Luận văn Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty DETESCO Việt Nam

Mục lục

Lời nói đầu

Phần I : Những vấn đề cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất nhập khẩu

I. Khái niệm, vai trò, chức năng, các công cụ quản lý xuất nhập khẩu

1. Hoạt động xuất khẩu

2. Hoạt động nhập khẩu

II. Nội dung hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

1. Chuẩn bị trước khi ký kết hợp đồng

2. Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng

3. Thực hiện hợp dồng xuất nhập khẩu

4. Đánh giá kết quả hoạt động xuất nhập khẩu

III. Các yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

1. Các yếu tố trong doanh nghiệp

2. Các yếu tố ngoài phạm vi doanh nghiệp

Phần II: Nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu tại Công ty DETESCO VN

I. Khái quát về Công ty DETESCO VN

1. Lịch sử hình thành và phát triển củaCông ty

2. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức bộ máy của Công ty

3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

II. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

1. Quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu

2. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

a. Cơ cấu xuất nhập khẩu

b. Kim ngạch nhập khẩu theo mặt hàng

c. Kim ngqạch nhập khẩu theo thị trường

d. Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng

e. Kim ngqạch xuất khẩu theo thị trường

3. Phương thức xuất nhập khẩu của Công ty

III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty

1. Kết quả chung

2. Đánh giá hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty DETESCO VN

2.1. Bộ máy tổ chức quản lý

2.2. Thị trường và nghiên cứu thị trường

2.3. Mặt hàng xuất nhập khẩu

2.4. Hoạt động xuất nhập khẩu

2.5. Đánh giá tổng kết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

Phần III : Phương hướng phát triển, một số biện pháp nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty DETESCO VN

I. Phương hướng phát triển của Công ty trong những năm tới

1. Phương hướng chung

2. Nhiệm vụ cụ thể

II. Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty DETESCO VN

1. Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý cán bộ

2. Chú trọng đến nghiên cứu thị trường

3. Củng cố quan hệ với bạn hàng, khách hàng

4. Giải pháp giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng

5. Đối sách với đối thủ cạnh tranh

6. Xác định lượng xuất nhập khẩu tối ưu

7. Thay đổi cơ cấu nhập khẩu

8. Tăng cường xuất khẩu

III. Các tiền đề cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty

1. Vốn kinh doanh

2. Nguồn nhân lực

3. Một số kiến nghị đối với nhà nước

 

doc76 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty DETESCO Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cây, tã giấy,...Công ty cũng phát triển xuất khẩu một số mặt hàng nông sản như: cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cao su, gốm,.... Công ty thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp với các mặt hàng đa dạng về chủng loại do đó khách hàng của công ty rất phong phú. Hiện nay công ty đã có một hệ thống khách hàng thường xuyên, có quan hệ tin tưởng lẫn nhau. Hiện nay công ty tiếp tục khai thác hệ thống khách hàng này, phục vụ nhu cầu của họ trên cơ sở hợp tác kinh doanh hai bên cùng có lợi. Công ty tiếp tục phát triển quan hệ với các công ty khác có nhu cầu. Ngoài ra công ty còn đặt mối quan hệ với các Doanh nghiệp thương mại khác để phát triển kinh doanh. Về khách hàng nước ngoài công ty có mối quan hệ với các nước như: Nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng của Thái Lan, Italia, Anh, Đài Loan, Hồng Kông, Đức, Pháp, Nga, Trung Quốc, Malayxia...xuuất khẩu sang các thị trường là: thị trường EU, thị trường Châu á, thị trường Đông Âu... Hiện nay công ty đã có hệ thống khách hàng trong và ngoài nước ổn định có quan hệ thường xuyên. đây là cơ sở quan trọng cho công ty phát triển thị trường xuất nhập khẩu và nguồn hàng xuất nhập khẩu trong tương lai. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty 1. Quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu: Có thể nói quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty DETESCO Việt Nam ngày càng trở nên sôi động bởi đây là hoạt động kinh doanh chủ lực của công ty. Trong mấy năm đầu mới thành lập do vốn còn hạn chế hơn nữa là công ty trẻ mới thành lập (1996) nên chưa có kinh nghiệm do đó hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty chưa có chỗ đứng trên thương trường. Nhưng vài năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty đã có những bước phát triển đáng kể đã đứng vững, tồn tại và phát triển. Cụ thể nó được thể hiện qua bảng kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty DETESCO Việt Nam Phân tích cơ cấu xuất nhập khẩu: Để phân tích sự thay đổi cơ cấu xuất nhập khẩu, ta phân tích bảng sau đây: Biểu 3: Bảng kim nghạch xuất nhập khẩu của công ty từ năm 1998 - 2001 Đơn vị USD Năm 1998 1999 2000 8 tháng 2001 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng N.khẩu 5174125,2 84,27 5834019,3 83 6231104,48 82,43 6974168,53 KH7800000 87,32 X.khẩu 965406 15,73 1195472 17 1327425 17,57 1012573 KH1700000 12,68 Tổng 6139531,2 100% 7029491,3 100% 7558529,48 100% 7986741,53 KH9500000 100% Trước hết về kim nghạch xuất khẩu của công ty trong giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2000 đã tăng lên hơn 1,37 lần. Con số này nói lên tuy rằng mức độ tăng lên không cao nhưng nó cũng đã chứng tỏ cho ta thấy rằng kim ngạch xuất khẩu của công ty có tăng lên nhưng với tốc độ chậm. Năm 1998 các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty là cà phê, hạt điều, cao su, gốm...với thị trường xuất khẩu chính là Nhật, Nga (SNG), Trung Quốc, úc, ấn Độ. Kim ngạch đạt 965406 USD. Năm 1999 đạt 1195472 USD tăng so với năm 1998 là 230066 USD tức tăng 23,83%. Sang năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 1327425 USD tăng so với năm 1006 là 131953 hay tăng 11,04%. So sánh trong 3 năm 95 - 96 - 97 thì ta thấy năm 1999 là năm công ty đạt tốc đọ tăng trưởng cao nhất trong xuất khẩu và đây cũng là lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của công ty vượt qua mức 1 triệu USD. Năm 2001 công ty đặt ra kế hoạch mức kim ngạch xuất khẩu là 1700000USD. Trong 8 tháng qua công ty đã đạt được mức kim ngạch xuất khẩu là 1012573 USD đạt 59,6% soo với kế hoạch cả năm. Nói chung ta thấy đầu năm công ty dự kiến đặt ra kế hoạch cao khó có thể đạt được vì vừa qua do khủng hoảng kinh tế của các nước châu á. Trong mấy tháng còn lại công ty cần phải cố gắng hết sức. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân trong 3 năm ( 95-96-97 ) là 17,43%. Hai con số cho thấy tỷ trọng của xuất khẩu tăng dần lên trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu trong tổng kim ngạch thể hiện là: Năm 1998 nhập khẩu chiếm 84,27%, xuất khẩu chiếm 15,73%. Năm 1999 nhập khẩu chiếm 83%, xuất khẩu chiếm 17%. Năm 2000 nhập khẩu chiếm 82,43%, xuất khẩu chiếm 15,57%. 8 tháng năm 2001 nhập khẩu chiếm 87,32%, xuất khẩu chiếm 12,68%. Ta thấy từ năm 1998 đến năm 2000 ta thấy tỷ trọng xuất khẩu tăng đều, tăng chậm. Còn tỷ trọng nhập khẩu giảm chậm. Nhưng tám tháng năm 2001 ta thấy xuất khẩu lại có chiều hướng giảm, còn tỷ trọng nhập khẩu lại tăng lên cụ thể 8 tháng năm 2001 tỷ trọng nhập khẩu chiếm 87,32% tăng hơn so với năm 2000 4,89%. Tỷ trọng nhập khẩu tăng lên như vậy là do từ đầu năm 2001 tới nay công ty chủ yếu là nhập khẩu do đó tỷ trọng nhập khẩu tăng còn tỷ trọng xuất khẩu giảm. Nói chung giá trị kim ngạch xuất khẩu của công ty DETESCO Việt Nam là rất nhỏ bé so với thị trường thượng mại quốc tế nước ta và so với kim ngạch nhập khẩu. Chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu rất lớn và ngày càng doãng ra bởi tỷ trọng lớn của nhập khẩu. Năm 1998 chênh lệch này là 4208719,2 USD. Năm 1999 chênh lệch này là 4638547,3 USD. Năm 2000 chênh lệch này là 4903679,48 USD. 8 tháng năm 2001 chênh lệch này là 5961595,53 USD. Hiện tượng thân hụt thương mại của công ty phát triển kinh tế kỹ thuật Việt Nam là điều bình thường bởi các lý do: Thứ nhất đâylà tình hình chung của một nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu nhập khẩu vật tư thiết bị để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước và hàng tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu của nhân dân là rất lớn, điều đó dẫn đến thâm hụt thương mại là tự nhiên. Thứ hai là thuộc về công ty, công ty phát triển kinh tế và kỹ thuật ngay từ khi thành lập kinh doanh một số ngành nghề trong đó có ngành kinh doanh xuất nhập khẩu là chiếm ưu thế. Trong ngành kinh doanh này thì hoạt động nhập khẩu chiếm chủ yếu, được Trung ương Đoàn đỡ đầu giao cho nhiệm vụ kinh doanh tạo ra lợi nhuận để xây dựng quĩ học bổng học sinh sinh viên nghèo vượt khó. Nhờ đó công ty có lợi thế và xin được nhiều hạn ngạch nhập khẩu, hơn nữa đội ngũ nhân viên cũng quen với việc thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu. Do đó hoạt động nhập khẩu là hoạt động chính trong kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty là hợp lý và có điều kiện thuận lợi. Mặt khác với hoạt động xuất khẩu công ty có nhiều bỡ ngỡ trong việc thực hiện, công ty không có sự am hiểu đầy đủ về mặt hàng xuất khẩu như qui cách, phẩm chất, giá cả, các thông lệ và giao dịch truyền thống với mặt hàng. Thêm vào đó là việc tìm hiểu và thâm nhập thị trường xuất khẩu là rất khó khăn bởi luôn có sự cạnh tranh và thâm nhập đòi hỏi phải có chi phí rất lớn mà công ty thì mới thành lập nên cũng chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như là vốn. Ngoài ra có nhiều lý do khác khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu trở nên khó khăn khi kinh doanh. Tuy vậy cũng không thể phủ nhận những cố gắng trong hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của công ty. Đó chính là sự tăng lên đều đều, liên tục của kim ngạch xuất khẩu trong một vài năm qua. Cơ cấu XNK với tỷ trọng NK chiếm ưu thế còn cho thấy hoạt động nhập khẩu có vai trò vô cùng quan trọng trong sự tồn tại và phát triển kinh tế kỹ thuật của Trung tâm thương mại thuộc Công ty phát triển kinh tế kỹ thuật Việt Nam. Vai trò này thể hiện qua một số khía cạnh sau đây: - Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chính trong việc kinh doanh XNK của Trung tâm thương mại thuộc công ty. Nó tạo ra mức kim ngạch lớn đảm bảo cho sự tồn tại của trung tâm thương mại thuộc công ty, tạo ra uy tín của công ty trên thương trường. - Nhập khẩu mang lại mức lợi nhuận cao đảm bảo cho sự tăng trưởng, phát triển liên tục của trung tâm thương mại thuộc công ty. Đây là nguồn đảm bảo thu nhập cho người lao động, nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên. - Nhập khẩu là tiền đề, nền tảng cho hoạt động kinh doanh XNK của công ty trong việc kinh doanh XNK thì nhập khẩu tạo ra nhiều lợi nhuận để đóng góp cho ngân sách Nhà nước và tạo ra lợi nhuận để đóng góp vào quĩ học bôngr của học sinh, sinh viên nghèo vượt khó. - Nhập khẩu và việc mở rộng thị trường tăng cường các mối quan hệ của công ty là các vấn đề có mối quan hệ hữu cơ làm tiền đề thúc đẩy lẫn nhau. - Nhập khẩu là môi trường tốt cho cán bộ làm công tác kinh doanh XNK tự đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm. Kết quả kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu của công ty Từ khi thành lập cho đến nay cán bộ làm công tác XK tại công ty đã nghiên cứu thị trường trong nưóc để nhập một số mặt hàng. Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty là sắt thép, văn phòng phẩm, xe máy, kính xây dựng, tã giấy... Ta thấy các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty có cả vật tư lẫn hàng tiêu dùng, tuy nhiên các mặt hàng đã đóng góp vào kim nhach nhập khẩu chung khác nhau. Có mặt hàng kim ngạch lớn, nhỏ, có mặt hàng tương đối ổn định về kim ngạch, tốc độ tăng trưởng nhưng cũng có những mặt hàng biến đổi không đều. Sau đây ta phân tích kim ngạch và sự biến đổi một số mặt hàng quan trọng của công ty. Sắt thép: Đây là mặt hàng nhập có tính truyền thống của công ty trong 3 năm 95-96-97 thì kim ngạch mặt hàng này giảm chậm. Năm 1998 kim ngạch đạt 1712374 USD, năm 1999 kim ngạch đạt 1672320 USD, năm 2000 kim ngạch đạt 1527567 USD. Mặc dù trong 3 năm kim ngạch mặt hàng này giảm, tỷ trọng cũng giảm nhưng nói chung là giảm ít. Nhưng mặt hàng này vẫn là mặt hàng chính của công ty, nó là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu hơn nữa nó có nguồn hàng ổn định từ nước ngoài, với thị trường trong nước và các xí nghiệp, công ty thương mại có quan hệ tốt với công ty. Tám tháng năm 2001 công ty đạt 1472722 USD chiếm tỷ trọng 21,1%, dự đoán đến hết năm 2001 kim ngạch mặt hàng này sẽ cao hơn năm 2000. Văn phòng phẩm ( Máy vi tính ) Đây là mặt hàng mới của công ty. Công ty mới nhập mặt hàng này từ năm 1999. Cho đến nay, mặc dù mặt hàng này mới được nhập nhưng mức kim ngạch tăng lên rất nhanh và chiếm tỷ trọng rất cao. Cụ thể năm 1999 kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt 213772 USD chiếm tỷ trọng 3,66% so với tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty. Sang đến năm 2000 kim ngạch đã tăng lên mức chóng mặt vượt qua mức 1 triệu USD cụ thể mức kim ngạch đạt 2182486 USD tăng lên gầp hơn mười lần so với năm 1999. Lúc này nó chiếm tỷ trọng 35%, đây là mặt hàng đạt mức kim ngạch cao nhất trong tổng mức kim ngạch nhập khẩu của công ty. Và chỉ trong 8 tháng năm 2001 mặt hàng này đã đạt mức kim ngạch 2880390 USD tăng so với cả năm 2000 là 697922 USD và nó chiếm tỷ trọng 41,3% so với tổng kim ngạch. Đây là mức tỷ trọng cao, dự kiến đến hết năm 2001 mức kim ngạch còn cao nữa. Mặt hàng này đạt được mức kim ngạch cao như vậylà do năm 1999 công ty đã nắm bắt được nhu cầu của thị trường và cho đến nay đây vẫn là mặt hàng được tiêu thụ mạnh ở trên thị trường trong nước bởi mặt hàng này tiện lợi trong công việc. Ngày nay máy vi tính không chỉ có trong các cơ quan xí nghiệp mà nó còn là vận dụng trong gia đình. Hiện nay ta thấy đây là mặt hàng nhập khẩu chủ lực của công ty nó đạt mức kim ngạch cao nhất trong tất cả các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty. Và có thể nói đây là mặt hàng trong tương lai vẫn còn phát triển do đó công ty cần cố gắng duy trì mặt hàng này bởi mặt hàng này đem lại lợi nhuận cao cho công ty và mặt hàng này thị trường nước ngoài cũng ổn định. Còn trong nước chưa sản xuất và lắp ráp được. Xe máy Đây cũng là mặt hàng có tính truyền thống của công ty. Kim ngạch mặt hàng này thay đổi thường xuyên. Cụ thể năm 1998 kim ngạch đạt 1457623 USD chiếm 28,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Sang năm 1999 kim ngạch mặt hàng này đạt 1624967 USD tăng so với năm 1998 là 167344 USD. Sang năm 2000 kim ngạch đạt 1219300 USD giảm so với năm 1999 là 405667 USD và năm 2000 tỷ trọng mặt hàng này chiếm 19,6%. Kim ngạch và tỷ trọng mặt hàng này giảm là do năm 2000 chính phủ ra quyết định hạn chế nhập khẩu mặt hàng này. Do đó Nhà nước đánh thuế cao nhập khẩu mặt hàng này. Chính vì vậy, mứuc kim ngạch mặt hàng này giảm và tỷ trọng cũng giảm bởi công ty hạn chế nhập. Nhưng sang năm 2001 trong 8 tháng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đạt 1687800 USD chiếm 24,2% so với tổng kim ngạch nhập khẩu. Tám tháng năm 2001 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này tăng là do nhu cầu xe máy trên thị trường nước ta tăng mạnh họ vẫn chuộng hàng ngoại hơn hàng nội. Do đó công ty nhập khẩu nhiều để phục vụ nhu cầu trong nước. Công ty không nhập nguyên cả chiếc mà nhập linh kiện sau đó về lắp ráp hoàn chỉnh. Nói chung mặt hàng này chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu và mặt hàng này là có tỷ suất lợi nhuận cao nhưng cũng rất khó khăn trong việc xin hạn ngạch, nhập khẩu mặt hàng này là một thành công lớn của công ty trong quan hệ. Kính xây dựng Đây là mặt hàng có tỷ trọng ở mức trung bình. Cụ thể năm 1998 kim ngạch đạt 802716 USD, năm 1999 kim ngạch đạt 775068 USD, năm 2000 kim ngạch đạt 257614 USD. Nói chung từ năm 1998 đến năm 2000 giai đoạn này kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này có xu hướng giảm mạnh: cụ thể 1998 kim ngạch đạt 802716 USD, năm 2000 kim ngạch đạt 257614 USD giảm so với năm 1998 là 545102 USD. Sang năm 2001 trong tám tháng kim ngạch mặt hàng này đạt 375864 USD tăng hơn so với năm 2000. Đây là mặt hàng có thị trường nước ngoài ổn định hơn nữa thị trường trong nước cũng có nhu cầu coong ty nên tìm kiếm và phát triển mặt hàng này. Điện lạnh: gồm tủ lạnh, điều hoà, bình nóng lạnh. Đây là mặt hàng có tỷ trọng ở mức trung bình, năm 1998 kim ngạch nhập khẩu đạt 586125 USD, năm 1999 kim ngạch đạt 536104 USD, 2000 kim ngạch đạt 149776 USD. Năm 2000 kim ngạch mặt hàng này giảm là do năm 2000 nhiều công ty XNK nhập mặt hàng này nên công ty chịu sự cạnh tranh hơn nữa năm 2000 công ty chú ý nhiều đến mặt hàng máy vi tính. Tám tháng năm 2001 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đạt 166135 USD chiếm tỷ trọng 1,7% trong tỷ trọng tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong thời gian tới công ty cần cố gắng phát triển mặt hàng này vì nó có nguồn hàng ổn định từ nuức ngoài và nó tạo ra lợi nhuận cao. Tã giấy Đây là mặt hàng có kim ngạch nhỏ so với tổng kim ngạch nhập khẩu. Tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định cụ thể năm 1998 kim ngạch đạt 47468 USD, năm 1999 kim ngạch đạt 44680 USD, năm 2000 đạt 56431 USD, 8 tháng 2001 đạt 40930 USD. Mặt hàng này kim ngạch nhỏ nhưng tương đối ổn định có nguồn hàng ổn định từ nước ngoài, với thị trường trong nước và các xí nghiệp, công ty thương mại có quan hệ tốt với công ty. Ngoài những mặt hàng chủ yếu trên công ty còn nhập thêm các mặthàng khác như mũi khoan, máy Photocopy, ống thép, màng nhựa P.V.C Tổng hợp tất cả các mặt hàng này lại kim ngạch nhập khẩu chiếm trung bình trong tổng kim ngạch nhập khẩu hơn nữa những mặt hàng này không được ổn định. Kết quả nhập khẩu theo thị trường Các mặt hàng nhập khẩu của công ty thường được nhập khẩu từ một số quốc gia chủ yếu như: UCRAINA ( SNG ), SINGAPORE, Thái Lan, Nhật, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. Nhận xét tổng quát ta thấy thị trường UCRAINA ( SNG ) là thị trường lớn nhất của công ty trong hai năm 1998 và 1999. Sau đó đến SINGAPORE trong hai năm 2000 và 2001 nó là thị trường lớn nhất của công ty tiếp đến là thị trường Thái Lan, Nhật, Hàn Quốc, Hồng Kông và Đài Loan. * Thị trường UCRAINA ( SNG ): Đây là thị trường lớn của công ty, công ty chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch nhập khẩu của công ty. Năm 1998- 1999 kim ngạch và tỷ trọng thị trường này chiếm cao nhất trong tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty, sang đến năm 2000- 2001 kim ngạch và tỷ trọng thị trường này lại giảm đứng sau Singapore và Thái Lan. Năm 1998 kim ngạch nhập khẩu đạt 1916745 USD chiếm 37% kim ngạch nhập khẩu. Năm 1999 kim ngạch đạt 1942198 USD chiếm tỷ trọng 33,3%, năm 2000 kim ngạch đạt 1619721 USD chiếm tỷ trọng 26% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Tám tháng năm 2001 kim ngạch đạt 1219340 USD chiếm tỷ trọng 17,48% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Ta thấy tỷ trọng thị trường ucraina giảm dần qua các năm cụ thể là năm 1998 chiếm 37%, sang năm 2000 chiếm 26%. Kim ngạch năm 1999 tăng so với năm 1998 là 25453 USD tăng ít không đnág kể so với tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty. Năm 2000 tỷ trọng giảm, kim ngạch giảm so với năm 1999 là 322477 USD. Mặt hàng nhập khẩu từ thị trường UCRAINA bao gồm sắt thép, điện lạnh, mũi khoan, ô tô, nhôm thỏi...mặt hàng xuất khẩu như cà phê, hạt điều, cao su. Trong hai năm trở lại đây, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này giảm là do sự phát triển mạnh của các nước Đông Nam á. Ngày nay, các nước Đông Nam á như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông...là những thị trường lớn của Việt Nam vì những sản phẩm của các nước này đáp ứng được tốt nhu cầu của nguời Việt Nam. Hơn nữa nước UCRAINA trong mấy năm trở lại đây chưa ổn định về kinh tế cho nên hàng hoá chất lượng không cạnh tranh được với các nước đang phát triển. Cho nên nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng như điện lạnh, ô tô, mũi khoan... của UCRAINA giảm. Chính vì vậy công ty hạn chế nhập hàng hoá từ thị trường này do đó kim ngạch nhập khẩu của thị trường này giảm và tỷ trọng cũng giảm. Thị trường này có quan hệ lớn của công ty ngay từ khi thành lập công ty. Điều thuận lợi đối với công ty là giữa Việt Nam và Nga vẫn có quan hệ thân thiết trong phát triển kinh tế, các công ty Nga đã có quan hệ lâu đối với công ty Detesco Việt Nam. Do đó có sự tin tưởng giữa hai bên trong thực hiện mua bán. Tuy vậy cũng không phải không có khó khăn, việc Việt Nam còn nợ Liên Xô cũ đã gây không ít khó khăn cho việc kinh doanh của công ty. * SINGAPORE: Đây là bạn hàng có quan hệ lớn đối với công ty trong hai năm trở lại đây. Kim ngạch ở thị trường này rất lớn so với tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm 1998 kim ngạch đạt 822746 USD chiếm tỷ trọng 15,9%. Năm 1999 kim ngạch đạt 648791 USD chiếm tỷ trọng 11,12%. Năm 2000 kim ngạch đạt 1822802 USD chiếm tỷ trọng 29,25%. Tám tháng năm 2001 kim ngạch đạt 2530026 USD chiếm tỷ trọng 36,28% tổng kim ngạch nhập khẩu. Ta thấy năm 1999 kim ngạch nhập khẩu giảm so với năm 1998 là 173955 USD nhưng sang đến năm 2000 kim ngạch lại tăng mạnh so với năm 1999 là 1174011 USD. Kim ngạch tăng hơn 2,2 lần so với năm 1998. Sang đến 8 tháng năm 2001 kim ngạch đạt 2530026 USD chiếm tỷ trọng 36,28%, nó đã tăng so với năm 2000 là 707224 USD. Các mặt hàng nhập khẩu từ thị trường này là máy vi tính, điện lạnh, kính xây dựng, tã giấy. Mặt hàng máy vi tính hiện nay thị trường trong nước tiêu thụ rất mạnh trong hai năm trở lại đây kim ngạch nhập khẩu thị trường này mạnh là do đây là cường quốc phát triển mạnh về kinh tế, mặt hàng nước này chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu Việt Nam. Điều này chứng tỏ công ty đã thành công trong việc quan hệ tốt , khai thác tốt thị trường này. XU hướng của thị trường này là kim ngạch tăng tỷ trọng tăng. Đây là thị trường tốt công ty cần cố gắng khai thác tiếp bởi nó sẽ tạo ra hiệu quả cao trong kinh doanh XNK của công ty. * Thái Lan: Là thị trường có tính ổn định mặt hàng nhập khẩu từ thị trường Thái Lan chủ yếu là xe máy, hàng điện lạnh, thép... Năm 1998 kim ngạch đạt là 571648 USD chiếm 11%, năm 1999 kim ngạch đạt 621509 USD chiếm tỷ trọng 10,65%, năm 2000 kim ngạch đạt 864136 USD chiếm tỷ trọng 13,87%, 8 tháng năm 2001 kim ngạch đạt 1787429 USD chiếm tỷ trọng 25,63%. Ta thấy trong hai năm 95-96 thì tốc đọ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu tăng chậm. Năm 1999 tăng so với năm 1998 là 49861 USD hay tăng 8,7%. Năm 2000 tăng so với năm 1999 242627 USD hay tăng 39,03%. 8 tháng năm 2001kim ngạch tăng mạnh tăng so với cả năm 2000 là 923293 USD hay tăng 106,8%. Kim ngạch tăng gấp hơn hai lần so với năm 2000 lý do tăng là vì từ đầu năm 2001 tới nay công ty chủ yếu nhập khẩu xe máy và linh kiện xe máy bởi mặt hàng xe máy Thái Lan chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp nên nhu cầu thị trường trong nước cao mặc dù Nhà nước hạn chế nhập khẩu mặt hàng này nên thuế nhập khẩu mặt hàng này rất cao hơn nữa trong nước các công ty liên doanh đã lắp ráp, sản xuất được. Điều này chứng tỏ là một thành công lớn của công ty trong quan hệ bởi việc xin hạn ngạch nhập khẩu mặt hàng này là rất khó khăn. * Nhật: Là thị trường lâu đời của công ty, có quan hệ thường xuyên với kim ngạch ổn định, ít có biến động mặt hàng nhập khẩu từ thị trường này là linh kiện xe máy, ô tô, đồng.. Năm 1998 kim ngạch đạt 497208 USD chiếm tỷ trọng 9,6%. Năm 1999 kim ngạch đạt 516387 USD chiếm tỷ trọng 8,85%, năm 2000 kim ngạch đạt 297308 USD chiếm tỷ trọng 4,77%. Tám tháng năm 2001 kim ngạch đạt 344646 USD chiếm tỷ trọng 4,94%. Đây là thị trường phát triển tốt, là thị trường có tiềm năng dồi dào bởi các công ty Nhật Bản thường có uy tín cao để chúng ta tin tưởng vào khả năng tài chính cũng như tiềm năng của họ. Chất lượng hàng hoá của họ rất cao chúng ta nên khai thác tốt thị trường này sẽ tạo ra một hiệu quả cao trong kinh doanh XNK cho công ty. * Hồng Kông - Hàn Quốc: Đây là các nước có quan hệ với Việt Nam trong thị trường thương mại từ rất sớm. Tuy nhiên quan hệ của thị trường này đối với công ty ở mức kim ngạch còn thấp, kim ngạch chưa cao. Hồng Kông: Năm 1998 kim ngạch chiếm tỷ trọng 6,49%, năm 1999 chiếm tỷ trọng 5,87%, năm 2000 chiếm tỷ trọng 5,05%, 8 tháng năm 2001 chiếm tỷ trọng là 6,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Hàn Quốc: 1998 kim ngạch chiếm tỷ trọng 7,2%, 1999 chiếm 7,07%, 2000 chiếm 5,64%, 8 tháng năm 2001 chiếm 6,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Nói chung hai thị trường này có tính ổn định. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của hai thị trường này là tã giấy, linh kiện máy vi tính, xe máy. * Đài Loan: Đài Loan là thị trường có quan hệ thường xuyên với công ty với kim ngạch năm 1998 đạt 267450 USD chiếm tỷ trọng 5,16%. Năm 1999 kim ngạch đạt 270102 USD chiếm tỷ trọng 4,36%, năm 2000 kim ngạch đạt 95827 USD chiếm tỷ trọng 1,54%, 8 tháng năm 2001 kim ngạch đạt 93439 USD chiếm tỷ trọng 1,34%. Mặt hàng nhập khẩu từ thị trường này là: bàn ghế văn phòng, thiết bị điện, linh kiện máy vi tính. Nói chung mức kim ngạch nhập khẩu đạt được ở thị trường này đối với công ty còn thấp so với tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty. Thị trường này có xu hướng chung là kim ngạch tăng lên, tỷ trọng giảm xuống. Ngoài các nước kể trên còn có thị trường các nước như Inđônêxia, Italia, Đức, Pháp...Kim ngạch nhập khẩu từ các nước này không được ổn định thường xuyên, lúc cao lúc thấp. Tóm lại kế hoạch năm2001 kim ngạch nhập khẩu của công ty đạt 7800000 USD. Trong tám tháng qua công ty đã đạt 6974168,53 USD đạt 89,4% dự kiến đến hết năm 2001 công ty sẽ vượt mức kế hoạch. Qua phân tích ta thấy hiện nay công ty chủ yếu nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa có nhập khẩu máy móc, do đó công ty cần khai thác nhập khẩu thêm mặt hàng máy móc thiết bị. Hơn nữa công ty cũng cần giữ vững mối quan hệ tốt để khai thác tiềm năng của thị trường hiện có. Ta thấy công ty nhập khẩu từ các nước thuộc khối ASEAN bởi ASEAN là bạn hàng chủ yếu của Việt Nam trong hạot động xuất nhập khẩu. Và công ty cũng cần mở rộng thêm mặt hàng, thị trường để tạo ra được nhiều lợi nhuận cho công ty. Kết quả kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của công ty Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty là cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cao su, gốm. Ta thấy công ty chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm là cây công nghiệp như : Cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, lạc nhân... Nhóm hàng này mang tính thời vụ và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên thiên nhiên. Đây là mặt hàng phổ biến trên thị trường thế giới, nhiều nước có quan hệ mua bán nên giá cả thường không ổn định, cạnh tranh diễn ra gay gắt lại phụ thuộc vào những thị trường tiêu dùng lớn. Vì vậy kinh doanh nhóm hàng này cần phải nắm bắt nhanh nhậy, kịp thời, chính xác các thông tin trên thị trường, cán bộ kinh doanh phải am hiểu, có trình độ nghiệp vụ cao. Nước ta có tiềm năng về nhóm hàng này nên cũng rất trọng. Vì vậy đây cũng là mặt hàng chủ yếu của công ty. Sau đây ta phân tích từng mặt hàng chủ yếu của công ty: - Mặt hàng cà phê: luôn là mặt hàng chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty. Cụ thể năm 1998 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 402376 USD chiếm tỷ trọng 41,68%, 1999 kim ngạch đạt 421127 USD chiếm tỷ trọng 35,23% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Năm 2000 kim ngạch đạt 586742 USD chiếm tỷ trọng 44,2%. Ta thấy năm 1999 kim ngạch tăng hơn so với năm 1998 là 18751 USD nhưng tỷ trọng lại giảm. Lý do giảm là năm 1999 do nhu cầu thị trường thế giới đột ngột giảm mạnh làm giá cà phê giảm. Nhưng sang đến năm 2000 thì kim ngạch tăng so với năm 1999 là 165615 USD và tỷ trọng cũng tăng nó chiếm tỷ trọng 44,2% so với tổng kim ngạch xuất khẩu. đây là tỷ trọng rất cao. Điều này thể hiện công ty rất thành công trong việc xuất khẩu mặt hàng này mặc dù năm 1999 tỷ trọng giảm nhưng sang năm 2000 công ty đã kiểm tra lại mình, nắm bắt được thông tin trên thị trường. Nói chung mặt hàng này là mặt hàng chủ lực, có tính truyền thống của công ty, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tám tháng năm 2001 kim ngạch đạt 327416 USD chiếm tỷ trọng 32,33% trong mấy tháng còn lại của năm 2001 công ty cần cố gắng đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. - Hạt điều: Đây cũng là mặt hàng truyền thống của công ty, kim ngạch đạt được tương đối ổn định. Năm 1998 kim ngạch đạt 112037 USD, năm 1999 kim ngạch đạt 96193 USD, năm 2000 kim ngạch đạt 107000 USD, 8 tháng năm 2001 kim ngạch đạt 112340 USD. Mặt hàng này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11202.DOC
Tài liệu liên quan