Luận văn Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội

Vấn đề rủi ro đối với Ngân hàng là rất quan trọng không chỉ trong hoạt động tín dụng mà còn cả trong hoạt động bảo lãnh. Xuất phát từ chính sự an toàn của mình và yêu cầu bắt buộc theo quy định của pháp luật mà NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã yêu cầu các khách hàng khi đề nghị bảo lãnh phải có các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp hay ký quỹ. Tuy nhiên đối với những khách hàng truyền thống, có tín nhiệm, Ngân hàng cũng có thể không đề nghị đảm bảo bằng tài sản. Trên thực tế, khi khách hàng đến xin bảo lãnh, Ngân hàng thường đề nghị khách hàng ký quỹ. Hình thức ký quỹ có thể là 100% hay < 100%. Với nghiệp vụ bảo lãnh không những giúp cho Ngân hàng đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng mà còn mang lại cho Ngân hàng một nguồn vốn từ số tiền ký quỹ này. Đây là một nguồn vốn kinh doanh rẻ của Ngân hàng, nó cũng được hạch toán phí bằng mức tiền gửi trên tài khoản vãng lai của Ngân hàng (hiện nay là 0,2%/tháng). Những năm qua, số tiền ký quỹ này tăng lên đáng kể. Chúng ta theo dõi bảng số liệu sau:

 

doc67 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương, khu vực có nền kinh tế năng động nhất Thế giới. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của các nước trong khối ASEAN vào khoảng từ 7-8%/năm. Đặc biệt, nền kinh tế của Malaysia và Singapore có tốc độ tăng trưởng từ 10-11%/năm. Hầu hết các nước thuộc khối ASEAN xây dựng Ngân hàng của mình theo mô hình của Mỹ. Điều này thật dễ hiểu vì rằng so với các nước khác trên thế giới, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là nước có hệ thống Ngân hàng phát triển nhất. ở các nước thuộc khối ASEAN, hoạt động của hệ thống Ngân hàng theo mô hình Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Trung ương và các NHTM. NHTM tại các nước ASEAN, giống như tại Hoa Kỳ hoạt động theo lối chuyên doanh chặt chẽ. Nghiệp vụ bảo lãnh được NHTM các nước ASEAN tiếp thu và thực hiện một cách có hiệu quả. ở Singapore, đối với những thương vụ bảo lãnh có giá trị lớn, các Ngân hàng chỉ chấp thuận bảo lãnh cho các doanh nghiệp khi có giấy đề nghị đứng ra bảo lãnh của Chính phủ. Đây là hình thức đảm bảo gần như chắc chắn Ngân hàng sẽ không phải hứng chịu rủi ro mất vốn nếu doanh nghiệp bảo lãnh không có khả năng trả nợ khi đến hạn. Vì khi đó, Chính phủ là người bảo lãnh cho doanh nghiệp vay uy tín của Ngân hàng, cho dù Ngân hàng phải trả thay cho doanh nghiệp thì Ngân hàng cũng sẽ nhận được sự bồi thường của Chính phủ. Tuy vậy trường hợp này rất ít xảy ra ở Singapore. ở Malaysia, đất nước có những Ngân hàng được xếp vào loại lớn nhất của Thế giới. Tại nước này, đạo luật Ngân hàng được quy định rất chặt chẽ, các NHTM phải ở mức nào đó mới được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Theo luật pháp quy định thì đó phải là Ngân hàng có uy tín trên thị trường tài chính – tiền tệ trong nước và quốc tế, vốn tự có phải lớn. Quy định trên đây nhằm mục đích tránh để Ngân hàng thực hiện tràn lan việc bảo lãnh cho các doanh nghiệp, hạn chế đến mức thấp nhất trường hợp Ngân hàng phải thực hiện bảo lãnh mà không đủ khả năng thanh toán cho bên thụ hưởng bảo lãnh gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Ngân hàng. ở Inđônêxia là nước đông dân nhất trong khu vực ASEAN và đây cũng là nước có tổng thu nhập quốc dân lớn nhất so với các nước trong khu vực. Hệ thống Ngân hàng của Inđônêxia rất rộng bao gồm nhiều NHTM lớn nhỏ. Công nghệ Ngân hàng của Inđônêxia cũng thuộc loại tiên tiến trong vùng. Với nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM cho doanh nghiệp, luật pháp nước này quy định: doanh nghiệp muốn được Ngân hàng đứng ra bảo lãnh phải là doanh nghiệp lớn mạnh, có uy tín đối với khách hàng và bạn hàng. Việc Ngân hàng đứng ra bảo lãnh chỉ là giải quyết kịp thời khả năng thiếu vốn của doanh nghiệp trong thời gian nhắn hạn. Đạo luật Ngân hàng Inđônêxia chỉ rõ các NHTM không được phép bảo lãnh cho các doanh nghiệp có thời hạn bảo lãnh quá 5 năm. Việc bảo lãnh với thời hạn trên 5 năm phải do Chính phủ xem xét quyết định. Ngân hàng bảo lãnh cũng giống như nghiệp vụ cho vay, thời gian bảo lãnh càng dài hoặc thời gian cho vay càng dài thì rủi ro cho Ngân hàng càng lớn. Hệ thống Ngân hàng Thái Lan có những Ngân hàng khá mạnh và làm ăn có hiệu quả như: Krung Thai Bank, Bangkok Bank, Thai Farmer Bank… So với các nước trong khu vực thì nghiệp vụ bảo lãnh được dùng muộn hơn. Tuy vậy nghiệp vụ này được các Ngân hàng Thái Lan thực hiện rất nghiêm ngặt và thu được nhiều kết quả to lớn. ở đây các Ngân hàng chỉ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp truyền thống của mình và họ rất am hiểu doanh nghiệp mà họ đứng ra bảo lãnh. Các Ngân hàng Thái Lan nói rằng họ làm như vậy là để tránh mức thấp nhất tình trạng “thả gà ra đuổi”. Điều đáng chú ý nữa là các Ngân hàng muốn tham gia bảo lãnh phải là những Ngân hàng có uy tín lớn trên thị trường tài chính - tiền tệ trong nước cũng như quốc tế. 1.4.2. Kinh nghiệm về bảo lãnh Ngân hàng ở Trung Quốc. Về mặt lịch sử Trung Quốc có nhiều điểm giống Việt Nam. Trung Quốc cũng là nước XHCN chuyển sang nền kinh tế thị trường trong thời gian gần đây (bắt đầu từ năm 1978). Do đó trong bước đi đầu vào nền kinh tế thị trường thì Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng có thể học tập được. Tuy nhiên Trung Quốc có nhiều điểm kinh tế xã hội khác với Việt Nam, vì vậy trong chiến lược phát triển kinh tế cũng khác. ở đây ta đề cập đến nghiệp vụ bảo lãnh trong lĩnh vực Ngân hàng để xem xét, sàng lọc kinh nghiệm để áp dụng. Trước đây công cụ bảo lãnh của định chế tài chính ở Trung Quốc được áp dụng theo luật của nước ngoài. Tháng 3 năm 1987, Ngân hàng nhân dân Trung Hoa với vai trò là NHTW đã ban hành những quy chế bảo lãnh, cho phép các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân được tham gia bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho các doanh nghiệp theo luật Trung Quốc, bao gồm các thành phần hợp tác, kinh doanh và cổ phần. Nghiệp vụ bảo lãnh có một số quy định sau: - Người bảo lãnh trước khi nhận bảo lãnh phải nghiên cứu tính khả thi của dự án, điều tra tình hình công nợ hiện thời của người xin bảo lãnh, chuẩn bị mọi giấy tờ cần thiết. - Người cho vay có quyền yêu cầu người bảo lãnh báo cáo thu nhập và chi tiêu ngoại hối của mình. Người bảo lãnh phải ký kết hợp đồng riêng với cả người vay và người cho vay trước khi bảo lãnh. Trong hợp đồng phải ghi rõ quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia. Nếu người vay và người cho vay muốn sửa đổi điều gì trong hợp đồng bảo lãnh phải được sự đồng ý của người bảo lãnh, nếu không bảo lãnh sẽ mất giá trị. Trách nhiệm của người bảo lãnh sẽ huỷ bỏ ngay lập tức. Mặt khác, người bảo lãnh có quyền kiện người vay trong trường hợp không trả được nợ và nguồn vốn bảo lãnh bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người cho vay. SAEC yêu cầu người bảo lãnh phải nộp các giấy tờ bảo lãnh có liên quan từng vụ việc trong vòng 10 ngày sau khi nhận bảo lãnh. Dựa trên số liệu bảo lãnh vay vốn nước ngoài, SAEC có thể nắm được vấn đề khi nào dùng ngoại tệ để trả nợ, trên cơ sở đó họ chú trọng nguồn ngoại tệ ở tầm vĩ mô. Việc quy định chỉ một số cơ quan Ngân hàng mới được quyền bảo lãnh và danh sách bảo lãnh này thay đổi thường kỳ chính là việc quản lý của Nhà nước đối với công tác vay vốn của doanh nghiệp với nước ngoài. Trên cơ sở đó tuỳ theo từng thời kỳ và các chính sách của Nhà nước, các Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ của mình về việc tăng cường hay thu hẹp bảo lãnh vay nợ. Trung Quốc xác định việc đầu tư trong nước là đầu tư cho các doanh nghiệp của chính nước mình. Do vậy hệ thống Ngân hàng rất hạn chế đối với bảo lãnh vay vốn nước ngoài của các doanh nghiệp và phía nước ngoài trong liên doanh. Vì hạn chế như vậy nên họ yêu cầu thế chấp 100% tổng số vốn bảo lãnh. Về các nghiệp vụ bảo lãnh khác, Ngân hàng Trung Quốc có quyền bảo lãnh dựa trên quy chế của Ngân hàng trung ương. Tất cả các Ngân hàng đều có thể thực thi được miễn là họ đảm bảo được các yêu cầu (những yêu cầu này gần giống ở Việt Nam). Quy chế bảo lãnh do từng Ngân hàng quy định cụ thể. Chương 2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Nhno&ptnt Nam Hà Nội. 2.1- Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Trong thời kỳ đổi mới, dưới ảnh hưởng của khoa học công nghệ và toàn cầu hoá, các Ngân hàng không ngừng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ và mở rộng thị trường mới trong và ngoài nước. Vì đa dạng hoá và mở rộng thị trường là điều kiện để hạn chế rủi ro và cung cấp cho khách hàng về hình ảnh một Ngân hàng toàn diện. Không ngoài quy luật này, NHNo&PTNTVN đã không ngừng nâng cao công nghệ và trình độ của các cán bộ, đồng thời mở rộng thị trường trên toàn quốc. Đến nay NHNo&PTNTVN đã trở thành Ngân hàng có mạng lưới chi nhánh dày đặc nhất trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Gần đây, với tiềm năng và nhu cầu vay vốn rất cao trên địa bàn Nam Hà Nội, Ban lãnh đạo NHNo&PTNTVN đã quyết định thành lập thêm một chi nhánh nữa là NHNo&PTNT Nam Hà Nội theo quyết định 48/QĐ-HĐQT ngày 12/3/2001 và được chính thức khai trương đi vào hoạt động ngày 08 tháng 05 năm 2001 với đội ngũ cán bộ công nhân viên ban đầu là 36 người. Chi nhánh có trụ sở tại tòa nhà C3, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, phạm vi hoạt động chủ yếu là trên địa bàn quận Thanh Xuân và các quận nội thành Hà Nội. Ngay từ khi mới ra đời, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã không ngừng hoàn thiện các chính sách kinh doanh, tích cực tìm hiểu nhu cầu thị trường và khách hàng, được NHNo&PTNTVN và các Ngân hàng bạn đánh giá là một chi nhánh hoạt động lớn và có hiệu quả cao. Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn, trong bốn năm qua NHNo&PTNT Nam Hà Nội luôn đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động đầu tư tín dụng. Vượt qua khó khăn thách thức thuở ban đầu, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã đóng góp một phần lớn vào sự phát triển chung của toàn hệ thống NHNo&PTNTVN trong thời gian qua. Đến nay Ngân hàng đã có 3 chi nhánh cấp hai, 5 phòng giao dịch. Các đơn vị hoạt động có hiệu quả, nguồn vốn bình quân trên 500 tỷ/chi nhánh, trên 50 tỷ/ 1phòng giao dịch; dư nợ bình quân trên 100 tỷ/ chi nhánh và trên 30 tỷ/ 1 phòng giao dịch. Trong những năm tới, Ngân hàng tiếp tục đổi mới và phục vụ ngày càng tốt hơn cho phát triển nông thôn và hội nhập quốc tế. 2.2. Nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Ngày nay, hầu như tất cả các NHTM đã thay đổi quan điểm cho rằng hoạt động tín dụng phải là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Bởi vì, hoạt động tín dụng chứa đựng rủi ro rất cao, có thể dẫn đến sự phá sản của các NHTM. Trong khi đó, các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp cho khách hàng chứa đựng một tỷ lệ rủi ro thấp hơn và Ngân hàng vẫn thu được một lượng phí đáng kể từ các dịch vụ này. Vì vậy việc phát triển các hoạt động dịch vụ bên cạnh hoạt động tín dụng, được coi là hướng phát triển đa dạng hoá các sản phẩm nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác các hoạt động dịch vụ lại có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Các hoạt động tín dụng lâu dài sẽ tạo điều kiện triển khai và cung cấp các dịch vụ Ngân hàng hiệu quả hơn. Ngược lại, các dịch vụ mà Ngân hàng phục vụ khách hàng mà tốt sẽ giúp cho uy tín của Ngân hàng tăng lên từ đó kích thích hoạt động tín dụng phát triển. Chính vì những nguyên nhân này này mà hiện nay các Ngân hàng đã coi việc đẩy mạnh các dịch vụ như là một trong những hướng phát triển chính của Ngân hàng trong thời kỳ kinh tế thị trường. Trong các dịch vụ đó không thể không kể đến nghiệp vụ bảo lãnh. Đây được coi là một trong những dịch vụ mang lại thu nhập cao cho Ngân hàng, giúp hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trong nước phát triển cũng như mở rộng các quan hệ ngoại thương. Nắm bắt được xu thế đó, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã mạnh dạn đưa nghiệp vụ bảo lãnh vào trong hoạt động của mình với mục tiêu chính là đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Chi nhánh bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ, góp phần nâng cao uy tín, tăng khả năng cạnh tranh và mang lại một nguồn thu nhập đáng kể cho Ngân hàng. Bảo lãnh là một nghiệp vụ mới chỉ được thực hiện bắt đầu từ năm 2001 tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Mặc dù là một hoạt động mới song cho đến nay, với nỗ lực của toàn thể cán bộ Ngân hàng, bảo lãnh đã và đang phát triển cả về số lượng và chất lượng. Điều này đã thể hiện rõ qua những mặt sau: 2.2.1. Nguồn vốn từ bảo lãnh trong hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Ngay từ khi mới thành lập, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã xác định công tác huy động vốn là một hoạt động trọng tâm. Với nhiều hình thức, nhiều thể loại huy động, với nhiều biện pháp năng động thu hút nguồn vốn nội, ngoại tệ Ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu tín dụng của chi nhánh. Và nguồn vốn từ hoạt động bảo lãnh cũng góp một phần vào tổng nguồn vốn huy động đó. Vấn đề rủi ro đối với Ngân hàng là rất quan trọng không chỉ trong hoạt động tín dụng mà còn cả trong hoạt động bảo lãnh. Xuất phát từ chính sự an toàn của mình và yêu cầu bắt buộc theo quy định của pháp luật mà NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã yêu cầu các khách hàng khi đề nghị bảo lãnh phải có các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp hay ký quỹ. Tuy nhiên đối với những khách hàng truyền thống, có tín nhiệm, Ngân hàng cũng có thể không đề nghị đảm bảo bằng tài sản. Trên thực tế, khi khách hàng đến xin bảo lãnh, Ngân hàng thường đề nghị khách hàng ký quỹ. Hình thức ký quỹ có thể là 100% hay < 100%. Với nghiệp vụ bảo lãnh không những giúp cho Ngân hàng đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng mà còn mang lại cho Ngân hàng một nguồn vốn từ số tiền ký quỹ này. Đây là một nguồn vốn kinh doanh rẻ của Ngân hàng, nó cũng được hạch toán phí bằng mức tiền gửi trên tài khoản vãng lai của Ngân hàng (hiện nay là 0,2%/tháng). Những năm qua, số tiền ký quỹ này tăng lên đáng kể. Chúng ta theo dõi bảng số liệu sau: Bảng 2.1. Tỷ lệ nguồn ký quỹ trong tổng nguồn vốn huy động Đơn vị: tỷ đồng 2001 2002 2003 2004 Tổng nguồn KKH (trừ vốn UT và vốn các TCTD) 139.52 212.49 308.56 420.12 Nguồn ký quỹ 8.45 9.75 10.65 15.85 Doanh số ký quỹ 95.3 110.6 132.5 143.8 Số dư bảo lãnh 10.15 15.50 20.05 28.02 Doanh số bảo lãnh 110.2 144.2 153.3 183.3 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm) Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng, quy mô của Ngân hàng tăng lên đáng kể sau mỗi năm. Tổng nguồn vốn huy động được ngày càng nhiều giúp cho hoạt động tín dụng và các hoạt động khác cũng từ đó phát triển. Năm 2001 tổng nguồn vốn huy động là 364.83 tỷ đồng, trong đó vốn huy động không kỳ hạn sau khi đã trừ đi các nguồn vốn từ uỷ thác đầu tư và vốn của các TCTD là 139.52 tỷ đồng chiếm 21.97%. Đây là thời kỳ mới thành lập Ngân hàng nên việc huy động vốn có phần khó khăn hơn, tuy nhiên việc áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh ngay từ lúc này cũng mang lại hiệu quả cho Ngân hàng. Cụ thể là doanh số phát sinh bảo lãnh trong Ngân hàng là 110.2 tỷ đồng với doanh số phát sinh ký quỹ là 95.3 tỷ đồng, còn lại là các bảo đảm khác. Đây là bước khởi đầu khá thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng, tạo tiền đề cho sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong những năm tới. Số dư bảo lãnh cho đến 31/12/2001 là 10.15 tỷ đồng. Đây là một khoản tín dụng tiềm ẩn của Ngân hàng, nếu như không có bảo lãnh, Ngân hàng phải dùng nguồn của Ngân hàng để cho khách hàng vay. Ngân hàng mặc dù chưa phải giải ngân ngay khi ký kết hợp đồng bảo lãnh với khách hàng nhưng khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, Ngân hàng phải bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cảu bên bảo lãnh theo yêu cầu đòi tiền đầu tiên của người thụ hưởng và vì thế phải luôn luôn đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện trả nợ thay khi xác định được trách nhiệm và nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Và nguồn ký quỹ khi xin bảo lãnh của người được bảo lãnh là một trong những nguồn trả nợ. Trong năm 2001, nguồn ký quỹ là 8.45 tỷ đồng, tuy chưa phải là một con số lớn nhưng nó cũng đóng góp được phần nào trong tổng nguồn vốn, chiếm 6.06% trong tổng nguồn vốn không kỳ hạn. Bước sang năm 2002, Ngân hàng sau một năm hoạt động đã dần đi vào ổn định. Tổng nguồn vốn cũng tăng lên và đặc biệt là nguồn vốn không kỳ hạn sau khi đã trừ vốn uỷ thác và vốn của các TCTD tăng lên 72.97 tỷ đồng, tức tăng 52.3%, doanh số phát sinh bảo lãnh cũng tăng 34 tỷ đồng so với năm trước, tức 30.85%. Vì thế số tiền ký quỹ được cộng vào nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng là 9.75 tỷ đồng, chiếm 4.6% trong tổng nguồn vốn không kỳ hạn (sau khi trừ đi vốn uỷ thác và vốn các TCTD), giảm tỷ trọng so với năm trước. Mặc dù vậy số vốn để trang trải cho hoạt động tín dụng cũng được tăng lên cụ thể là tăng 15.38% so với năm trước. Năm 2003 và năm 2004 cũng có những sự phát triển tương tự. Hai năm này NHNo&PTNT VN đã phát động các đợt huy động theo hình thức dự thưởng và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Năm 2003 là 308.56 tỷ đồng, và năm 2004 là 420.12 tỷ đồng. Tuy vậy sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh lại không tương xứng với những tiềm năng về huy động vốn, số lượng bảo lãnh vẫn tăng lên so với những năm trước nhưng tăng quá chậm. Doanh số bảo lãnh năm 2003 là 153.3 tỷ đồng, tăng so với 2002 là 9.1 tỷ đồng và năm 2004 là 183.3 tỷ đồng. Doanh số ký quỹ hai năm là : 132.5 tỷ (năm 2003), 143.8 tỷ (năm 2004). Số dư ký quỹ tăng chậm. Cụ thể : năm 2003 là 10.65 tỷ, tức chỉ tăng 0.9 tỷ so với năm trước, và năm 2004 là 15.85 tỷ, chiếm tỷ trọng trong tổng nguồn vốn không kỳ hạn (sau khi trừ vốn uỷ thác và vốn TCTD) lần lượt là 3.45% và 3.77%. Tỷ lệ này cần được tăng lên hơn nữa để cân xứng với sự phát triển của cả Ngân hàng Như vậy qua nghiên cứu, ta thấy rằng việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã tạo ra những bước phát triển mới, đóng góp vào tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong việc phát triển mô hình Ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên Ngân hàng cần phải quan tâm hơn nữa trong việc tăng doanh số bảo lãnh và đặc biệt tăng nguồn ký quỹ cho Ngân hàng, vừa tăng độ an toàn trong hoạt động vừa tận dụng được một nguồn vốn rẻ từ số tiền ký quỹ trong hoạt động bảo lãnh. 2.2.2. Nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. Ngày nay, với xu thế Ngân hàng hiện đại, Ngân hàng không chỉ phát triển hoạt động tín dụng mà còn sử dụng vốn vào những dịch vụ khác, bổ trợ cho hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro cho Ngân hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh là một trong những dich vụ đó, nó cũng là một nghiệp vụ tín dụng nhưng Ngân hàng chỉ phải giải ngân khi khách hàng của họ không thực hiện được hoặc thực hiện không đủ hợp đồng đã ký đối với bên đối tác vì thế nó là khoản tín dụng tiềm tàng đối với Ngân hàng. Với những chính sách đúng đắn, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã thực hiện và phát triển nghiệp vụ này thành một nghiệp vụ quan trọng và không thể thiếu trong công tác tín dụng. Để nghiên cứu vấn đề này ta đi sâu nghiên cứu bảng số liệu sau: Bảng 2.2. Tỷ lệ bảo lãnh trong nghiệp vụ tín dụng. Đơn vị: tỷ đồng 2001 2002 2003 2004 Tổng dư nợ (trừ dư nợ uỷ thác) 190 390 740 960 Số dư bảo lãnh 10.15 15.50 20.05 28.02 Tỷ lệ 5.34 3.97 2.7 2.92 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm) Nhìn vào bảng số liệu ta thấy rằng, quy mô của hoạt động tín dụng của Ngân hàng tăng lên rõ rệt sau mỗi năm. Điều đáng khích lệ đối với Ngân hàng là sau mỗi năm, năm sau đều vượt năm trước gần hai lần. Cụ thể trong năm 2001, Ngân hàng đã cho vay được 190 tỷ đồng, song sang năm 2002 tổng dư nợ này đã lên tới 390 tỷ, tăng 2.05 lần so với năm trước, năm 2003 là 740 tỷ cũng tăng 89.7% so với năm 2002, và đến 2004 tổng số dư nợ là 960 tỷ đồng, tăng 29.7%. Như vậy, Ngân hàng đã phát triển tốt về khối lượng tín dụng trong những năm qua nhưng bên cạnh đó rủi ro đối với Ngân hàng cũng từ đó tăng lên rõ rệt. Đó là điều khó tránh khỏi đối với bất cứ Ngân hàng nào trong hoạt động tín dụng của mình. Để phân tán những rủi ro trên cần phải đa dạng hoá các hình thức tín dụng và NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã thực hiện bảo lãnh cho khách hàng của mình với số lượng bảo lãnh trong từng năm được cụ thể như sau: Năm 2001 là năm đầu tiên thực hiện nghiệp vụ này, Ngân hàng đã đạt được 10.15 tỷ đồng, về tỷ trọng chiếm 5.34% trong tổng số dư nợ. Sang năm 2002, số dư bảo lãnh là 15.5 tỷ đồng và chiếm 3.97% trong tổng dư nợ. Và năm 2003 và 2004 con số về số dư bảo lãnh vẫn tăng lên là 20.05 tỷ (năm 2003) và 28.02 tỷ (năm 2004). Ta thấy rằng từ năm 2002, số dư bảo lãnh có xu hướng giảm về tỷ trọng đối với tổng dư nợ, cụ thể là: năm 2003, số dư bảo lãnh chỉ chiếm 2.7% và năm 2004 là 2.92%. Đây là điều không tốt phản ánh sự phát triển quá chậm của nghiệp vụ bảo lãnh trong Ngân hàng. Như vậy, qua nghiên cứu ta thấy rằng hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng đang từng bước phát triển. Mặc dù vậy sự phát triển này quá chậm so với sự phát triển của tổng dư nợ. Điều này Ngân hàng cần phải xem xét lại để tăng những số liệu này, phù hợp với sự phát triển của toàn Ngân hàng. Về tỷ lệ tăng dư nợ tín dụng của Ngân hàng cũng cần được duy trì và phát triển hơn nữa. Mặc dù vậy việc tăng dư nợ tín dụng cũng phải đồng hành với việc tăng chất lượng tín dụng và đa dạng hoá các hình thức tín dụng. Để đánh giá về chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh, ta cần phải đánh giá tất cả các nghiệp vụ bảo lãnh mà Ngân hàng đã thực hiện. Các chỉ tiêu để đánh giá là: - Tổng phí thu được từ dịch vụ bảo lãnh trên tổng doanh thu dịch vụ Ngân hàng. Nếu hệ số này lớn chứng tỏ hoạt động dịch vụ bảo lãnh tại Ngân hàng rất phát triển, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh không phải là nhỏ. Đối với chỉ tiêu này ta sẽ nghiên cứu trong phần sau. - Chỉ tiêu số lượng các nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trên tổng số lượng các nghiệp vụ đã thực hiện. Nếu số lượng các nghiệp vụ bảo lãnh phải thực hiện thanh toán thay cho khách hàng lớn chứng tỏ hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng có chất lượng không cao. Về điều này, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã thực hiện rất tốt. Trong tất cả các món bảo lãnh, Ngân hàng chưa phải thanh toán thay cho khách hàng. Đây là thành công của Ngân hàng trong nghiệp vụ bảo lãnh. - Chỉ tiêu tổng số tiền Ngân hàng phải trả thay trên tổng doanh thu và chỉ tiêu số món, số tiền mà Ngân hàng trả thay nhưng người được bảo lãnh không hoàn trả được. Đây được coi như là khoản nợ khó đòi của Ngân hàng. Tuy vậy như đã nói ở trên với chỉ số này nghiệp vụ bảo lãnh được đánh giá là có chất lượng cao. Ngân hàng cần duy trì và phát triển điều này và đồng thời tăng thêm các khoản bảo lãnh khi có thể, tránh tình trạng chỉ vì sợ rủi ro mà không dám tham gia bảo lãnh. Để thấy rõ được sự phát triển của tùng loại hình bảo lãnh, ta đi nghiên cứu các số liệu sau: Bảng 2.3. Tình hình thực hiện các loại bảo lãnh. Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % BL thanh toán 48.9 44.37 56.6 39.3 57.3 37.4 63.2 34.5 BL thực hiện HĐ 34.5 31.3 43.4 30.1 50.9 33.2 60.4 33.0 BL dự thầu 21.6 19.6 37.6 26.1 40.8 26.6 51.6 28.2 BL bảo hành 5.2 4.73 5.7 4.5 4.3 2.8 8.1 4.3 Tổng 110.2 100 144.2 100 153.3 100 183.3 100 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm) Qua bảng trên ta nhận thấy rằng, Ngân hàng chưa đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, mới chỉ có 4 loại hình bảo lãnh được thực hiện, bên cạnh đó chỉ tập trung là bảo lãnh trong nước. Trong 4 loại bảo lãnh trên ta thấy rằng khối lượng bảo lãnh thanh toán chiếm đa số và tăng đều trong các năm. Tuy vậy bảo lãnh thanh toán lại có xu hướng giảm dần tỷ trọng và loại hình bảo lãnh có xu hướng phát triển cao nhất lại là bảo lãnh dự thầu. Loại hình bảo lãnh chiếm tỷ trọng thấp nhất là bảo lãnh bảo hành. Cụ thể như sau: Với bảo lãnh thanh toán: Đây là loại hình bảo lãnh chiếm tỷ trọng lớn nhất của Ngân hàng (44.37% năm 2001, 39.3% năm 2002, 37.4% năm 2003 và năm 2004 là 34.5%). Doanh số bảo lãnh cũng được tăng lên qua các năm. Cụ thể năm 2001 là 48.9 tỷ đồng, năm 2002 doanh số là 56.6 tỷ, tăng lên 15.7%, sang năm 2003 doanh số tăng lên là 57.3 tỷ, tức là tăng lên 0.7 tỷ, đây là dấu hiệu giảm dần về tỷ trọng của loai bảo lãnh này, năm 2004 đạt được doanh số là 63.2 tỷ, tương ứng tăng so với năm 2003 là 5,9 tỷ. NHNo&PTNT Nam Hà Nội phát hành loại bảo lãnh này trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán hoặc thanh toán không đủ số tiền theo hợp đồng thì Ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho người được bảo lãnh. Với những kết quả trên đã đạt được, ta thấy rằng NHNo&PTNT Nam Hà Nội là Ngân hàng rất có tiềm năng để phát triển loại bảo lãnh này, tuy vậy tỷ trọng của nó lại bị giảm dần đi. Điều này cần được lưu ý vì Ngân hàng đang có lợi thế về nó trong khi với loại bảo lãnh này rất nhiều Ngân hàng đang gặp khó khăn. Về bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Đây là loại bảo lãnh chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong tổng doanh số bảo lãnh (31.3% năm 2001, 30.1% năm 2002; 33.2% năm 2003 và 33.0% năm 2004), bao gồm nhiều món bảo lãnh với giá trị lớn. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được sử dụng rộng rãi trong cả lĩnh vực thương mại và lĩnh vực xây dựng. Đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, bảo lãnh thực hiện hợp đồng rất được ưa chuộng. Còn trong bảo lãnh xây dựng, loại hình bảo lãnh này nhằm ràng buộc nhà thi công thực hiện đúng cam kết đã ký với chủ đầu tư, nó thường là giai đoạn bảo lãnh tiếp theo cho nhà thầu đã trúng thầu. Những bảo lãnh này có giá trị rất lớn (giá trị bảo lãnh thực hiện hợp đồng không vượt quá 10% giá trị hợp đồng mà những hợp đồng này thường có giá trị hàng chục tỷ đồng). Về bảo lãnh dự thầu: Đây là loại bảo lãnh chiếm tỷ trọng lớn thứ ba trong tổng doanh số bảo lãnh (19.6% năm 2001, 26.1% năm 2002; 26.6% năm 2003 và 28.2% năm 2004). Ta nhận thấy rằng tỷ trọng của loại bảo lãnh này được tăng lên đều đặn theo từng năm và có xu hướng phát triển mạnh hơn bảo lãnh thanh toán. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ khách hàng của NHNo&PTNT Nam Hà Nội phần lớn là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản mà với bất kỳ dự án nào doanh nghiệp muốn tham gia đều phải đăng ký dự thầu và chủ đầu tư thường yêu cầu họ phải có bảo lãnh dự thầu của một Ngân hàng có uy tín. Khi ấy khách hàng sẽ yêu cầu NHNo&PTNT Nam Hà Nội phát hành bảo lãnh dự thầu cho họ. Tuy nhiên doanh số dự thầu thường nhỏ do giá trị bảo lãnh dự thầu thường không lớn (chỉ từ 1-3% giá trị dự thầu). Trong hoạt động bảo lãnh dự thầu thì tỷ lệ trúng thầu của các đơn vị được NHNo&PTNT Nam Hà Nội tham gia bảo lãnh rất cao và tập trung ở nhiều công trình có vốn đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36224.doc
Tài liệu liên quan