Luận văn Nghiên cứu áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ ở các cơ quan nhà nước cấp tỉnh

 

PHẦN MỞ ĐẦU.7

1. Tính cấp thiết của đề tài.7

2. Tình hình nghiên cứu.9

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .11

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .11

5. Phương pháp nghiên cứu .12

6. Bố cục của đề tài.13

7. Các nguồn tài liệu tham khảo .14

8. Đóng góp của đề tài .15

ChƯơng 1 .17

KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ.17

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH .17

1.1. Các khái niệm .17

1.1.1. Hành chính.17

1.1.2. Vi phạm hành chính.18

1.1.3. Xử phạt vi phạm hành chính.22

1.2. Hệ thống các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính .24

1.2.1. Các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính .24

1.2.2. Nội dung các quy định về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành.26

ChƯơng 2 .

XÁC ĐỊNH CÁC HÀNH VI VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG

CÔNG TÁC LƯU TRỮ Ở CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH

2.1. Quy định của nhà nước Việt Nam về vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ

2.1.1. Quy định về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong công tác lưu trữ. .

2.1.2. Các hành vi bị nghiêm cấm.

2.2. Quy định của một số nước trên thế giới xử phạt vi phạm hành chính

2.2.1. Trung Quốc .

2.2.2. Pháp .

2.2.3. Hàn Quốc .

2.2.4. Nga.

2.2.5. Slovenia .

2.3. Một số vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ từ thực tế hoạt động của các cơ quan

nhà nước cấp tỉnh.

2.3.1.Vi phạm hành chính do các cán bộ, công chức, viên chức thực hiện.

2.3.2.Vi phạm hành chính do các cá nhân, tổ chức khác thực hiện.

2.4. Xác định các hành vi vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ

2.4.1. Vi phạm trong công tác thu thập tài liệu lưu trữ

2.4.2. Vi phạm trong công tác xác định giá trị tài liệu lưu trữ.

2.4.3. Vi phạm trong công tác bảo quản tài liệu lưu trữ .

pdf40 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 495 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ ở các cơ quan nhà nước cấp tỉnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu, tỉnh Hải Dương, Yên Bái, Cao Bằng, Sơn La, Cần Thơ, Hưng Yên, Hà Nam. - Phương pháp tổng hợp, hệ thống: áp dụng phương pháp này để tổng hợp hiện nay tại Việt Nam đã có quy định nào về xử phạt vi phạm trong công tác lưu trữ; tổng hợp các quy định về hành vi vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ của một số nước trên thế giới. - Phương pháp phân tích, so sánh: áp dụng phương pháp này để so sánh, đối chiếu mức xử phạt vi phạm hành chính giữa những hành vi tương tự nhau của các ngành, lĩnh vực khác nhau. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu, tác giả đề xuất quy định chung về việc xử phạt vi phạm trong công tác lưu trữ. - Phương pháp phỏng vấn, trao đổi: áp dụng phương pháp này trong những lần kiểm tra thực tế công tác lưu trữ tại các địa phương, trong các buổi Hội thảo, Hội nghị về ngành, lĩnh vực lưu trữ. Tác giả đã có cơ hội trao đổi với lãnh đạo Chi cục Văn thư - Lưu trữ các tỉnh, công chức, viên chức là những người trực tiếp làm công tác lưu trữ tại các cơ quan, tổ chức để thấy được sự thấu hiểu, quan tâm của các lãnh đạo đối với công tác lưu trữ, thực trạng công tác lưu trữ hiện nay, việc thực hiện các quy định của nhà nước về 14 lưu trữ còn nhiều vấn đề bất cập, trách nhiệm của các cán bộ, công chức, viên chức và các cá nhân, tổ chức có liên quan đối với công tác lưu trữ và sự cần thiết phải có một văn bản quy định về chế tài xử phạt những hành vi vi phạm trong công tác lưu trữ. 6. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 phần: Chƣơng 1: Khái quát các quy định của nhà nƣớc Việt Nam về xử phạt vi phạm hành chính Nội dung Chương 1 tác giả làm rõ một số vấn đề về vi phạm hành chính, đối tượng vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời tác giả cũng làm rõ quy định chung hiện nay về xử phạt vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính. Đây là nội dung tiền đề làm cơ sở cho việc xác định những vi phạm hành chính, việc xử phạt vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ ở Chương tiếp theo. Chƣơng 2: Xác định các hành vi vi phạm hành chính trong công tác lƣu trữ ở cơ quan nhà nƣớc cấp tỉnh Nội dung Chương 2 tác giả tìm hiểu quy định của nhà nước hiện nay về xử phạt vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ; đồng thời tham khảo quy định của một số quốc gia trên thế giới về vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ. Trên cơ sở đó tác giả xác định được các hành vi vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ. Các hành vi vi phạm được xác định ở chương này, sẽ là cơ sở để xác định hình thức xử phạt, mức độ xử phạt đối với từng hành vi vi phạm cụ thể tại Chương 3. Chƣơng 3. Nghiên cứu áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong công tác lƣu trữ Trên cơ sở các quy định chung tại Chương 1, các hành vi vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ tại Chương 2 và nghiên cứu các hình thức, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi thuộc ngành, lĩnh vực khác nhưng có liên quan, có những điểm giống với các hành vi vi phạm quy định trong công tác lưu trữ, tác giả đề xuất các hình thức, biện pháp, thẩm 15 quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với một số hành vi vi phạm tiêu biểu, phổ biến trong công tác lưu trữ. Từ đó, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước về lưu trữ ở trung ương và địa phương, đối với cơ quan, tổ chức ở địa phương để công tác lưu trữ ở địa phương ngày càng phát triển. 7. Các nguồn tài liệu tham khảo Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn này, chúng tôi đã tham khảo các nguồn tư liệu sau: - Các giáo trình về lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ, giáo trình Luật Hành chính. - Tạp chí Văn thư - Lưu trữ Việt Nam. - Tài liệu dịch hiện đang được bảo quản tại Thư viện của Trung tâm Khoa học và Công nghệ văn thư, lưu trữ - Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. - Các văn bản của Nhà nước quy định về xử phạt vi phạm hành chính nói chung, xử phạt vi phạm hành chính các ngành, lĩnh vực khác và các văn bản quy định về công tác lưu trữ; - Báo cáo về công tác lưu trữ của các tỉnh; Báo cáo thống kê cơ sở công tác lưu trữ của các tỉnh; Báo cáo tại các cuộc Hội nghị, Hội thảo của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. - Website: 8. Đóng góp của đề tài Kết quả nghiên cứu của Đề tài nếu được thực hiện tốt sẽ có những đóng góp sau: - Giúp Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước nhìn nhận, đánh giá đúng thực trạng vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ hiện nay tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. - Là cơ sở cho các nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý ngành lưu trữ tham mưu và giúp cơ quan có thẩm quyền xây dựng và ban hành văn bản quy phạm 16 về xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm trong công tác lưu trữ. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cũng nhận được sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của các lãnh đạo, công chức của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước nơi tác giả công tác; các lãnh đạo, công chức, viên chức lưu trữ tại các sở, ban, ngành nơi tác giả đến khảo sát và các thầy, cô Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng. Đặc biệt là sự giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của NGƯT.PGS.TS Vũ Thị Phụng. Qua đây cho phép tác giả gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến sự giúp đỡ quý báu đó. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do khả năng có hạn nên luận văn không tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 24 tháng 02 năm 2016 Học viên Nguyễn Thị Thùy Dung 17 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Hành chính Hiện nay, thuật ngữ hành chính được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo nghĩa rộng, “Hành chính là một thuật ngữ chỉ một hoạt động hoặc tiến trình chủ yếu có liên quan tới những biện pháp để thực thi những mục tiêu, nhiệm vụ đã vạch sẵn. Khi có hai người trở lên cùng hợp tác để thực hiện một mục tiêu chung mà một cá nhân không làm nổi thì ở đó xuất hiện thể thức thô sơ của quản lý nói chung và hành chính là một dạng của quản lý” [15; tr5]. Như vậy, theo nghĩa rộng, hành chính có thể được định nghĩa như những biện pháp tổ chức và điều hành của các tổ chức, các nhóm, các đoàn thể hợp tác trong hoạt động của mình để đạt được mục tiêu chung. Vì quản lý liên quan tới nhiều thể thức hoạt động hợp tác vì vậy tất cả những ai tham gia vào hoạt động hợp tác đều có nghĩa là tham gia vào một dạng hoạt động của quản lý - đó là công việc hành chính. Tất cả các cơ quan, tổ chức, 18 các hiệp hội, trường học và cả gia đình đều cần đến hành chính để đạt được mục tiêu chung. Như vậy, với nghĩa rộng nhất, có thể định nghĩa hành chính như là loại hoạt động quản lý chung nhất của các nhóm người hợp tác với nhau để hoàn thành các mục đích chung. Theo nghĩa hẹp, Hành chính được nhiều học giả xem là hoạt động quản lý các công việc của Nhà nước, xuất hiện cùng với Nhà nước. Ở Trung Quốc, thuật ngữ hành chính có một lịch sử lâu dài. Trong bộ “Tả truyện” viết cách đây hơn 2000 năm đã có ghi “hành kỳ chính sự”, “hành kỳ chính mệnh” để chỉ những hoạt động có liên quan đến nhà nước và quyền lực nhà nước. Theo nghĩa này hành chính thường đi kèm với khái niệm hành chính công [15; tr 6]. Trong từ điển Pháp - Việt, Pháp luật và hành chính có định nghĩa hành chính công như sau: “...là tổng thể các tổ chức và quy chế hoạt động của bộ máy hành pháp có trách nhiệm quản lý công việc hàng ngày của nhà nước do các cơ quan có tư cách pháp nhân công quyền tiến hành bằng những văn bản dưới luật để giữ gìn trật tự công, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hàng ngày của công dân” [41; tr26] - Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ "Hành chính" được hiểu như sau: + Thuộc phạm vi chỉ đạo quản lý việc chấp hành luật pháp, chính sách của Nhà nước, cơ quan hành chính các cấp. + Thuộc về những công việc sự vụ như: văn hoá, tổ chức, kế toán... trong cơ quan Nhà nước; Công tác hành chính, cán bộ hành chính; Có tính chất giấy tờ, mệnh lệnh khác với giáo dục, thuyết phục; Biện pháp hành chính. - Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Hành chính là lĩnh vực hoạt động của chính phủ thực thi quyền hành pháp, thi hành những chính sách và pháp luật của nhà nước” [16, tr215] Tóm lại, hiện nay có 03 cách hiểu về hành chính: 1- Hành chính là hoạt động tổ chức, quản lý và điều hành; 19 2- Hành chính là hoạt động tổ chức, quản lý và điều hành của các cơ quan nhà nước; 3- Hành chính là hoạt động tổ chức, quản lý và điều hành của các cơ quan thuộc khối Hành pháp. Trong phạm vi luận văn này, hành chính được hiểu theo nghĩa thứ 2, tức là hoạt động tổ chức, quản lý và điều hành của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực lưu trữ được thể hiện qua những quy định của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó quy định nhiều việc được phép và không được phép, những chuẩn mực cần tuân thủ và thực hiện. 1.1.2. Vi phạm hành chính 1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính Khái niệm vi phạm hành chính lần đầu được nêu ra trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30 tháng 11 năm 1989. Điều 1 Pháp lệnh này đã chỉ rõ: “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 không trực tiếp đưa ra quy định về vi phạm hành chính nhưng Khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh này đã quy định gián tiếp như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Tại Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định 20 của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt nhưng quan điểm về vi phạm hành chính trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất về dấu hiệu bản chất của loại vi phạm pháp luật này. Trên cơ sở những nội dung đã được nêu ra trong các văn bản quy phạm pháp luật trên, có thể khái quát vi phạm hành chính như sau: Vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm, do cá nhân, tổ chức thực hiện, với lỗi cố ý hoặc vô ý và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Như vậy, vi phạm hành chính có 4 dấu hiệu sau: Thứ nhất, vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước; tác hại hay tính nguy hiểm do hành vi gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Thứ hai, hành vi đó do một cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện. Thứ ba, hành vi đó phải là một hành vi khách quan đã được thực hiện, phải là một việc đã xảy ra thật, chứ không phải chỉ tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là dự định. Thứ tư, hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả và để mặc cho hậu quả xảy ra; hình thức lỗi là vô ý trong trường hợp người vi phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho rằng mình có thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm. 21 Trên đây là 04 dấu hiệu cơ bản để xác định vi phạm đó có phải là vi phạm hành chính hay không. Tuy nhiên, các vi phạm hành chính phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định trong các văn bản pháp luật, có chế tài xử phạt cụ thể, chủ thể vi phạm có nguy cơ phải gánh chịu các hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Từ các đặc điểm, dấu hiệu của vi phạm hành chính nói chung, có thể xác định đặc điểm của vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ như sau: Thứ nhất, vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của pháp luật trong công tác lưu trữ; tác hại hay tính nguy hiểm do hành vi gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Thứ hai, hành vi vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ do một cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện. Thứ ba, hành vi vi phạm hành chính trong công tác lưu trữ đã được thực hiện. Hiện nay, việc vi phạm các quy định về nhà nước trong công tác lưu trữ diễn ra khá phổ biến và đã gây ra những hậu quả nhất định như việc không bảo quản tài liệu theo đúng quy định dẫn đến việc cháy kho tài liệu hoặc mất tài liệu. Thứ tư, hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận thức được vi phạm của mình. Hiện nay, hầu hết các cá nhân, cơ quan, tổ chức đều nhận thức được việc thực hiện không đúng các quy định của nhà nước về công tác lưu trữ là không đúng. Tuy nhiên, vì các lí do khác nhau nên các cá nhân, cơ quan, tổ chức không có biện pháp hoặc không tìm biện pháp để khắc phục, xử lý các vi phạm đang diễn ra. 1.1.2.3. Đối tượng vi phạm hành chính Căn cứ vào các dấu hiệu vi phạm hành chính trên, có thể xác định đối tượng vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính. 22 Theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính được quy như sau: - Đối với cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định, cụ thể là: + Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính trong trường hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, khi xác định người ở độ tuổi này có vi phạm hành chính hay không cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ vì thông thường người thực hiện hành vi với lỗi cố ý là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm đoán nhưng vẫn cố tình thực hiện. + Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính trong mọi trường hợp. - Đối với tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật; cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Như vậy, đối tượng vi phạm hành chính ở đây bao gồm tất cả cá nhân, tổ chức, không phân biệt đối tượng, có hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà thì đều là vi phạm hành chính. 1.1.3. Xử phạt vi phạm hành chính 1.1.3.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính Khoản 2, Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính có những đặc điểm sau đây: 23 - Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, vi phạm hành chính là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính. Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức, biện pháp xử phạt hành chính áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước cụ thể là những cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính. - Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Luật xử lý vi phạm pháp luật và các văn bản pháp luật khác có quy định về xử phạt vi phạm hành chính quy định cụ thể các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, hình thức, mức độ xử phạt hành chính mà họ được phép áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. - Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. - Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở quyết định xử phạt vi phạm hành chính ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Việc quyết định áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm đó thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Việc xử phạt vi phạm hành chính còn hướng tới mục đích giáo dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp luật hành chính nói riêng và pháp luật nói chung, ý thức tôn trọng các quy tắc của đời sống cộng đồng, phòng ngừa các vi phạm pháp luật có thể xảy ra. 1.1.3.2. Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính Như đã đề cập ở trên, đối tượng vi phạm hành chính là các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính. Tuy nhiên, không phải cá nhân, tổ chức nào vi phạm hành chính đều bị xử phạt theo quy định xử phạt vi phạm hành 24 chính. Theo Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều về biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính có quy định: Đối với trường hợp cá nhân là các cán bộ, công chức, viên chức thực hiện hành vi vi phạm khi đang thi hành công vụ, nhiệm vụ và hành vi vi phạm đó thuộc công vụ, nhiệm vụ được giao, thì không bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức. Như vậy, đối với các cán bộ, công chức, viên chức, nếu vi phạm hành chính thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Về mặt bản chất thì đã có hành vi vi phạm hành chính thì đều bị xử phạt vi phạm hành chính. Nhưng việc xử phạt đối với cán bộ, công chức, viên chức vi phạm hành chính không gọi là xử phạt vi phạm hành chính mà gọi là xử lý kỷ luật theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Còn đối với các cá nhân, tổ chức khác khi vi phạm hành chính thì bị xử phạt theo quy định xử phạt vi phạm hành chính. 1.2. Hệ thống các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính 1.2.1. Các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính Xử phạt vi phạm hành chính là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đến nay, hệ thống những quy định về xử phạt vi phạm hành chính nói chung đã từng bước đươc̣ hoàn thiêṇ góp phần quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính ở nước ta, bảo đảm trật tự quản lý nhà nước, an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể các văn bản: Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định việc truy tầm các sự phạm pháp; Sắc lệnh số 175/SL ký ngày 18/8/1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định các biện pháp quản chế hành chính; Nghị quyết số 49/NQ-TVQH năm 1961 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tập trung giáo dục cải tạo những phần tử có hành vi nguy hại xã hội; Quyết định số 123/CP năm 1961 của Hội đồng Chính phủ về cấm cư trú ở những khu vực quan trọng xung yếu về chính trị, kinh tế, quốc phòng; Pháp 25 lệnh xử phạt vi phạm hành chính do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 28 tháng 11 năm 1987 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1990. Đây là văn bản đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm hành chính. Pháp luật xử lý vi phạm hành chính được nâng lên một tầm mới với nhận thức về một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các văn bản thay thế, sửa đổi Pháp lệnh ngày 28/11/1987 bao gồm: Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 07/12/1989 thay thế Pháp lệnh 1987; Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 06/7/1995 thay thế cho Pháp lệnh 1989; Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 02/7/2002 thay thế cho Pháp lệnh năm 1995; Năm 2007, Pháp lệnh này được sửa đổi bằng Pháp lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH sửa đổi một số điều Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh số 44/2008/PL-UBTVQH12 ngày 02/4/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002. Đến ngày 20 tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội nước Côṇg hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Xử lý vi phạm hành chính. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Sau khi Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực, ngày 19 tháng 7 năm 2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, các ngành, các cấp đều đã ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các ngành, lĩnh vực. Theo số liệu thống kê tính đến tháng 6 năm 2015, có 51 Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính và Nghị định sửa đổi bổ sung quy định xử phạt vi phạm hành chính của 46 ngành, lĩnh vực, bao gồm: an ninh trật tự và an toàn xã hội, kế toán, thống kê, quản lý tài sản nhà nước...đã được ban hành và có hiệu lực thi hành. Đối với các cán bộ, công chức, viên chức vi phạm, thì việc xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và viên chức. Cụ thể, hệ thống các văn bản bao gồm: Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm 1998; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công 26 chức ngày 28 tháng 4 năm 2000; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 29 tháng 4 năm 2003; Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức và Thông tư số 03/2006/TT-BNV ngày 08 tháng 02 năm 2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 35/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội, năm 2008 Luật Cán bộ, Công chức được ban hành thay thế hệ thống Pháp lệnh cán bộ, công chức trước đây. Sau đó, một loạt các Nghị định quy định chi tiết những nội dung của Luật Cán bộ, công chức được ban hành, trong đó về vấn đề xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức được quy định tại Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức. Ngoài ra, năm 2010, Luật viên chức cũng được ban hành để quy định riêng cho đối tượng là viên chức và năm 2012, Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức cũng được ban hành. Nhìn chung đến nay, hệ thống các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm, không phân biệt đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan nhà nước hay các cá nhân, tổ chức khác cơ bản đầy đủ và hoàn chỉnh, góp phần lớn trong công cuộc đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. 1.2.2. Nội dung các quy định về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành 1.2.2.1. Quy định về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức a) Quy định về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức Theo quy định tại Điều 78 Luật Cán bộ, công chức thì cán bộ vi phạm quy định của Luật Cán bộ, công chức và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây: khiển trách; cảnh cáo; cách chức và bãi nhiệm. Đối với công chức vi phạm quy định thì phải chịu một trong các hình thức kỷ luật 27 sau: khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; giáng chức; cách chức và buộc thôi việc (Điều 79 Luật Cán bộ, công chức). Nội dung cụ thể từng hình thức kỷ luật được quy định tại Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004312_1_0764_2002776.pdf
Tài liệu liên quan