Luận văn Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Châu

Mục lục

Trang

Lời nói đầu 1

Chơng 1: Những vấn đề lý luận chung về công tác nâng cao khả năng

cạnh tranh của doanh nghiệp 3

1.1 Nhận thức cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế

thị trờng 3

1.1.1 Cạnh tranh là gì? 3

1.1.1.1 Khái niệm

1.1.1.2 Các loại hình cạnh tranh 4 1.1.1.3 Vai trò của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp 5 1.1.1.4 Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp 6

1.2 Nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề tất yếu của doanh nghiệp

nghiệp trong nền kinh tế thị trờng và tiến trình hội nhập 9

1.2.1 Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh

của doanh nghiệp 9

1.2.2 Các nhân tố cơ bản ảnh hởng tới khả năng cạnh tranh của doanh

Nghiệp 10

Chơng 2

Thực trạng công tác nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty

bánh kẹo Hải Châu 12

2.1 một số khái quát về công ty bánh kẹo hải châu 12

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bánh kẹo

Hải Châu 12

2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty 13

2.1.3 Chức năng nhiệm vụ của công ty 15

2.1.4 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 15

2.2 Khả năng cạnh tranh của công ty bánh kẹo Hải Châu 16

2.2.1 Tình hình cạnh tranh của công ty trên thị trờng 16

2.2.2 Đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty 22

2.2.2.1 Những kết quả đã đạt đợc 22

2.2.2.2 Những mặt tồn tại chủ yếu 23

2.2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên 23

Chơng 3

Định hớng và một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của

công ty bánh kẹo Hải Châu 25

3.1 Định hớng phát triển kinh doanh của công ty bánh kẹo Hải Châu 25

3.1.1 Các chỉ tiêu cần đạt đợc trong năm 2002 25

3.1.2 Định hớng phát triển sản xuất kinh doanh năm 2002- 2003 25

và kế hoạch đến 2005

3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty

bánh kẹo Hải Châu 26

3.2.1 Tăng cờng công tác điều tra nghiên cứu thị trờng 26

3.2.2 Nâng cao chất lợng và đa dạng hoá sản phẩm 28

3.2.3 Tăng cờng các hoạt động quảng cáo, yểm trợ và xúc tiến

bán hàng 30

3.3 Một số khuyến nghị 31

kết luận 33

Phụ lục

Tài liệu tham khảo

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1979 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ni) và bánh lương khô. - Phân xưởng bánh 2: dây chuyền Kem xốp (CHLB Đức) công suất 1,6 tấn/ca chuyên sản xuất kem xốp (tổng hợp, thỏi, ) và dây chuyền Kem xốp phủ Sôcôla (CHLB Đức) công suất 0,5 tấn/ca chuyên sản xuất phủ Sôcôla cho kem xốp, bánh quy và dây chuyền Sôcôla thanh & viên (Hà Lan) công suất 0,5 tấn/ca. - Phân xưởng bánh 3: dây chuyền Đài loan công suất 3,2 tấn/ca chuyên sản xuất bánh qui (Quy hải châu, quy kem, va ni) và bánh lương khô. - Phân xưởng kẹo: Gồm 2 dây chuyền (CHLB Đức) sản xuất kẹo cứng (công suất 3 tấn/ca) và kẹo mềm (công suất 1 tấn/ca). - Phân xưởng Bột canh: dây chuyền thủ công, công suất 20-30 tấn/ca chuyên sản xuất bột canh iót phục vụ PCRLTIOT ( phòng chống rối loạn thiếu iốt) cho dân sinh. - Phân xưởng phục vụ sản xuất: bộ phận In phun điện tử (bắt date) và bộ phận cơ điện. Tính tới thời điểm hiện nay,Công ty bánh kẹo Hải Châu có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh chủ yếu là các mặt hàng sau: + Sản xuất các loại sản phẩm bánh kẹo, lương khô, sôcôla, bột canh các loại (97 sản phẩm) + Kinh doanh vật tư nguyên liệu, xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng như mì ăn liền, các sản phẩm nước uống có cồn và không có cồn, vật tư nguyên liệu bao bì ngành công nghiệp thực phẩm ... 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty Với công nghệ mới và trên cơ sở sắp xếp lại quá trình lao động hợp lí, tổng số công nhân viên toàn công ty là 972 người. Trong đó tỉ lệ lao động gián tiếp chiếm 20% tổng số lao động toàn công ty. Bộ máy quản lý của công ty bao gồm 2 cấp : cấp công ty và cấp phân xưởng và được bố trí theo cơ cấu trực tuyến-chức năng. Hệ thống trực tuyến-chức năng gồm các chuyên gia làm việc chức năng với các chỉ huy trực tuyến khi ra các quyết định quản trị liên quan đến chức năng mà họ phụ trách nên đã khắc phục được tình trạng tách rời người ra quyết định với người thực hiện quyết định. Bên cạnh đó còn có ưu điểm là các mệnh lệnh, nhiệm vụ và thông báo tổng hợp được chuyển lần lượt từ lãnh đạo doanh nghiệp đến cấp dưới một cách trực tiếp, đảm bảo tính thống nhất trong quản trị. Tuy nhiên, hạn chế của hệ thống trực tuyến-chức năng là đòi hỏi hao phí nhiều thời gian trong quá trình chuẩn bị ra các quyết định và cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ chỉ huy trực tuyến với cán bộ chức năng. Đây cũng cũng là điểm yếu mà công ty đang dần khắc phục (xem sơ đồ). Tại công ty bánh kẹo Hải Châu , cấp công ty bao gồm : Ban giám đốc , phòng chức năng , ban xây dựng cơ bản , ban bảo vệ , ban thi đua . ã Ban giám đốc: Gồm một giám đốc và hai phó giám đôc với chức năng và nhiệm vụ như sau : - Giám đốc: phụ trách chung công tác quản lý toàn bộ công tác sản xuất và kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trước nhà nước và cấp trên về mọi hoạt động của công ty. Giám đốc có các nhiệm vụ cụ thể sau: + Chỉ đạo phòng tổ chức lao động phụ trách công tác lao động, tiền lương. + Chỉ đạo phòng kế hoạch-vật tư phụ trách công tác vật tư, bao bì, tiêu thụ. + Chỉ đạo phòng kĩ thuật và trưởng ban xây dựng cơ bản phụ trách công tác tiến bộ kĩ thuật và đầu tư xây dựng cơ bản. + Chỉ đạo trưởng phòng kế toán-tài vụ phụ trách công tác tài chính. - Phó giám đốc kĩ thuật sản xuất: giúp việc cho giám đốc phụ trách một số phòng như: + Phòng kĩ thuật + Phòng tổ chức - Phó giám đốc kinh doanh: giúp việc cho giám đốc, trực tiếp phụ trách các phòng như: + Phòng kế hoạch-vật tư + Phòng hành chính và ban xây dựng cơ bản + Điều hành kế hoạch tác nghiệp của các phân xưởng ã Các phòng, ban: - Phòng tổ chức lao động: tham mưu cho giám đốc về các mặt công tác: + Công tác tổ chức cán bộ, lao động và tiền lương + Soạn thảo các nội quy, quy chế quản lý, các quyết định, công văn, chỉ thị. + Điều động, tuyển dụng lao động + Công tác đào tạo + Công tác bảo hộ lao động + Giải quyết các chế độ chính sách + Công tác hồ sơ nhân sự - Phòng kĩ thuật: tham mưu cho giám đốc về các mặt công tác: + Tiến bộ kĩ thuật + Quản lý quy trình kĩ thuật và quy trình công nghệ sản xuất + Nghiên cứu các mặt hàng mới, mẫu mã bao bì + Quản lý và xây dựng kế hoạch, tu sửa thiết bị + Giải quyết các sự cố máy móc, công nghệ sản xuất + Soạn thảo các quy trình qui phạm + Tham gia đào tạo công nhân và kĩ thuật an toàn -Phòng kế toán-thống kê-tài chính (gọi tắt là tài vụ): tham mưu cho giám đốc về công tác kế toán, thống kê và tài chính. - Phòng kế hoạch vật tư: tham mưu cho giám đốc các mặt công tác: + Các kế hoạch tổng hợp ngắn hạn, dài hạn và kế hoạch tác nghiệp + Kế hoạch giá thành + Điều độ sản xuất hàng ngày ( kế hoạch tác nghiệp) + Cung ứng vật tư, nguyên nhiên vật liệu + Tiêu thụ sản phẩm - Phòng hành chính: tham mưu cho giám đốc về các mặt công tác: + Công tác hành chính quản trị + Công tác đời sống ( nhà ăn) + Công tác y tế sức khoẻ + Công tác nhà trẻ mẫu giáo - Ban bảo vệ: tham mưu cho giám đốc về các mặt công tác: + Bảo vệ, tự vệ đảm bảo an ninh, trật tự cho toàn công ty + Thực hiện nghĩa vụ quân sự với địa phương - Ban xây dựng cơ bản: tham mưu cho giám đốc về các mặt công tác: + Kế hoạch xây dựng nhà xưởng, kho tàng + Thực hiện sửa chữa nhỏ trong công ty 2.1.3 Chức năng nhiệm vụ của công ty Công ty Bánh Kẹo Hải Châu có hệ thống phòng ban trực thuộc ban Giám đốc. Các phòng ban này có nhiệm vụ tư vấn cho Giám đốc và tổ chức thực hiện các mặt hàng do đơn vị mình phụ trách và các vấn đề liên quan nhằm làm cho hoạt động của công ty có hiệu quả. Công ty Bánh Kẹo Hải Châu có nhiệm vụ sản xuất ra những loại bánh kẹo truyền thống, nghiên cứu để cho ra đời những loại bánh kẹo mới có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hiện tại và tiềm năng một cách tốt hơn. Bên cạnh đó, công ty còn phải tự tạo ra nguồn vốn tự có đảm bảo đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, cải tiến kĩ thuật, thực hiện đầy đủ các luật thuế do nhà nước quy định, phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Công ty còn phải quản lý và sử dụng nguồn vốn, chi phí vật tư, tài sản của Nhà nước. 2.1.4 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Kết quả mà công ty đã đạt được như chỉ tiêu tăng trưởng bình quân hàng năm trên 10% là những thành tích đáng khích lệ , mặc dù có sự biến động về kinh tế cả trong và ngoài nước . Kết quả của những thành tích đó được thể hiện qua bảng báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm trở lại đây (xem bảng 1). 2.2 Khả năng cạnh tranh của công ty bánh kẹo Hải Châu 2.2.1 Tình hình cạnh tranh của công ty trên thị trường Bánh kẹo tuy không phải là mặt hàng thuộc nhu cầu thiết yếu như các mặt hàng tiêu dùng thường xuyên, nhưng đối với xã hội ngày càng phát triển, khi nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng thì nhu cầu về bánh kẹo ngày càng lớn. Nhu cầu về bánh kẹo tăng trong các dịp lễ tết, hội hè, sinh nhật, cưới hỏi hay bất cứ cuộc hội ngộ nào. Trong đời sống hàng ngày, bên cạnh các loại hoa quả, bánh kẹo còn được dùng làm quà biếu, tặng người thân ,nhất là các loại bánh kẹo được coi là đặc sản của các vùng. Tại Việt Nam, số lượng các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực sản xuất và kinh doanh bánh kẹo ngày càng lớn. Hiện nay trên cả nước có hơn 30 nhà máy sản xuất bánh kẹo qui mô vừa và lớn và hàng trăm cơ sở sản xuất nhỏ. Có thể kể đến những doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn như Công ty bánh kẹo Hải Hà, Công ty đường Biên Hoà, xí nghiệp liên doanh Vinabico- Kotobuki, Công ty TNHH Kinh Đô... Thị trường bánh kẹo Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn nhưng sức cạnh tranh cũng hết sức khốc liệt. Các công ty lớn đầu tư hàng chục tỷ đồng để nhập các thiết bị hiện đại từ Đài Loan, Đan Mạch, Nhật Bản, Italia nhằm đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh. Các sản phẩm truyền thống mang hương vị dân tộc đang từng bước khôi phục lại vị trí của mình. Hơn nữa, do đặc điểm của ngành là vốn đầu tư ban đầu không lớn chỉ vài trăm triệu đồng - nên ngày càng có nhiều tư nhân tham gia sản xuất. Bên cạnh đó còn là sự xâm lấn của hàng ngoại bằng nhiều con đường khác nhau, với chất lượng cao, mẫu mã đẹp như Singapo, Malaysia, Mỹ phục vụ người nước ngoài và người Việt Nam có thu nhập cao và cả hàng hoá rẻ tiền mà đa dạng của Trung quốc tạo nên sứa ép cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường bánh kẹo. Công ty bánh kẹo Hải Châu – một trong những doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất nước không chỉ phải cạnh tranh với bánh kẹo nội mà còn phải chống chọi với các đối thủ nước ngoài. Để đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường một cách đầy đủ, chính xác và có căn cứ thì ta phải xem xét khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường qua các công cụ mà Công ty sử dụng để cạnh tranh như sản phẩm và chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, mạng lưới phân phối và các hoạt động mang tính yểm trợ khác, đặt trong sự so sánh với các đối thủ khác. a, Sản phẩm và chất lượng sản phẩm: Hiện nay, công ty cạnh tranh trên thị trường với 3 nhóm sản phẩm chính: Bánh các loại: gồm bánh quy, kem xốp và lương khô các loại Kẹo các loại: kẹo cứng và kẹo mềm, không nhân và có nhân Bột canh các loại: bột canh thường và iốt Tổng cộng chủng loại sản phẩm của Công ty là 83 loại khác nhau. Trong những năm trở lại đây, danh mục hàng hoá của Công ty ngày càng phong phú, các mặt hàng kém hiệu quả được nhanh chóng thay đổi bằng các loại khác. Công ty liên tục đưa ra thị trường các sản phẩm mới: Bánh Opera, Kem xốp, Pho mát, Kẹo cứng trái cây, Kẹo mềm trái cây, sữa chua nhằm đáp ứng nhu cầu biến đổi của thị trường. Các sản phẩm tăng thêm đã góp phần lấp đầy khoảng trống thị trường cũng như tăng khả năng cạnh tranh của Công ty. Hoạt động cạnh tranh của Công ty về sản phẩm trong thị trường bánh kẹo gặp nhiều phản ứng mạnh mẽ từ các đối thủ. Ta có thể thấy khi so sánh với Hải Hà (xem bảng 2). Hải Châu luôn bị Hải Hà dẫn trước về chủng loại hàng hoá, nhất là kẹo. Kẹo Hải Hà ngoài các loại kẹo cứng, mềm nhiều loại với tên gọi và kiểu cách phong phú còn có các loại kẹo dẻo như: Jilly, chíp chíp, kẹo gôm rất hấp dẫn với trẻ em. Nhưng Hải Châu lại vượt trên Hải Hà về chủng loại bánh. Cùng với bột canh, đây là mặt hàng Hải Châu tiêu thụ mạnh nhất và là sản phẩm cạnh tranh chính ( chiếm 47% tổng sản lượng tiêu thụ của công ty). Về chất lượng sản phẩm: Trong thời gian vừa qua Công ty đã chú trọng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm từ khâu nguyên vật liệu đầu vào tới khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm đưa vào lưu thông. Công ty đã nghiên cứu tìm tòi nguyên liệu mới phù hợp hơn như đưa tinh dầu các loại hoa quả và tinh dầu chịu nhiệt vào chế biến không những đã làm tăng thêm hàm lượng chất dinh dưỡng mà còn tăng sự hấp dẫn về khẩu vị cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, về mặt này Hải Châu chưa thể cạnh tranh được với kẹo cốm Tràng An có mùi cốm đặc trưng nổi tiếng, hay sản phẩm bánh nướng, bánh dẻo của xí nghiệp bánh mứt kẹo Hà Nội mang hương vị nguyên thuỷ của nông sản, được người tiêu dùng trên cả nước đánh giá rất cao về chất lượng. Để đánh giá đúng chất lượng sản phẩm, Công ty đề ra những tiêu chuẩn chất lượng để so sánh, đồng thời liên tục thay đổi để phù hợp với nhu cầu thị trường (xem bảng 3). Chất lượng sản phẩm của Công ty có thể nói là ổn định và đáp ứng được nhu cầu của nhiều đoạn thị trường: từ bình dân đến cao cấp. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm đối với Công ty Hải Châu là có khả năng. Về mẫu mã bao bì, qui cách bao gói: Chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Bao bì sản phẩm - đặc biệt là sản phẩm bánh kẹo – ngoài chức năng bao gói, bảo quản, thông tin, còn đòi hỏi cao về yêu cầu thẩm mỹ. Trong khi Kinh đô, Bibica đã hình thành được sắc thái riêng của mình qua bao gói sản phẩm thì Hải Châu chưa tạo được dấu ấn nào. Đây không phải là thế mạnh của Hải Châu trong cạnh tranh, đặc biệt gây khó khăn trong việc thâm nhập thị trường của những người có thu nhập cao. b, Giá bán sản phẩm: Chiến lược giá cả đóng vai trò then chốt trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặc dù chỉ hiệu quả trong thời kỳ ngắn nhưng nó là công cụ cạnh tranh đắc lực, ảnh hưởng tới khối lượng sản phẩm bán ra của Công ty và quyết định mua của khách hàng. Để đưa ra một mức giá phù hợp, Công ty phải xem xét tới nhiều yếu tố khác nhau như chi phí sản xuất một sản phẩm, tỉ lệ lợi nhuận đối với sản phẩm đó, mức ưa chuộng của người tiêu dùng, phương thức thanh toán, thời điểm bán và mức giá trên thị trường của các đối thủ cạnh tranh. Nhận thấy các sản phẩm của Công ty đều là mặt hàng tiêu dùng không có tính thiết yếu như gạo, nước, có độ co giãn của cầu theo giá lớn, Công ty xác định giá bán sản phẩm là công cụ đắc lực tạo ra khả năng cạnh tranh lớn. Hiện nay, Công ty đang áp dụng chính sách định giá thấp chủ yếu thông qua biện pháp cắt giảm giá thành sản phẩm mà vẫn giữ được chất lượng sản phẩm như: thay thế và tận dụng triệt để nguyên vật liệu, tiết kiệm chi phí cố định, cải tiến dây chuyền sản xuấtBên cạnh đó, còn tích cực cắt giảm các chi phí thương mại: chi phí vận chuyển hàng hóa, chi phí quảng cáo, khuyến mại, khuếch trương, Nhờ giá bản thấp mà Công ty có thể cạnh tranh tốt trên thị trường. Điều đó được thể hiện qua so sánh giá bán một số sản phẩm sau (xem bảng 4) Ta thấy, Công ty bánh kẹo Hải Châu có giá bán sản phẩm thấp hơn các đối thủ có sản phẩm cùng loại, đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh miền Nam. Sử dụng công cụ này, Công ty có lợi thế hơn hẳn các đối thủ mạnh nhất như : Hải Hà, Biên Hoà, Quảng Ngãi, về các mặt hàng truyền thống tiêu thụ với khối lượng cao như: Kem xốp, Kẹo Sôcôla sữa, Kẹo trái cây,... Đây thực sự là điểm mạnh mà Hải Châu cần phát huy song cũng cần lưu ý nếu định giá quá thấp sẽ gây nghi ngờ về chất lượng sản phẩm. c, Cạnh tranh bằng mạng lưới kênh phân phối Bánh kẹo là loại hàng hoá tương đối rẻ tiền. Giỏ hàng chi tiêu dành cho bánh kẹo của người tiêu dùng là rất nhỏ. Hơn nữa, hành khách mua ở đây thường thoả mãn nhu cầu tức thời. Do vậy, hầu hết khách hàng mua bánh kẹo là nhờ sự sẵn có của chúng trên thị trường. Vì thế, phân phối sản phẩm rộng rãi, đưa sản phẩm đến thị trường một cách nhanh chóng là hết sức quan trọng đối với Công ty bánh kẹo Hải Châu. Hệ thống kênh phân phối sản phẩm của Công ty: gồm 4 kênh - Kênh I: là kênh phân phối trực tiếp sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua 2 cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm ở gần Công ty. Khối lượng tiêu thụ ở 2 cửa hàng này rất nhỏ chiếm từ 4- 5% tổng sản lượng tiêu thụ hàng năm. Ngoài việc bán, các cửa hàng này còn trưng bày và giới thiệu các sản phẩm mới của Công ty. - Kênh II: sản phẩm đến tay người tiêu dùng thông qua những người bán lẻ đến lấy trực tiếp tại Công ty, số lượng hàng hoá tiêu thụ qua kênh này rất ít vì chỉ có những khách hàng buôn bán nhỏ gần Công ty. - Kênh III: là kênh tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của Công ty, hàng năm tiêu thụ khoảng 70 – 75% tổng sản lượng tiêu thụ. - Kênh IV: Công ty thông qua môi giới để xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường nước ngoài. Cửa hàng giới thiệu sản phẩm Đại lý bán lẻ Công ty bánh kẹo Hải Châu Người tiêu thụ cuối cùng Đại lý bán lẻ Đại lý bán buôn (I) (II) (III) Môi giới (IV) Thiết lập được mối quan hệ với khách hàng trên cơ sở trao đổi thông tin, tìm hiểu mối quan hệ với các đối tác khách hàng trong việc vận chuyển và thanh toán dựa trên sự tin cậy lẫn nhau. Hiện nay, Công ty có 3 hình thức vận chuyển: 1. Công ty giao hàng tận nơi cho khách hàng. 2. Công ty hỗ trợ vận chuyển cho khách hàng theo từng tuyến đường, từng cây số với từng đơn giá vận chuyển. 3. Công ty thuê xe vận chuyển ngoài cho khách hàng Với việc áp dụng các loại kênh phân phối và hình thức vận chuyển như trên mà quá trình phục vụ và phân phối sản phẩm được thực hiện nhanh chóng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là các đại lý lớn và lâu dài của Công ty. Đến nay, hệ thống đại lý của Công ty đã mở rộng khắp các tỉnh thành của cả nước tổng các đại lý trong năm 2001 là 305 (Xem bảng 5). Qua bảng trên ta thấy Hải Hà có hệ thống kênh phân phối sản phẩm rất phát triển. Số lượng đại lý của Hải Hà luôn lớn hơn Hải Châu. Tuy nhiên, tốc độ tăng lên của các đại lý, cửa hàng của Hải Châu lại lớn hơn Hải Hà. Điều đó, cho thấy trong những năm gần đây, Công ty đã tập trung nhiều vào công tác xây dựng mạng lưới phân phối sản phẩm. Thị trường chủ yếu của Công ty là ở miền Bắc và miền Trung. Đây là những vùng thị trường tương đối dễ tính, ưa chuộng sản phẩm của Công ty vì giá cả, chất lượng đảm bảo, không quan tâm nhiều đến hình thức mẫu mã bao bì. Vì thế những năm qua Công ty chú trọng phát triển thị trường ở các vùng Lạng Sơn, Tuyên Quang… Thị trường miền Trung chiếm tỉ trọng lớn (hơn 1/3 tổng sản lượng Công ty tiêu thụ được). Tuy nhiên, thị trường Hà Nội vẫn bị trống nhiều chỗ. Thị trường miền Nam đang trong giai đoạn xâm nhập nên chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ (Xem bảng 6 + Bảng 7). Thị trường nước ngoài (Lào, Mông Cổ..) khá khó tính và nhiều đối thủ cạnh tranh, do thị hiếu không phù hợp, khoảng cách xa, tiềm lực của Công ty hạn chế nên chưa đủ điều kiện đáp ứng việc tiếp cận thị trường này nên sản lượng xuất khẩu rất ít không đáng kể. d, Cạnh tranh bằng các hoạt động quảng cáo tiếp thị, yểm trợ bán hàng: Hải Châu sử dụng các công cụ cạnh tranh chủ yếu là giá cả và chất lượng sản phẩm nên các hoạt động về quảng cáo, tiếp thị giao tiếp có tăng cường nhưng chưa lớn (1% doanh số). Các sản phẩm của Công ty ít được người tiêu dùng biết đến qua các hoạt động này. Mặc dù trong những năm qua Công ty đã tiến hành quảng cáo trên truyền hình, báo chí các đài địa phương nhưng nhìn chung các khoản chi phí này chưa thực hiện thường xuyên mà còn kém so với các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại với Hải Châu, Hải Hà - Kinh Đô - Bibica có hoạt động quảng cáo rất mạnh. Đặc biệt khi các Công ty này muốn đưa một sản phẩm mới ra thị trường. Thậm chí, Kinh Đô đã tiến hành quảng cáo cho sản phẩm của mình khi chưa ra đời sản phẩm đó. Trong khi đó, Hải Châu lại rất chậm chạp: sản phẩm Sôcôla đã xuất hiện trên thị trường nhiều ngày thì khách hàng mới biết đến sự tồn tại của nó qua tivi. Công ty bánh kẹo Hải Châu tham gia các hội chợ hàng năm, như hội chợ hàng tiêu dùng sản phẩm, liên tục đạt TOPTEN 1997-2002 và giành nhiều huy chương, song tham gia hội chợ nước ngoài còn ít. Bên cạnh đó, hoạt động khuyến mại của Công ty mới kích thích các đại lý, còn người tiêu dùng chưa được chú trọng. Thực chất, đây là hình thức giảm giá sản phẩm trong một thời gian nào đó, không có tính khuyến khích tiêu dùng và nâng cao được uy tín của Công ty. Chúng ta hãy so sánh hoạt động khuyến mại của Hải Châu và Hải Hà hiện nay (Xem bảng 8+9). Gía bán của Hải Châu thấp hơn Hải Hà, nhưng mẫu mã chủng loại Hải Hà nhiều hơn, hình thức khuyến mại của Hải Hà đa dạng hơn như tặng thưởng áo, mũ mang nhãn hiệu Haihaco, Công ty này không những thực hiện chính sách khuyến mại mà còn thực hiện công tác quảng cáo, tăng thêm uy tín của Công ty trên thị trường. Tóm lại, cạnh tranh bằng các hoạt động quảng cáo khuếch trương là công cụ yếu nhất của Công ty. 2.2.2 Đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty Khả năng cạnh tranh của Công ty được thể hiện ở thị phần Công ty chiếm giữ trên thị trường (Xem bảng 10). Ta thấy trong 3 năm trở lại đây ,Công ty bánh kẹo Hải Châu chiếm trên dưới 5% thị phần bánh kẹo. Mặc dù số lượng tiêu thụ tăng mạnh hơn so với các đối thủ (doanh số năm 2000 tăng 116%, năm 2001 tăng 110% so cùng kỳ năm trước) nhưng thị phần vẫn khó thay đổi và vượt lên trên được các đối thủ đầu ngành như Hải Hà, Biên Hoà Rõ ràng, thông qua việc so sánh tình hình tiêu thụ sản phẩm và thị phần chiếm giữ được của các nhà cung cấp bánh kẹo , Công ty bánh kẹo Hải Châu đang gặp phải những đối thủ tầm cỡ lớn. Các đối thủ này đều có những chiêu thức và chiến lược cạnh tranh khác nhau. 2.2.2.1 Những kết quả đã đạt được. Thị trường không ngừng được mở rộng Thị trường gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Vì vậy, công ty luôn chú trọng tới công tác nghiên cưú thị trường , nắm vững nhu cầu thị trường của công ty ,từ đó triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh .Thị trường của công ty không ngừng được mở rộng, năm 1999 công ty có 180 đại lý lớn nhỏ, năm 2000 có 218 đại lý và năm vừa qua 2001 có 305 đại lý .Địa bàn hoạt động của công ty trải khắp các tỉnh thành trong cả nước. Vừa qua công ty lại đặt thêm một văn phòng đại diện tại Đà Nẵng để củng cố thị trường miền Trung. Chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao và có uy tín trên thị trường Công ty bánh kẹo Hải Châu thường chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ hiện đại hoá thiết bị sản xuất và nâng cao tay nghề công nhân . Ngoài ra , công ty còn rất quan tâm đến sử dụng nguồn nguyên liệu , hương liệu mới để làm cho sản phẩm phong phú thêm. Công ty tổ chức phân phối và có phương thức thanh toán hợp lý địa bàn hoạt động của công ty rất lớn nên công ty đã thiết kế một mạng lưới phân phối hỗn hợp :Vừa có cửa hàng ,đại diện chi nhánh , bán hàng trực tiếp , vừa có đại lý bán buôn ,bán lẻ . Số lượng đại lý tăng nhanh sau mỗi năm. Công ty áp dụng rất nhiều hình thức thanh toán linh hoạt : Tiền mặt ,séc, ngân phiếu ,trả chậm ,trả ngay Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà công ty áp dụng một cách hợp lý .Công ty cũng có chế độ chiết khấu ,khen thưởng cho khách hàng thanh toán nhanh , thuận tiện và khách mua với số lượng lớn. Công tác nghiên cứu thị trường được triển khai mạnh mẽ Sản phẩm của công ty luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của các sản phẩm do các công ty trong và ngoài nước sản xuất. Do vậy , công tác nghiên cứu thị trường luôn được công ty đặc biệt chú ý. Công ty rất quan tâm đến nghiên cứu khách hàng , đối thủ cạnh tranh ,giá cả để đưa ra các chính sách tiêu thụ phù hợp. Các hoạt động yểm trợ khách hàng không ngừng được nâng cao Công ty tham gia vào các hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ triển lãm, công ty bánh kẹo Hải Châu đã đạt được 15 huy chương vàng và mấy năm liền có tên trong TOPTEN.Đặc biệt trong năm nay năm 2002 công ty đã mở thêm phòng xúc tiến thương mại . 2.2.2.2 Những mặt tồn tại chủ yếu Bên cạnh những thành tựu đã đạt được công ty còn có những mặt tồn tại , thiếu sót cần được khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đó là: - Chưa hoàn toàn khắc phục được tính thời vụ của nhu cầu bánh kẹo trong dân chúng (vào dịp lễ tết nhu cầu rất lớn không có đủ hàng để bán song vào những ngày thường thì nhu cầu lại rất ít). - Việc tổ chức, củng cố điều tra nghiên cứu thị trường còn hạn chế, xử lý các thông tin và đưa ra các giải pháp còn chậm chạp - Công tác nghiên cứu và dự báo nhu cầu thị trường chưa được quan tâm đúng mức , chưa có bộ phận chuyên trách đảm nhiệm khiến cho việc xây dựng các chỉ thị, kế hoạch cho năm sau ở Công ty thường theo quán tính , theo kinh nghiệm và ước lượng -Việc quảng cáo , giới thiệu sản phẩm không lớn lại chậm chạp, sản phẩm xuất hiện một thời gian thì người ta mới biết đến sự tồn tại của nó. 2.2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên a, Nguyên nhân chủ quan: Chi phí cho hoạt động Maketting, cho giao tiếp khuếch trương rất thấp, những năm trước chỉ khoảng 1% tổng doanh thu . Đội ngũ cán bộ được đào tạo còn thiếu tính đồng bộ ,chính quy. Hiện nay, cán bộ của Công ty bánh kẹo Hải Châu được đào tạo theo nhiều chuyên nghành kinh tế khác nhau, chuyên nghành Maketting còn quá ít ỏi Mặt khác công tác định giá do cả hai phòng kế hoạch- vật tư và Kế toán- tài vụ cùng đảm nhiệm, nên gây mất thời gian và khó thống nhất. Như vậy gây ảnh hưởng rất lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty. b, Nguyên nhân khách quan: Do tình hình tài chính trong khu vực có nhiều biến động làm cho giá ngoại tệ tăng cao, kéo theo giá vật tư nhập khẩu tăng (bột mì, bơ, sữa..). Do Nhà nước có chính sách bảo hộ ngành mía đường nên giá đường trong nước tăng hơn 2000 đ/kg, trong khi giá bán không tăng làm hiệu quả kinh doanh của Công ty bị giảm sút. Chương 3 Định hướng và một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty bánh kẹo Hải Châu 3.1 Định hướng phát triển kinh doanh của công ty bánh kẹo Hải Châu 3.1.1 Các chỉ tiêu cần đạt được trong năm 2002 Trên cơ sở kết quả sản xuất kinh doanh của năm 2001, mà công ty đã phấn đấu thực hiện được và để đáp ứng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong giai đoạn hiện tại và những năm tới với mục tiêu tăng trưởng bình quân trên 10% theo Nghị quyết của Đảng uỷ công ty bằng các chỉ tiêu cụ thể sau: - Về giá trị tổng sản lượng trên 150 tỷ đồng, bằng 112% so với năm 2001 - Doanh thu (không thuế) trên 170 tỷ, bằng 114% so với năm 2001 - Tổng sản phẩm bánh kẹo, bột canh các loại trên 17.300 tấn, trong đó bánh các loại là 7.200 tấn bằng 112% so với năm 2001; kẹo các loại trên 1.600 bằng 114% so với năm 2001; bột canh 8.500 tấn bằng 104% so với năm 2001. Thu nhập bình quân đầu người trên 1.200.000đ/ng/tháng. 3.1.2 Định hướng phát triển sản xuất kinh doanh năm 2002- 2003 và kế hoạch đến 2005 - Tiếp tục đầu tư chiều sâu, khai thác tiềm năng dây chuyền sản xuất Sôcôla - Khai thác triệt để tiềm năng sẵn có của 2 dây chuyền (kẹo cứng và kẹo mềm) tạo ra các sản phẩm mới, cải tiến cơ giới hóa một số khâu trong dây chuyền kẹo và đóng gói, bổ sung thêm nhiều khuôn kẹo để đổi mới hình thức viên kẹo. - Triển khai hoàn thành dự án khả thi đầu tư mới dây chuyền bánh mềm cao cấp vừa được phê duyệt (dự án bá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Châu.DOC
Tài liệu liên quan