mà đánh mất đi vẻ đẹp văn hoá truyền thống của mỗi dòng họ, tệ hại hơn là nó tạo nên sự xung đột giữa các dòng họ với nhau, có vô số vụ việc xẩy ra như hiện tượng tranh chấp đất đai, nguồn nước, đền chùa miếu mạo, cạnh tranh nhau ngay cả trong các lễ hội, tranh tài tranh giải...tạo nên những xung đột gay gắt để lại hậu quả dài lâu. Có những sự cạnh tranh ngấm ngầm nhưng cũng không kém phần nguy hiểm như “một người làm quan thì cả họ được nhờ”, ngày tết ngày lễ những người làm “quan” đã tài trợ rất nhiều vật chất cho dòng họ của mình khiến cho những dòng họ khác cũng không kém phần bức bối... Những tình trạng đó vẫn diễn ra gây mất tình đoàn kết, sự ổn định trong cộng đồng, làm cho các hoạt động tự quản dường như bị ngưng trệ lại nếu không nói là bị phá bỏ đi tại cộng đồng dân cư cơ sở, nhất là trong khi hoạt động tự quản chưa trở thành một hệ thống lý luận được áp dụng phổ biến và sâu sắc trong cộng đồng dân cư cơ sở nơi mà có 86.000 thôn/ 9000 xã/ 10.000 đơn vị cơ sở. - Tính tự cấp, tự túc, ít giao lưu kinh tế văn hoá của làng xã. Thực trạng này có phía tích cực là nó cố kết những người trong một khu vực nhỏ hẹp là làng xã thành một khối nhằm bảo tồn đời sống chung và bảo vệ những nghề nghiệp cổ truyền. Nó biến mỗi làng thành một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc. Điều kiện khách quan đó đã xây dựng nên tinh thần tự cánh sinh, tinh thần tự quản của làng xã. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, chúng ta hội nhập chung với tinh thần chung của cộng đồng thế giới, cộng đồng làng xã cũng là một cá thể trong công cuộc đó; sự chuyển mình là quan trọng để thích nghi, cộng đồng dân cư cần tránh tư tưởng cục bộ địa phương; giữ những giá trị của riêng mình mà không tính đến lợi ích chung của các cộng đồng khác. Chúng ta cần tôn vinh những cộng đồng dân cư điển hình nhưng cũng đề phòng tinh thần tự hào quá thái về địa phương mình, thậm chí đi đến tự ái địa phương, cục bộ, bản vị, nguyên nhân của việc mất đoàn kết. - Nói đến cộng đồng cơ sở, cũng cần phải kể đến tính gia tộc, huyết thống trong làng xã. Nó có mặt tích cực là đoàn kết những người cùng máu mủ, thương yêu, đùm bọc nhau, cùng tạo động lực tiến bộ. Nhưng cũng đề phòng tư tưởng tôn ty, trật tự nảy sinh, có trường hợp do đầu óc ngôi thứ địa vị, đầu óc gia trưởng, tư tưởng phong kiến đè nặng ảnh hưởng đến những thành quả của phát triển dân chủ, ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… Người nông dân chưa thể thoát khỏi mãnh lực của tục lệ mà tục lệ làng xã thì lúc nào cũng vậy, chứng tỏ ta có sức sống ngoan cường. Ví dụ: Xã bán đất thì cấp trên bao giờ cũng để lại một số phần trăm nhất định để tái đầu tư xã; vậy trong quản lý thì dù nhỏ bé nhưng mỗi cộng đồng dân cư đều có một quyền lực nhất định của mình. Quyền lực cộng đồng làng xã xuất hiện; tuy không được nhà nước thừa nhận nhưng nó lại được các cá nhân bé nhỏ nhất trí chuẩn y và thực hiện thông đồng bén giọt; bởi đó là vấn đề lợi ích trước mắt và trực tiếp của họ. Mặt khác, tại sao người dân không bằng lòng bởi quyền lực của họ bị xâm phạm, quyền làm chủ của họ ở cơ sở bị mất đi khi cấp trên cử người xuống lãnh đạo trong khi chưa hiểu gì về cơ sở; sự luân chuyển cán bộ bất hợp lý làm người dân không yên tâm; họ cảm thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng cho nên vẫn có cảnh “bằng mặt không bằng lòng” của người dân ở cơ sở đối với cán bộ chính quyền. Một số người được cử xuống thì cũng biết học hỏi dân, lắng nghe ý kiến của dân nhưng một số khác thì hay chụp mũ dân khiến dân ngày càng dửng dưng với công việc của chính quyền, dửng dưng với những nhiệm vụ chung của cộng đồng. Vấn đề cán bộ và rèn luyện cán bộ cũng là một vấn đề mà chúng ta cần quan tâm khi điểm xuất phát của họ không phải đi từ trong dân đi ra mà là đi từ trên xuống. Là lãnh đạo thì phải hiểu dân; không chỉ thông qua những tham mưu, những cấp dưới mà phải lăn lộn với dân thì lúc ấy mới là người đại diện cho quyền lợi của dân chứ không phải là quyền lợi của nhà nước, của cấp trên. - Tính cục bộ phân tán, cát cứ làng xã không những ảnh hưởng tiêu cực đến mỗi một người dân sống trong cộng đồng mà nó còn tác động đến bộ máy chính quyền cấp xã - một trong những nguồn lực quan trọng của hoạt động tự quản tự quản cộng đồng. Một người nông dân khi đã trở thành có chức, có quyền thì bằng cách này hay cách khác sẽ lôi khéo những người trong gia đình, dòng họ mình vào bộ máy hành chính. Khi họ cầm quyền ở một xã thì cái thôn quê của nhà họ được ưu tiên. Khi lên huyện thì họ vun xới cho xã, khi lên tỉnh thì không quên giúp huyện mình, khi lên trung ương thì dành những điều có thể dành được của quốc gia cho tỉnh nhà. Tư tưởng cục bộ không còn dậm chân ở địa phương nữa mà nó đã phát triển thành cục bộ ngành, cục bộ bộ [58, tr.16]. Ở đây nó hoàn toàn trái với nguyên tắc lãnh đạo quản lý tại cộng đồng dân cư là tập trung dân chủ, trực tiếp ở đây là tâm lý tiêu cực của người dân đã ảnh hưởng đến một số cán bộ chính quyền, dẫn đến hiện tượng “chi bộ họ nhà ta”, “chính quyền thôn ta, làng ta” dẫn đến các căn bệnh chạy đua thành tích giữa các thôn làng, chạy đua chức tước giữa các cá nhân các thôn làng, các dòng họ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van moi.doc 1.doc
  • docbia ngoai.doc
Tài liệu liên quan