Luận văn Mô hình tập đoàn kinh tế của Trung Quốc và những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: 2

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở TRUNG QUỐC TỪ 1978 ĐẾN NAY 2

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc 2

1.1.1. Cơ sở lý luận. 2

1.1.2. Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trước cải cách. 4

1.2. Các giải pháp cải cách DNNN ở Trung Quốc 5

1.2.1. Tách quyền sở hữu nhà nước và quyền kinh doanh của DNNN. 5

1.2.2 Thực hiện sự tự chủ kinh doanh của DNNN 7

1.2.3. Đổi mới các hình thức tổ chức DNNN. 8

1.2.4. Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNNN. 12

1.3. Những thành tựu chủ yếu của cải doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc từ 1978 đến nay. 14

1.3.1. Tăng sức cạnh tranh của DNNN, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. 14

1.3.2. Đa dạng hoá quyền sở hữu. 16

1.3.3. Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. 17

CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC 19

2.1. khái quát chung về tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc 19

2.1.1. Khái niệm và vai trò của tập đoàn kinh tế đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 19

2.1.2. Quan điểm của chính phủ Trung Quốc về hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế. 20

2.1.3. Những đặc điểm của tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc. 21

2.2. Thực trạng hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc 29

2.1.2. Các nguyên tắc thành lập tập đoàn. 29

2.2.2. Các giải pháp, chính sách đối với việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước. 29

2.2.3. Quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Trung Quốc. 34

2.3. đánh giá mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc. 37

2.3.1. Những mặt tích cực và hạn chế của mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước. 37

2.3.2. Xu hướng phát triển của TĐKT Trung Quốc trong tương lai. 46

2.3.3. Đánh giá chung. 47

CHƯƠNG 3: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂNTẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC 49

3.1. Quan điểm của Đảng và Chính phủ Việt Nam về vấn đề hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế. 49

3.2. Những nét tương đồng của Việt Nam và Trung Quốc. 54

3.3. Những bài học của Trung Quốc về hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước. 55

3.3.1.Về vai trò của nhà nước. 55

3.3.2. Về bước đi và con đường hình thành. 58

3.3.3. Về cơ cấu tổ chức của các TĐKT. 59

3.3.4. Về quản lý các TĐKT. 60

KẾT LUẬN 62

 

doc65 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1784 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mô hình tập đoàn kinh tế của Trung Quốc và những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu Hàn Quốc; Samsung là một tập đoàn lớn thứ 12 trên thế giới, có 140 chi nhánh ở nước ngoài, sản xuất trên 3000 mặt hàng khác nhau, là công ty sản xuất chất bán dẫn, điện tử, thương mại, bảo hiểm lớn nhất Hàn Quốc. Deawoo có khoảng 1000 chi nhánh ở nước ngoài, hiện chiếm khoảng 10% thị phần các sản phẩm điện tử, ôtô trên thị trường thế giới và phát triển mạnh khắp các châu lục. Các nhà kinh doanh Hàn Quốc quan niệm rằng mỗi Chaebol có ít chi nhánh mà lại có mặt ở tất cả các ngành công nghiệp thì phạm vi quốc tế hoá sẽ rộng hơn rất nhiều so với các Chaebol có nhiều chi nhánh mà chỉ tập trung vào một số ngành công nghiệp. Tóm lại: Phạm vi hoạt động của các Chaebol là vô cùng rộng lớn và đa dạng, nó hoạt động ở mọi lĩnh vực kinh tế, sản xuất, kinh doanh từ những sản phẩm nhỏ nhất như cái kim, sợi chỉ đến những ngành công nghiệp bậc cao, các ngành công nghiệp điện tử, hàng không, vũ trụ, đến các ngành tài chính, bảo hiểm… -Mô hình TĐKT của Đài Loan: ở Đài Loan phần lớn các công ty, tập đoàn có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, chiếm tới 98% về số lượng và 70% lao động, tạo ra hơn 50% GNP. Số lượng các tập đoàn lớn không nhiều nhưng chúng cũng đã đóng góp những thành tựu đáng kể cho nền kinh tế phát triển. Đài Loan chủ yếu hình thành “Thể chế trung tiểu doanh nghiệp ” lấy trung tiểu doanh nghiệp làm trung tâm của tăng trưởng kinh tế. Như vậy, thể chế doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện ở Đài Loan mang tính lịch sử tất yếu, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Cơ cấu sản xuất trong thời gian dài sau chiến tranh đều là lấy loại hình sản xuất tập trung lao động làm chủ yếu trong phát triển, thích ứng với vốn và kỹ thuật thấp, thích hợp với quy mô tương đối nhỏ của Đài Loan lúc đó, tức là không cần nhiều vốn và kỹ thuật mà vẫn xây dựng được nhà xưởng, đầu tư sản xuất và xuất khẩu. Phần lớn các xí nghiệp, tập đoàn Đài Loan đều thuộc gia tộc. Hiện nay có khoảng trên 100 xí nghiệp gia tộc lớn, được xây dựng trong quan hệ huyết thống. Riêng tổng doanh thu của 4 tập đoàn: Lâm Viên, Hoà Tín, Đài Tố, Tâm Quang đã đạt 25.000 tỷ đài tệ, chiếm 1/3 tổng tài sản của 100 tập đoàn kinh tế lớn. Thành công của các xí nghiệp, tập đoàn trên là do họ rất coi trọng vai trò của việc xây dựng thể chế tập đoàn. Thể chế này có vai trò quyết định sự thành bại đối với hoạt động kinh doanh của tập đoàn. Điển hình ở Đài Loan là tập đoàn Trung Cương, được hình thành từ năm 1971, áp dụng cách quản lý theo tinh thần chữ “ái” kiểu nho gia, và “kỷ luật sắt” kiểu pháp gia đã mang lại kết quả bước đầu trong hoat động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt công tác quản lý theo tinh thần chữ “ái”, lấy xưởng làm nhà, lấy xưởng làm trường học…và luôn áp dụng 4 phương pháp: tinh thần quên mình, lấy mình làm gương, quan tâm đến công nhân viên, yêu cấp dưới như con, đã tạo nên sự gắn bó giữa các thành viên trong tập đoàn. Tuy nhiên ai vi phạm kỷ luật sẽ bị xử phạt không chút nơi tay và luôn lấy kỷ luật làm nền tảng quán triệt chấp hành, nên thúc giục mọi người phải làm việc hết mình. Do vậy tập đoàn đã xây dựng được thể chế quản lý linh hoạt như: chế độ tiền thưởng đã khuyến khích được công nhân viên, phúc lợi ưu đãi đã hấp dẫn được nhân tài ưu tú, tạo điều kiện cho mọi người đều được hưởng các quyền lợi, tạo nên sự gắn kết trên dưới một cách chặt chẽ. Phương pháp tự quản được thực hiện, tức là quản lý từ dưới lên, không dựa vào mệnh lệnh, mà trong phạm vi công tác cá nhân phát hiện đề xuất rồi tìm cách giải quyết. Nó tạo cho con người tính tự giác, tự giải quyết vấn đề trong việc làm rất cao. Qua chế độ quản lý của tập đoàn ở Đài Loan ta thấy được sự duy trì của mối quan hệ gia đình, huyết thống rất chặt chẽ. Do đó quyền lực của chủ tịch tập đoàn bị hạn chế nhiều so với các Chaebol của Hàn Quốc. Như vậy, có thể thấy sự khác biệt lớn nhất giữa TĐKT của Trung Quốc với TĐKT của TĐKT của Hàn Quốc và Đài Loan đó là vấn đề sở hữu của các tập đoàn. Các TĐKT Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước hoàn toàn hoặc công ty mẹ trong tập đoàn là DNNN, do vậy mọi hoạt động kinh doanh của tập đoàn đều hướng đến mục tiêu hiệu quả kinh tế xã hội, tập đoàn trở thành phương tiện để nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, nhà nước gián tiếp thông qua tập đoàn để định hướng phát triển kinh tế. Trong khi đó TĐKT ở Hàn Quốc và Đài Loan đều thuộc sở hữu gia đình. Các Chaebol ban đầu là các tổ hợp công nghiệp thuộc sỡ hữu gia đình nhờ sự “ cưng chiều” của chính phủ mà phát triển nhanh chóng và trở thành lực lượng nòng cốt đưa nền kinh tế Hàn Quốc phát triển hùng mạnh. Nhưng chính sự cưng chiều của chính phủ Hàn Quốc đã làm nảy sinh những tác động không tốt của Chaebol đối với nền kinh tế như: làm mất cân đối cơ cấu kinh tế, bất chấp trách nhiệm xã hội và nảy sinh tệ quan liêu. “Bàn tay hữu hình” của chính phủ trong quá trình công nghiệp hoá đã đem lại sức mạnh cho các Chaebol, tạo nên sự độc quyền thị trường dẫn tới sự thải loại các công ty vừa và nhỏ khỏi nền kinh tế. Những ưu đãi mà chính phủ Hàn Quốc đưa ra cho các Chaebol là tập trung phần lớn sinh lực và tài nguyên quốc gia vào tay một nhóm người trong xã hội, tạo nên sự bất bình đẳng và những bất ổn trong nền kinh tế. Sự phá sản cuả các Chaebol từ năm 1997 đến nay là kết quả tất yếu của tư tưởng quy mô hoá và đa dạng hoá, dẫn đến sự khủng hoảng trong các khoản vay và thanh toán tín dụng và phá vỡ những lợi thế tương đối “giả tạo” mà chính phủ đã đưa ra cho các Chaebol. Ngược lại trong khi Hàn Quốc quá chú trọng đến sự phát triển cảu các Chaebol thì Đài Loan phổ biến phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ có mói quan hệ mật thiết với các tập đoàn lớn, trong đó lấy tập đoàn lớn làm bộ khung và các xí nghệp vừa và nhỏ là chủ thể. Chính vì vậy trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua nền kinh tế Đài Loan vẫn tăng trưởng 6% và các xí nghiệp vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất, ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Cũng từ những ưu nhược điểm của các mô hình TĐKT như vậy chính phủ Trung Quốc đã phát triển những TĐKT của nhà nước đồng thời sử dụng chúng như một chỗ dựa cho hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, đây có thể coi là ưu điểm vượt trội của các TĐKT Trung Quốc. Tuy nhiên, xét về tiềm lực kinh tế và khả năng cạnh tranh quốc tế thì các TĐKT của Trung Quốc vẫn thua kém các TĐKT của các nước trên. Do các TĐKT của nhà nước vốn xuất thân từ một thành phần kinh tế kém năng động nhất lại được đặt trong môi trường cạnh tranh ngày càng cao nên chưa thể một bước thực hiện được mục tiêu lý tưởng mà chính phủ Trung Quốc đã đề ra. Hơn nữa ngay trong quá trình hình thành và phát triển TĐKT ở Trung Quốc cũng tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục. 2.2. Thực trạng hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc. 2.1.2. Các nguyên tắc thành lập tập đoàn. Tập đoàn được thành lập với mục đích tăng cường hiệu quả quản lý, nâng cao khả năng cạnh tranh, tranh thủ những lợi thế về quy mô và kết hợp các ưu thế của sự chuyên môn hoá với hoạt động kinh doanh da dạng.Với đặc điểm nền kinh tế thị trường XHCN, Trung Quốc đề ra nguyên tắc thành lập thành lập đoàn là: + Trong những ngành, lĩnh vực không mở cửa, không cho phép nước ngoài hoặc khu vực tư nhân đầu tư thì có thể thành lập một số tập đoàn để tránh độc quyền và tăng chất lượng sản phẩm, hiệu quả hoạt động tốt, không cho phép chỉ lập một tập đoàn hoặc một Tổng công ty trong một ngành (vì dẫn đến độc quyền) + Trong những ngành, lĩnh vực có tính cạnh tranh cao (tức là cho phép nước ngoài hoặc khu vực tư nhân cùng đầu tư với DNNN) hoặc ngành, lĩnh vực cần chiếm lĩnh thị trường nước ngoài thì có thể cho phép thành lập một tập đoàn kinh tế mà nhà nước giữ địa vị chi phối. + Công ty mẹ trong tập đoàn phải là một doanh nghiệp lớn có vốn đăng ký trên 100 triệu NDT và có ít nhất 5 công ty thành viên. + Ưu tiên lựa chọn những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân để phát triển thành các tập đoàn kinh tế. 2.2.2. Các giải pháp, chính sách đối với việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước. Trong thời kì đầu của cải cách doanh nghiệp, chính phủ Trung Quốc đã nhận thấy tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong sản xuất, marketing và đổi mới công nghệ. Điều này là để thích ứng với sự phân tách nặng nề về ngành và thị trường giữa các cơ quan hành chính nhà nước. Các hoạt động trong nhiều ngành thường được thực hiện theo kế hoạch chứ không phải là hoạt động tự thân của các doanh nghiệp, do đó không cần phải có các tập đoàn kinh tế. Kể từ khi thực hiện cải cách, hệ thống kế hoạch hoá tập trung bắt đầu bị phá bỏ cùng với mức độ cải cách kinh tế và mở cửa ngày càng sâu rộng, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp nhằm sớm hình thành và phát triển TĐKT. * Thúc đẩy liên kết và hợp tác kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà nước. Từ đặc điểm chung của các tập đoàn kinh tế trên thế giới là có quy mô lớn về vốn, lao động, phạm vi hoạt động rộng, các doanh nghiệp trong tập đoàn liên kết với nhau thông qua vốn, sản phẩm công nghệ, chiến lược phát triển…Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp để thúc đẩy liên kết và hợp tác kinh tế giữa các doanh nghiệp DNNN nhằm hình thành nên các tập đoàn kinh tế. Trong giai đoạn đầu cải cách khi hệ thống luật pháp về doanh nghiệp chưa hoàn thiện, chính phủ Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp hành chính để bắt buộc các doanh nghiệp sáp nhập lại với nhau. Đây thường là các doanh nghiệp nhà nước đã có sẵn mối liên kết theo ngành từ trước nhưng cũng có khi chính phủ dựa trên nhu cầu, định hướng của nền kinh tế để sáp nhập các doanh nghiệp không cùng ngành lại với nhau. Để tập đoàn kinh tế hoạt động thực sự hiệu quả sự tự nguyện, cùng có lợi giữa các bên tham gia là yếu tố quyết định. Năm 1993, Trung Quốc đã ban hành luật công ty, nhằm “thiết lập hệ thống DNNN hiện đại với quyền và trách nhiệm về tài sản được xác định rõ ràng; tách bạch DNNN khỏi quản lý nhà nước với cơ cấu quản lý hiện đại phù hợp với nền kinh tế thị trường”. Theo đó các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động theo luật xí nghiệp quốc hữu (1988) đủ điều kiện sẽ được chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty hoàn toàn vốn nhà nước. Sở dĩ Trung Quốc lựa chọn giải pháp công ty hoá là vì công ty là hình thức căn bản của doanh nghiệp hiện đại có ưu điểm là có thể khắc phục được các khuyết điểm của các doanh nghiệp nhà nước trước đây. Điều đó được thể hiện qua các điểm sau: - Công ty hoá với nghĩa rộng bao gồm chế độ cổ phần mà chế độ cổ phần có nhiều hình thức, ngoài ra còn có các hình thức công ty khác (như công ty trách nhiệm hữu hạn do nhà nước đầu tư 100% vốn) có thể được làm hình thức quá độ tiến tới thực hiện chế độ cổ phần và lập ra công ty cổ phần hữu hạn. - ưu điểm lớn nhất là nó thúc đẩy quan hệ quyền tài sản trở nên rõ ràng, rành mạch. Công ty cổ phần hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn có hai người trở lên góp vốn đều phải lấy sự rõ ràng, rành mạch về quyền tài sản làm tiền đề. - Công ty hoá doanh nghiệp nhà nước có lợi cho việc thu hút tài sản của các doanh nghiệp khác hoặc tham gia vào các doanh nghiệp khác kể cả công ty do nhà nước đầu tư 100% vốn (do quyền sở hữu cuối cùng và quyền sở hữu pháp nhân đã được phân định rõ ràng). Cho nên các doanh nghiệp có thể thu hút các pháp nhân khác tham gia vào doanh nghiệp của mình, từ đó trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn có cổ phần pháp nhân, hoặc tham gia vào công ty khác, góp cổ phần, các doanh nghiệp đan xen nhau. Điểm quan trọng hơn là nó có thể thật sự phát triển các tập đoàn kinh tế, thống nhất chỉ huy các doanh nghiệp tham gia tập đoàn thông qua sự kết tụ và ràng buộc về quan hệ tài sản. Biện pháp cổ phần hoá cũng được áp dụng nhằm tạo điều kiện cho các DNNN mở rộng quy mô. Các DNNN sau khi cổ phần hoá, tiếp tục tham gia cổ phần, nắm giữ cổ phần khống chế, hình thành chuỗi công ty mẹ – công ty con – công ty cháu. Đặc biệt là công ty đầu tư tài sản nhà nước có thực lực hùng hậu là công ty mẹ của một số công ty lớn (hoặc một số doanh nghiệp cổ phần), bằng cách nắm giữ quyền sở hữu cổ phần chủ yếu nó kiểm soát các công ty lớn. Các công ty lớn cũng dùng phương thức ấy để kiểm soát các công ty con công ty cháu. Có trường hợp Trung Quốc cải tạo cơ quan chủ quản của ngành cũ thành công ty có tư cách pháp nhân kinh tế, cổ phần hoá ngân hàng chuyên ngành thành doanh nghiệp cổ phần, hoặc thành lập doanh nghiệp cổ phần mới…Do chúng đều là các pháp nhân độc lập cho nên quan hệ với nhau không phải là quan hệ hành chính mà là quan hệ quan hệ kinh tế thuần tuý giữa các pháp nhân bình đẳng, là quan hệ kiểm soát cổ phần giữa công ty mẹ và công ty con. Như vậy công ty hoá và cổ phần hoá đều thích ứng với đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá, giúp cho việc hình thành hệ thống kết cấu mạng, cấu trúc lực lượng sản xuất theo chiều dọc và chiều ngang, hình thành nên các tập đoàn kinh tế. * Thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ. Các TĐKT nhà nước được chính phủ Trung Quốc linh hoạt áp dụng các chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này không ngừng lớn mạnh. Trung Quốc thành lập Uỷ ban trung ương các doanh nghiệp lớn nhằm tách rời các tập đoàn kinh tế với các cơ quan hành chính của chính phủ. Chúng trở thành những đơn vị lập kế hoạch độc lập không phụ thuộc vào cơ quan hành chính địa phương và các cơ quan nhà nước khác. Dưới sự bảo lãnh của ngân hàng các tập đoàn kinh tế nhà nước được phép thành lập các công ty tài vụ, cho phép tăng khả năng huy động vốn trong toàn bộ tập đoàn. Các tập đoàn kinh tế mới thành lập được hưởng các khoản vay ưu đãi, và các chính sách đãi ngộ khác nhau ở mỗi địa phương…Các tập đoàn kinh tế nhà nước quản lý trực tiếp xuất nhập khẩu của tập đoàn và được hưởng đặc quyền nộp thuế chung ở câp tập đoàn. * Nâng cao chất lượng đội ngũ quản trị doanh nghiệp. Sau một thời gian dài của thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở Trung Quốc phần lớn trở nên kém năng động, chậm thích nghi với cơ chế thị trường, không đáp ứng được với đòi hỏi ngày càng cao của nên kinh tế. Vì vậy, đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp được chính phủ Trung Quốc quan tâm hàng đầu. Bên cạnh nâng cao chất lượng nền giáo dục trong nước Trung Quốc còn chú trọng đến vấn đề tài trợ cho các lưu học sinh sang học tập tại các nước tư bản tiên tiến nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Trung Quốc cũng là một trong số ít những nước đang phát triển đã thành công trong lĩnh vực ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám. Với biện pháp trả lương bằng hoặc tương đương với các phát triển Trung Quốc đã huy động được số lượng lớn các Hoa kiều, các lưu học sinh và các doanh nhân nước ngoài làm việc cho các doanh nghiệp trong nước. Trung Quốc cũng sử dụng kinh ngiệm của đội ngũ này để xây dựng các loại hình doanh nghiệp, các chiến lược kinh doanh, cạnh tranh….đã được áp dụng thành công ở các nước phát triển. * Xây dựng các định chế thị trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tập đoàn kinh tế. Trung Quốc hình thành và phát triển các TĐKT trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ngày càng giảm, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh để tự lớn mạnh. Muốn vậy phải xây dựng một hệ thống thị trường hoàn chỉnh nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của các TĐKT. Trong đó phải kể đến thị trường chứng khoán, thị trường thông tin, thị trường hàng hoá tiêu dùng… - Phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán có nhiều tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của các công ty và các tập đoàn kinh tế. Nó là cộng sự hữu hiệu để huy động vốn của các công ty, là nơi bỏ vào hoặc rút vốn ra một cách nhanh chóng của các nhà đầu tư. Mặt khác, đó là nơi phản ánh đúng đắn giá trị của công ty cũng như cổ phần của nó. Do đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán một hay toàn bộ công ty, thúc đẩy sự xâm nhập, thôn tính lẫn nhau giữa các công ty tạo thành những công ty có quy mô lớn hơn hoặc chùm các công ty gắn bó với nhau qua góp vốn. Phát triển thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khơi thông dòng lưu chuyển vốn giữa các thành phần kinh tế. Trung Quốc đã giảm và từng bước xoá bỏ sự khống chế quá cứng nhắc đối với doanh nghiệp phát hành chứng khoán, nới lỏng điều kiện phát hành chứng khoán doanh nghiệp, đơn giản hoá thủ tục phê duyệt doanh nghiệp phát hành chứng khoán, tăng số lượng và hình thức chứng khoán doanh nghiệp, thoả mãn nhu cầu của các nhà đầu tư. Giải quyết nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp nhà nước loại vừa và lớn, của các tập đoàn kinh tế bằng cách ngày càng dựa nhiều vào việc phát hành trái khoán công khai ngoài xã hội, tăng lượng phát hành trên thị trường. Thông qua thị trường chứng khoán các doanh nghiệp có thể lựa chọn những doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá làm ăn hiệu quả để đầu tư vốn, tạo mối quan hệ ràng buộc, đan xen nhau thông qua việc nắm giữ cổ phần nhiều hay ít. Bên cạnh đó Quốc vụ viện còn chú trọng xây dựng các thị trường khác về quyền tài sản như: thị trường đấu giá doanh nghiệp, thị trường thuê mướn doanh nghiệp, thị trường giao dịch của doanh nghiệp phá sản, thị trường sát nhập doanh nghiệp v.v…để giao dịch về quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, hình thành nên các TĐKT. - Phát triển thị trường thông tin. Trung Quốc chủ trương thị trường hoá ngành thông tin, dồn sức gây dựng và phát triển thị trường thông tin, đi đôi với quản lý thị trường này. Một mặt chính phủ coi trọng việc định ra các pháp quy và điều lệ để đảm bảo việc vận hành bình thường của thị trường thông tin mặt khác nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển để phục vụ nhu cầu phát triển của các TĐKT . Trung Quốc đặc biệt quan tâm phát huy vai trò chủ lực của các trung tâm thông tin thuộc các cơ quan nhà nước các cấp, phát triển hệ thống dịch vụ thông tin với nhiều ngành khác nhau, nhiều cấp độ khác nhau, hình thành mạng thông tin thông suốt có hiệu quả cao. - Phát triển thị trường hàng hoá tiêu dùng. Thị trường hàng hoá tiêu dùng cũng là điều kiện quan trọng đối với các TĐKT, vì nó đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động, mở rộng thị trường và cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh ( Trung Quốc có thị trường nội địa rộng lớn với hơn một tỷ dân). Chính quyền các cấp, các cơ quan hữu quan đã quán triệt tinh thần tôn trọng quy luật giá trị, tạo ra môi trường để các TĐKT thật sự tự do giao dịch, mở cửa để họ thực sự tiếp cận thị trường Đông – Tây, tôn trọng sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh. Bên cạnh đó chính phủ còn đẩy mạnh việc cải cách chế độ tiền lương, thưởng, bảo hiểm xã hội cho cán bộ công nhân viên chức. Từ đó mở rộng cơ hội lựa chọn tiêu dùng và tăng dung lượng tiêu dùng của dân chúng. 2.2.3. Quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Trung Quốc. Quá trình hình thành và phát triển của các TĐKT tại Trung Quốc đã trải qua 5 giai đoạn khác nhau: Giai đoạn 1: Sự phôi thai của các TĐKT. Đặc điểm chính của giai đoạn này là tạo điều kiện cho việc cùng quản lý giữa các doanh nghiệp có liên quan mà không làm thay đổi cơ cấu sở hữu. Kể từ năm 1978, cải cách doanh nghiệp đã mang lại nhiều quyền tự chủ hơn cho các DNNN. Các lãnh đạo doanh nghiệp bắt đầu chịu trách nhiệm tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trở nên quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp . Đầu năm 1980, Quốc vụ viện Trung Quốc đã thực hiện chính sách nhằm “tận dụng các lợi thế so sánh, xây dựng một môi trường cạnh tranh và thúc đẩy sự hợp tác”, theo đó nhiều tập đoàn dựa trên việc cùng quản lý đã được thành lập. Việc cùng quản lý đã loại bỏ được những rào cản giữa các lĩnh vực và các ngành công nghiệp, tái thiết lại ngành công nghiệp tạo điều kiện cho chuyên môn hoávà tránh được những trùng lặp về dự án. Tuy nhiên, những hạn chế của việc cùng quản lý cũng rất lớn. Sự thay đổi cơ cấu sở hữu, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan hành chính nhà nước (chủ sở hữu của các DNNN) và sự thay đổi của hoạt động tài chính và cách thức phân chia lợi nhuận là không được phép. Giai đoạn 2: Sự xuất hiện của các TĐKT. Vào ngày 23/3/1996 Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành một văn bản chính thức là “Quy chế thúc đẩy liên kết và hợp tác kinh tế theo chiều ngang ”. Các DNNN được khuyến khích thành lập các TĐKT mà không có bất kì một hạn chế nào về địa bàn, lĩnh vực và ngành nghề. Đây là mốc cơ bản đánh dấu sự ra đời của các tập đoàn kinh tế tại Trung Quốc. Vào cuối năm 1996, đã có tới 31.000 loại hình tổ chức liên kết doanh nghiệp khác nhau trong các ngành các lĩnh vực. Một thời gian ngắn sau đó, hầu hết đều trở thành các tập đoàn kinh tế. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực sản xuất sau đó lan các lĩnh vực khác như nghiên cứu và đổi mới công nghệ, cung cấp nguyên liệu thô, bán sản phẩm, tiếp cận nguồn tín dụng và đầu tư các dịch vụ chia sẻ thông tin. Trên cơ sở những lĩnh vực vày, nhiều đơn vị, dù có quan hệ chặt chẽ hay lỏng lẻo đều liên kết với nhau thông qua vốn, sản phẩm, công nghệ chiến lược phát triển, dịch vụ, thông tin, v.v… Việc hình thành sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và sau đó là các tập đoàn kinh tế đã làm giảm đáng kể sự can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp, phát triển thị trường khu vực, và phá vỡ sự xé lẻ theo lĩnh vực của hệ thống kế hoạch hoá. Giai đoạn 3: Sự hình thành các tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên, chính sách sau đó đã không cho phép việc sáp nhập và mua lại giữa các DNNN. Các doanh nghiệp có thể thiết lập hợp tác chiến lược nhưng không được phép tái cơ cấu để tận dụng những lợi thế của việc liên kết. Để giải quyết vấn đề này, Uỷ ban cải cách cơ cấu nhà nước và Uỷ ban kinh tế nhà nước đã đề xuất tiếp tục thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế dựa trên hợp tác doanh nghiệp qua “Đề xuất thành lập và phát triển các tập đoàn kinh tế ” vào tháng 12/1987, bao gồm các đề xuất sau: Thứ nhất: Lý do thúc đẩy hình thành các TĐKT là để thống nhất thị trường bị phân tách, cải cách các DNNN đã tự đảm bảo cho hoạt động của mình, tái cơ cấu các ngành, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cùng với quá trình chuyên môn hoá, tận dụng những lợi thế kinh tế nhờ quy mô và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả. Hơn nữa, tập đoàn kinh tế sẽ thúc đẩy sự đổi mới công nghệ và củng cố công nghệ cho các doanh nghiệp, và do đó sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Thứ hai: Các nguyên lý cho việc hình thành các tập đoàn kinh tế là cùng có lợi, tự do tham gia và rút khỏi, và chống lại độc quyền trong hoạt động. Thứ ba: Những đòi hỏi cho việc thành lập các tập đoàn kinh tế là rõ ràng. Với cấu trúc doanh nghiệp có cấp độ, tập đoàn kinh tế được phép thống nhất quản lý trong đầu tư, tài sản, các chiến lược kinh doanh và marketing. Đồng thời TĐKT cũng khai thác được khả năng thành lập các công ty cổ phần, tách rời sở hữu với quản lý. Thứ tư: Các chính sách đặc biệt thúc đẩy sự hình thành các TĐKT cũng được đưa ra. Tập đoàn kinh tế cần có tự chủ trong quản lý, quyền định giá, quyền quyết định bán ở đâu, đầu tư vào đâu, và sản xuất cái gì, quyền xuất khẩu sản phẩm và nhập công nghệ nước ngoài. Hầu hết các quyền kiểm soát do các cơ quan hành chính nhà nước nắm giữ phải được chuyển giao sang cho lãnh đạo của các tập đoàn kinh tế. “Đề xuất thành lập và phát triển tập đoàn kinh tế” dẫn đến làn sóng phát triển đầu tiên của các TĐKT . Vào cuối năm 1989, Trung Quốc đã có 1.630 tập đoàn kinh tế đăng ký thành lập. Tuy nhiên hầu hết đều là các tập đoàn kinh tế hình thành một cách lỏng lẻo, và vẫn chịu sự can thiệp lớn của chính phủ. Giai đoạn 4: Chính thức hoá các tập đoàn kinh tế. Để thúc đẩy sự phát triển của tập đoàn kinh tế, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Đề án thí điểm tập đoàn kinh tế” vào tháng 12/1991. Mục tiêu chủ yếu của việc thí điểm là xác định những mô hình hiệu quả cho TĐKT, cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách để đưa ra các chính sách thuận lợi cho TĐKT và thúc đẩy mạnh hơn sự phát triển của các TĐKT. Các biện pháp cụ thể về việc xây dựng các TĐKT cũng được đưa ra. Những biện pháp này mang lại cho doanh nghiệp nhiều quyền kiểm soát hơn. Công ty mẹ (công ty tập đoàn) được: (1) Báo cáo trực tiếp cho cơ quan chính phủ có thẩm quyền về kế hoạch hàng năm và kế hoạch phát triển của mình. (2) Ký kết các hợp đồng trực tiếp với cơ quan chính phủ được chỉ định và sau đó ký hợp đồng phụ với các công ty con hoặc doanh nghiệp thành viên của mình. (3) Chịu trách nhiệm đối với việc hoàn trả các khoản vay cho các đầu tư lớn trong tập đoàn. (4) Quản lý các hoạt động kinh doanh và thương mại khác. (5) Báo cáo tất cả việc mua bán tài sản cho Uỷ ban quản lý và giám sát tài sản của nhà nước. (6) Bổ nhiệm lãnh đạo của các công ty thành viên. Việc kiểm soát công ty mẹ được đảm bảo thông qua: + Thành lập mối quan hệ công ty mẹ – công ty con thông qua đầu tư. + Trực tiếp quản lý DNNN thành viên được phê duyệt. Vào năm 1997, thí điểm lần hai được bắt đầu với 63 TĐKT khác. Thí điểm lần này tập trung vào vấn đề tiếp cận tín dụng và đầu tư vốn ở các TĐKT. Công

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24562.DOC
Tài liệu liên quan